Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như
Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán. Trong
100 năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, Phật Tì-bà- thi chỉ dùng một bài kệ
làm giới cấm:
Nhẫn nhục là bậc nhất
Phật nói vô vi hơn
Không do cạo râu tóc
Làm sa môn hại người.
Một trăm năm sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm, đức Phật mới lập giới
cấm.
Kế là đức Phật hiệu là Thi- khí Như Lai ra đời, bấy giờ Thánh chúng cũng
có ba hội. Trong 80 năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, Phật chỉ dùng một
bài kệ làm giới cấm:
Nếu mắt thấy tà vạy
Người trí giữ không đắm
Xả bỏ các điều ác
Là trí tuệ ở đời.
Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm, Phật mới đặt ra giới cấm.
Trong Hiền kiếp ấy, đức Phật hiệu là Tì-xá-la-bà ra đời, bấy giờ Thánh
chúng cũng có ba hội. Trong 70 năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, Phật chỉ
dùng một bài kệ làm giới cấm:
Không hại cũng không quấy
Vâng giữ theo đại giới
Ăn uống biết vừa đủ
Giường tòa cũng như vậy
Chuyên tâm và chí thành
Là lời chư Phật dạy.
Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm, Phật mới đặt ra giới cấm.
Trong Hiền kiếp ấy, đức Phật hiệu là Câu-lưu-tôn ra đời, bấy giờ Thánh
chúng có hai hội. Trong 60 năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, Phật chỉ
dùng một hai bài kệ làm giới cấm:
Ví như ông hút hoa
Sắc hoa rất sạch thơm
Lấy vị ngọt cho người
Đạo sĩ vào làng xóm
Không chê bai việc người
Cũng không nhìn phải quấy
Chỉ tự quán thân hạnh
Quán kỹ chánh không chánh.
Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm, Phật mới đặt ra giới cấm.
Trong Hiền kiếp ấy, đức Phật hiệu là Câu-na-hàm Mâu-ni Như Lai ra đời,
bấy giờ Thánh chúng có hai hội. Trong 40 năm đầu, Thánh chúng thanh
tịnh, Phật chỉ dùng một bài kệ làm giới cấm:
Giữ chí chớ khinh lờn
Nên học đạo vắng lặng
Bậc hiền không lo buồn
Nên giữ tâm tịch diệt.
Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm, Phật mới đặt ra giới cấm.
Khi đức Phật hiệu là Ca-diếp ra đời, bấy giờ Thánh chúng có hai hội.
Trong 20 năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, Phật chỉ dùng một bài kệ làm
giới cấm:
Chớ làm các điều ác
Vâng làm các điều lành
Giữ tâm ý thanh tịnh
Là lời chư Phật dạy.
Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm, Phật mới đặt ra giới cấm.
Khi Phật Thích-ca Mâu-ni Như Lai ra đời, có một hội Thánh chúng gồm 1250
người. Trong 12 năm đầu không có người phạm giới, Phật dùng một bài kệ
làm giới cấm:
Giữ miệng ý thanh tịnh
Thân hành cũng thanh tịnh
Thanh tịnh ba hạnh này
Tu hành đạo tiên nhân.
Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm, Phật mới có 250 giới cấm v.v…
Thời kỳ tăng chúng được thanh tịnh không cần đến giới luật, giảm dần qua
các đời. So với Thánh chúng trong các hội, thánh chúng của Phật Thích-ca
cũng rất ít. So với tuổi thọ của các Phật trước, tuổi thọ của Phật
Thích-ca cũng rất ngắn. Tuy vậy, sau khi các đức Phật quá khứ diệt độ,
pháp không trụ lâu ở đời. Chỉ sau khi
Phật Thích-ca diệt độ, chánh pháp mới trụ lâu ở đời. Trong kinh, Phật
nói với ngài A-nan: “Không nên nghĩ đệ tử của ta ít. Đệ tử của ta ở
phương đông nhiều vô ức ngàn, ở phương nam cũng vô số ức ngàn. Cho nên,
này A-nan! Hãy nghĩ như vầy: Phật Thích- ca của ta thọ mạng rất dài lâu.
Vì sao? Vì nhục thân tuy diệt độ nhưng pháp thân tồn tại. Đây là nghĩa
vừa nói. Ông hãy ghi nhớ lấy!”[*] Điều
này ứng với việc Phật đã nói khi vừa sinh ra và đi đến bước thứ bảy:
“Trên trời dưới đất chỉ mình ta là tôn quí.” Ta, chỉ cho pháp thân mà
Phật đã nói, là tánh thể mà chúng sinh và Phật đồng có, chỉ do mê hay
ngộ mà ẩn hay hiển, không phải chỉ cho nhục thân hay cái tôi của
Thích-ca Mâu-ni.
Lâu xa về sau, đến thời Phật Di-lặc ra đời, khi ấy ở Diêm-phù-đề, các
thứ núi sông vách đá đều tự tiêu diệt, đất đai bằng phẳng ngay ngắn như
gương sáng, thời tiết khí hậu điều hòa, thân người không có tham dục,
sân nhuế, ngu si, lười biếng v.v… Y phục tự có. Đại địa tự nhiên sinh
lúa. Tiền tài của cải như ngói gạch không ai quan tâm. Lúc ấy có một đại
thần tên là Tu-phạm-ma, không cao không thấp, không mập không ốm, không
trắng không đen, không già không trẻ. Vợ là Phạm-ma-việt, không có tám
mươi bốn trạng thái của người nữ, không bệnh, ý không tán loạn. Ở cung
trời Đâu Suất, Bồ-tát Di-lặc quán sát thấy cha mẹ không già không trẻ,
liền giáng thần hạ sinh từ hong bên phải như Thích-ca. Ngài cũng có ba
mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân màu hoàng kim. Đại thần đặt
tên cho con là Di lặc.
Di-lặc ở nhà không bao lâu bèn xuất gia học đạo. Xuất gia vào nửa đêm,
ngay đêm đó thành đạo dưới cội Long Hoa. Cõi nước rung động theo sáu
cách. Địa thần bảo nhau: “Di- lặc đã thành Phật”. Lời ấy truyền đến cung
trời Tứ thiên vương, rồi đến Tam thập tam thiên, Diệm-ma thiên, Đâu suất
thiên v.v… Ma vương đem vô số chư Thiên cõi dục đến lễ bái cung kính.
Cha Tu-phạm-ma, mẹ Phạm- ma-Việt, trưởng giả Thiện Tài v.v… mỗi người
đều mang tám muôn bốn ngàn người đến chỗ Di-lặc. Di-lặc vì họ mà thuyết
pháp Tứ đế, bố thí, trì giới v.v…
Phật Thích Ca nói với đệ tử hành 12 hạnh đầu đà là Đại Ca-diếp, Sơ tổ
của Thiền tông, như sau: “Này Đại Ca-diếp! Ông không nên nhập niết bàn.
Nên đợi đến khi Di-lặc ra đời. Vì sao? Vì đệ tử của Phật Di-lặc giáo hóa
đều là đệ tử của ta, do ta hóa độ để lại, đã sạch hữu lậu. Đại Ca-diếp
sẽ trụ trong núi ở thôn Tì-đề xứ Ma-kiệt cho đến khi Phật Di-lặc mang
đại chúng vây quanh núi. Nương ân đức Phật, các quỉ thần vì Phật mở cửa,
khiến mọi người thấy được Ca-diếp đang tọa thiền trong đó. Thấy rồi,
vô số chúng sinh chấm dứt trần cấu được pháp nhãn thanh tịnh. Chín mươi
sáu ức người đều chứng La- hán. Vì sao? Vì đều nhận sự giáo hóa của ta.
Cũng do nhân duyên bốn món cúng dường: Bố thí, nhân ái, lợi hành và đồng
sự. Này A- nan! Bấy giờ Di-lặc sẽ đắp y tăng-già-lê của Ca-diếp. Khi đó
thân thể Ca-diếp tan rã. Di- lặc liền mang các thứ hương hoa cúng dường
Ca-diếp. Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn đều có tâm cung kính đối với chánh
pháp. Di-lặc cũng do chánh pháp hóa mà có được, thành tựu đạo vô thượng
chánh giác”. Xem ra, Đại Ca-diếp tuy không lộ diện, nhưng lại chính là
người nắm giữ mạng mạch Phật pháp từ thời Phật Thích-ca cho đến Di-lặc.
Thời Di-lặc, trong 1000 năm đầu, chúng tăng không lỗi lầm. Di-lặc thường
dùng một bài kệ làm giới cấm:
Miệng và ý không ác
Thân cũng không phạm ác
Nên trừ ba hạnh này
Chóng thoát vượt sinh tử.
Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm, Di- lặc mới lập giới cấm.
Phật Di-lặc thọ tám vạn bốn ngàn tuổi, pháp để lại tồn tại tám vạn bốn
ngàn năm. Vì chúng sinh thời ấy đều là hàng lợi căn. Ngài n ói: “Trong
chúng này có đệ tử của Phật Thích-ca thời quá khứ từng tu phạm hạnh mà
đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca vâng giữ pháp ấy mà đến chỗ ta. Hoặc ở
nơi Thích-ca cúng dường Tam bảo mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca tu
căn lành trong khoảng khảy móng tay mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca
tu Tứ vô lượng tâm mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca thọ trì tam qui
ngũ giới mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca tạo dựng tháp miếu chùa viện
mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca sửa sang chùa cũ mà đến chỗ ta. Hoặc
ở nơi Thích-ca thọ trì Bát quan trai mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca
dùng hương hoa cúng dường mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca nghe Phật
pháp buồn khóc rơi lệ mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca suốt đời tu
phạm hạnh mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca viết kinh đọc tụng mà đến
chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca thừa sự cúng dường mà đến chỗ ta”. Xem ra,
hội Long Hoa gần như ai cũng có phần. Chỉ cần tu căn lành trong khoảng
một khảy móng tay là đã gieo được cái nhân để gặp Phật Di- lạc trong
tương lai, huống là đọc tụng, biên chép, thọ trì các kinh luận Đại thừa.
Đã gieo nhân thì đủ duyên sẽ có quả. Nhanh hay chậm, lâu hay mau là do
chúng ta tỉnh giác mau hay chậm, chịu tinh tấn tu hành hay giải đãi làm
biếng v.v… Song chỉ khi tâm không rơi vào nhị biên phân biệt, ý không
tán loạn, thì Di-Lặc trong mỗi chúng ta mới thật sự đản sinh.
Phật Thích-ca dạy: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân nào muốn được gặp Di-lặc
và ba hội chúng thanh văn, muốn ăn lúa thóc tự nhiên và y phục tự nhiên,
sau khi chết sinh cõi trời thì hãy nên gắng sức tinh tấn, đừng sinh giải
đãi, nên cúng dường thừa sự các Pháp sư, cúng dường các thứ hương hoa
hương thơm đừng để thiếu thốn…”. Cúng dường trân châu, mã não, đất đai,
chùa chiền v.v… thì có khi chúng ta không đủ điều kiện, nhưng cúng dường
hương hoa hay thừa sự các Pháp sư thì chắc không khó. Chỉ là tùy tâm của
mỗi người có chịu thừa sự, lấy đó làm pháp cúng dường không thôi.
Nhân mùa Phật đản, xin nguyện tất cả chúng sinh, dù là Phật tử hay chưa
là Phật tử, đều được “Miệng và ý không ác. Thân cũng không làm ác”, lấy
đó làm ‘pháp cúng dường’ cúng dường mười phương chư Phật cùng tất cả
chúng sinh trong mười phương pháp giới.
[*] Kinh Tăng Nhất A-hàm quyển 3.