Nguyện thay chúng sanh thọ vô lượng khổ
nguyen thay
NGUYỆN THAY CHÚNG SANH THỌ VÔ LƯỢNG KHỔ
Hiểu đúng về khổ
Một số không ít người khi nghe câu “đời là bể khổ” thì cho rằng Phật giáo
bi quan, yếm thế. Những người ham thích ngũ dục lại càng cho rằng Phật giáo là
triết lý màu xám. Ngay cả những người tự nhận mình là đệ tử Đức Phật cũng chưa
chắc hiểu đúng về chữ
khổ
theo lời dạy của Đức Phật. Mà trong kinh A-nậu-la-độ,
Đức Phật đã dạy: “Như Lai chỉ giảng dạy về
khổ
và con đường diệt
khổ”.
Nếu không hiểu đúng về
khổ
thì có nguy cơ chúng ta không thể nào thực sự thoát khỏi khổ. Khổ là một sự thật
cao quý được Đức Phật giảng dạy lần đầu tiên trong kinh Chuyển
pháp
luân:
“Đây là Thánh đế về
khổ,
này các Tỷ-kheo. Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu, bi,
khổ, ưu, não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly
là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ”.
Người học Phật cần hiểu đúng về lời dạy trên của Đức Phật như phần giải thích
của ngài Xá-lợi-phất:
“Này chư Hiền, thế nào là sanh? Mỗi mỗi hạng chúng sanh, trong từng giới
loại, sự xuất sản, xuất sanh, xuất thành, tái sanh của chúng, sự xuất hiện các
uẩn, sự hoạch đắc các căn. Này chư Hiền, như vậy gọi là sanh.
Này chư Hiền, thế nào là già?
Mỗi mỗi hạng chúng sanh trong từng giới loại, sự niên lão, sự hủy hoại, trạng
thái rụng răng, trạng thái tóc bạc, da nhăn, tuổi thọ rút ngắn, các căn hủy
hoại. Này chư Hiền, như vậy gọi là già.
Này chư Hiền, thế nào là chết? Mỗi mỗi hạng chúng sanh trong từng giới loại, sự
tạ thế, sự từ trần, thân hoại, sự diệt vong, sự chết, sự tử vong, thời đã đến,
các uẩn đã tận diệt, sự vất bỏ tử thi. Này chư Hiền, như vậy gọi là chết.
Này chư Hiền, thế nào là sầu? Này chư Hiền, với những ai gặp phải tai nạn này
hay tai nạn khác; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay đau khổ khác, sự sầu
của người ấy. Này chư Hiền, như vậy gọi là sầu.
Này chư Hiền, thế nào là bi? Này chư Hiền, với những ai gặp phải tai nạn này hay
tai nạn khác; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay đau khổ khác, sự bi ai, sự
bi thảm, sự than vãn, sự than khóc, sự bi thán, sự bi thống của người ấy. Này
chư Hiền, như vậy gọi là bi.
Này chư Hiền, thế nào là khổ? Này chư Hiền, sự đau khổ về thân, sự không sảng
khoái về thân, sự đau khổ do thân cảm thọ, sự không sảng khoái do thân cảm thọ.
Này chư Hiền, như vậy gọi là khổ.
Này chư Hiền, thế nào là ưu? Này chư Hiền, sự đau khổ về tâm, sự không sảng
khoái về tâm, sự đau khổ do tâm cảm thọ, sự không sảng khoái do tâm cảm thọ. Này
chư Hiền, như vậy gọi là ưu.
Này chư Hiền, thế nào là não? Này chư Hiền, với những ai gặp tai nạn này hay tai
nạn khác; với những ai cảm thọ sự đau khổ này hay đau khổ khác, sự áo não, sự bi
não, sự thất vọng, sự tuyệt vọng của người ấy. Này chư Hiền, như vậy gọi là não.
Này chư Hiền, thế nào là cầu bất đắc khổ? Này chư Hiền, chúng sanh bị sanh chi
phối, khởi sự mong cầu: “Mong rằng ta khỏi bị sanh chi phối! Mong rằng ta khỏi
phải đi thác sanh”. Lời mong cầu ấy không được thành tựu. Như vậy gọi là cầu bất
đắc khổ. Này chư Hiền, chúng sanh bị già chi phối... chúng sanh bị bệnh chi
phối... chúng sanh bị chết chi phối... chúng sanh bị sầu, bi, khổ, ưu, não chi
phối, khởi sự mong cầu: “Mong rằng ta khỏi bị sầu, bi, khổ, ưu, não chi phối!”.
Lời mong cầu ấy không được thành tựu. Như vậy gọi là cầu bất đắc khổ.
Này chư Hiền, như thế nào là tóm lại, năm thủ uẩn là khổ? Như sắc thủ uẩn, thọ
thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn. Này chư Hiền, như vậy là tóm
lại, năm thủ uẩn là khổ”.
Thanh tịnh đạo luận
cắt nghĩa về câu “Tóm lại, năm thủ uẩn là khổ” như sau: “Năm thủ uẩn có sanh
là cái khổ đầu tiên, già là khổ chặng giữa, chết là khổ chặng cuối. Khổ nung nấu
tâm can nạn nhân của nỗi đau đớn đe dọa sự chết chóc, thì gọi là
‘sầu’.
Khổ dưới hình thức khóc than ở nơi người không chịu đựng nổi, gọi là
‘bi’.
Cái khổ do thân tứ đại bị xáo trộn gọi là
‘khổ’.
Nỗi khổ bức bách tâm hồn kẻ phàm phu khi phải đương đầu với nỗi đau thể xác, thì
gọi là
‘ưu’.
Khổ ngấm ngầm nơi một kẻ có nhiều khổ đau chồng chất gọi là
‘não’.
Khổ do thất vọng nơi những người mà niềm mong ước bị ngang trái phũ phàng, gọi
là
‘cầu
bất đắc khổ’.
Bởi thế, khi xét những khía cạnh khác nhau, ta thấy rằng chung quy, năm uẩn bị
chấp thủ (cho là bản ngã của mình) chính là khổ. Nói làm sao xiết, tất cả những
nỗi khổ muôn màu, muôn vẻ, dù có trải qua nhiều đời, kiếp cũng không nói cho hết
được. Bởi vậy, Đức Thế Tôn dạy:
‘Nói
tóm lại, năm thủ uẩn là khổ’
để ám chỉ rằng, tóm lại, tất cả khổ đều hiện hữu trong mỗi uẩn bị chấp thủ, cũng
như vị mặn của biển được tìm thấy trong mỗi giọt nước biển’.
Ở một khía cạnh khác, tất cả
khổ
được xếp vào ba loại: khổ khổ, hoại khổ, và hành khổ. Như Thanh
tịnh
đạo
luận đã giải thích:
“Cảm
thọ khổ về thân và tâm gọi là khổ khổ, vì tự tính nó là khổ, và vì nó đau đớn
thực sự. Cảm thọ lạc về thân và tâm gọi là hoại khổ, vì đó là nhân sinh ra khổ
khi cảm thọ ấy biến hoại. Xả thọ và các hành khác trong ba cõi là hành khổ, vì
chúng bị bức bách trong sinh diệt”.
Tất cả những cắt nghĩa trên cho chúng ta nhìn nhận về
khổ
một cách đầy đủ và đúng
Chánh
pháp. Như
thầy
Thích Nhất Hạnh từng làm rõ một ngộ nhận phổ biến rằng
“khổ
khổ”
là nỗi khổ này chồng chất nỗi khổ khác. Theo thầy,
“khổ
khổ”
cần được hiểu là một cảm thọ khó chịu.
Hoặc thầy cũng nhấn mạnh rằng chấp thủ năm uẩn mới là khổ, chứ bản thân năm uẩn
không khổ.
Thanh văn tu theo pháp Tứ
đế.
Sau khi nhận thức về Khổ
đế,
hành giả quán chiếu về Tập
đế
tức là những nguyên nhân gây ra khổ đau. Lý
Mười
hai nhân duyên cho ta cái nhìn toàn cảnh về Tập
đế:
“Trong năm uẩn không có gì có thể được gọi là ta, là người, là thọ mạng.
Không thấy được sự thật đó tức là vô minh. Vì vô minh mà có vọng động; vì có
vọng động mà có vọng thức; vì có vọng thức mà có sự phân biệt chủ thể và đối
tượng nhận thức; vì có chủ thể và đối tượng nhận thức mà có sự phân biệt sáu căn
và sáu trần; vì có sự phân biệt sáu căn và sáu trần mà có xúc chạm; vì có xúc
chạm mà có cảm thọ; vì có cảm thọ mà có tham ái; vì có tham ái mà có vướng mắc;
vì có vướng mắc mà có hiện hữu rồi sinh tử, khổ não và u sầu không thể kể xiết”.
Tứ
diệu
đế
xác nhận có sự vắng mặt của khổ đau, tức là Diệt đế, và Bát Chánh
đạo
là con đường đưa đến
khổ
diệt. Tuy nhiên, đối với hành giả tu Bồ-tát
đạo thì cần phải phát khởi Bồ-đề-tâm,
hành
Bồ-tát hạnh
mà câu “Nguyện thay chúng sanh thọ vô lượng khổ” là một thệ
nguyện điển hình.
Có thể thay chúng sanh thọ vô lượng khổ được hay không?
Đây là đề tài của một buổi pháp đàm mà chúng tôi từng tham dự. Trong buổi pháp
đàm đó
cũng có người cho rằng không thể nào thay chúng sanh chịu khổ được.
Phải chăng
do giáo lý
Đại thừa quá cao siêu và rộng lớn?
Câu
“Nguyện
thay chúng sanh thọ vô lượng khổ”
có trong kinh Bát đại nhân giác:
Đệ bát giác tri
Sanh tử xí nhiên
Khổ não vô lượng
Phát Đại thừa tâm
Phổ tế nhất thiết
Nguyện đại chúng sanh
Thọ vô lượng khổ.
Nguyện thay chúng sanh thọ vô lượng khổ là tâm nguyện của một vị Bồ-tát,
là nội dung của
Bồ-đề tâm.
Xưa kia tiền thân Đức Phật tạo nghiệp xấu ác, bị đọa địa ngục phải kéo xe lửa.
Ngục tốt cho hay chờ chừng nào có kẻ nào tạo nghiệp tương tự bị đọa xuống, có
người thay thế thì hình phạt mới chấm dứt. Lòng thương xót khởi lên, tiền thân
Đức Phật phát lời thệ nguyện rằng, tôi nguyện chịu hình phạt này thay chúng
sanh, mong cho đừng ai tạo nghiệp để chịu quả báo như tôi. Ngay lúc đó Ngài
thoát khỏi địa ngục.
Không phải chỉ có chúng sanh bên ngoài, mà bên trong mỗi chúng ta cũng có chúng
sanh. Những tâm niệm tham, sân, si... chính là chúng sanh. Như Phát Bồ-đề
tâm
văn
của ngài Thật Hiền có nói: “Nếu biết tự tánh là chúng sanh, nên nguyện độ
thoát, tự tánh là Phật đạo, nên nguyện tu thành”. Còn ở trong luân hồi là
còn khổ đau vô lượng. Nỗi khổ này, ta cũng như người. Ai cũng mong muốn được
hạnh phúc và thoát khỏi khổ đau. Nguyện thay chúng sanh thọ vô lượng khổ đó là
một tâm nguyện phát sinh từ tình thương yêu và đồng cảm với nỗi khổ của người
khác. Khổ đau không phải là vấn đề cá nhân, và hạnh phúc cũng vậy. Chúng ta sống
trong một mối liên hệ cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh.
Sư
ông
Nhất Hạnh đã diễn tả rất hay trong bài thơ Tương tức:
Anh là tôi
Và tôi là anh
Anh không thấy sao
Rằng chúng ta tương tức?
Anh nuôi dưỡng đóa hoa trong tim anh
Để cho tôi xinh đẹp
Tôi chuyển hóa rác phiền não trong tôi
Để cho anh không phải nhọc nhằn
Tôi nâng đỡ anh
Anh yểm trợ tôi
Tôi có mặt trên đời để cho anh an lạc
Anh có mặt đó để cho tôi niềm vui.
Hiểu được tương tức, chúng ta không có quyền đau khổ vì nếu chúng ta đau khổ,
những người xung quanh chúng ta sẽ lãnh đủ. Nhưng đau khổ là một sự thật và nó
là vô lượng. Vì vậy nên Bồ-tát
phát lời thệ nguyện nhận chịu đau khổ thay tất cả chúng sanh. Khi đó nỗi đau khổ
của Bồ-tát
trở nên có ý nghĩa. Vì tâm niệm ích kỷ
hẹp hòi nên làm chúng sanh. Vì tâm niệm vị tha rộng lớn nên hưởng niềm vui của
Bồ-tát.
Bồ-tát
cầu Phật đạo vì lợi ích chúng sanh chứ không phải mưu cầu giải thoát cho riêng
mình. Và Bồ-tát
ý thức rằng chính vì lợi ích chúng sanh nên quả Phật mới thành tựu. Điều đó bộc
lộ rõ qua bài kệ đầu trong tám bài kệ Chuyển tâm của Phật giáo Tây Tạng:
Với quyết tâm thành tựu
Lợi lạc lớn lao nhất
Nhờ tất cả chúng sanh
Tôi nguyện luôn giữ gìn
Chúng sanh trong đáy tim
Vì chúng sanh quý hơn
Cả bảo châu như ý.
Từ Bồ-đề
tâm
nguyện đến Bồ-đề
tâm
hạnh
Cởi mở hơn một chút, có thể thấy những trang web của Công giáo vẫn trích đăng
những giáo
lý
của Đức Phật, các linh mục vẫn dẫn dụ những câu chuyện về Đức Phật khi giảng dạy
cho giáo dân. Đức Đạt-lai
Lạt-ma
thứ mười bốn có nói rằng: “Tôi không quan tâm đến tôn giáo của anh. Điều tôi
quan tâm là cách anh đối xử với người đồng loại, với gia đình và xã hội”. Và
chính
ngài
cũng dạy: “Tình yêu thương đồng loại là thước đo lòng tôn Phật kính Chúa”.
Có lẽ vì thế nên bản thân chúng tôi rất xúc động khi nghe bài kinh Hòa bình,
một bài cầu nguyện rất nổi tiếng của Công giáo. Dù đây là lời cầu nguyện trong
một truyền thống tôn giáo khác nhưng nội dung không khác những lời dạy của Đức
Phật và các bậc Thánh nhân:
Lạy
Chúa từ nhân xin cho con biết
mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.
Lời cầu nguyện này gần với giáo lý
Phật tánh bình đẳng.
Chúa có trong mọi người;
và
mọi chúng sanh đều có Phật tánh.
Xin Chúa hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa Để con đem yêu thương vào nơi
oán thù, đem an
hòa
vào nơi tranh chấp, đem chân lý
vào chốn lỗi lầm.
Đoạn này gợi cho ta về
Lục
độ của Bồ-tát:
bố thí độ xan tham, trì giới độ phá giới, nhẫn nhục độ sân hận, tinh tấn độ giãi
đai, thiền định độ tán loạn, trí tuệ độ ngu si.
Lạy Chúa xin hãy dạy con tìm an ủi người hơn được người ủi an, tìm hiểu biết
người hơn được người hiểu biết, tìm yêu mến người hơn được người mến yêu. Vì
chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại
bản thân, vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ ...
Những câu trên lại nhắc ta nhớ lời dạy của Khổng Tử:
Kỷ
sở bất dục vật thi ư nhân
-
Điều
gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác.
Lời dạy vị tha của bài kinh Hòa bình rất tương đồng với tinh thần Bồ-tát
đạo và giáo lý
vô ngã của đạo Phật. Vị tha chính là bí quyết của hạnh phúc.
Bồ-đề
tâm
nguyện là ước muốn thành Phật vì lợi ích chúng sanh và Bồ-đề
tâm
hạnh là cụ thể hóa ước muốn đó bằng hành động. “Tôi nguyện sẽ là người bảo vệ
cho những kẻ yếu đuối, người chỉ đường cho những hành khách, một con thuyền hay
một cái cầu cho những kẻ muốn qua sông. Một ngọn đèn cho những ai đi trong đêm
tối, một cái giường cho những ai muốn nằm nghỉ, một kẻ nô lệ cho những ai cần nô
lệ. Tôi nguyện sẽ là viên ngọc phép, một lu thần, một linh chú, một loại cỏ
thuốc, một cây như ý và một con bò ước cho tất cả chúng sinh. Cũng như quả đất
(địa đại) và các đại khác cần thiết cho đời sống của vô số chúng sinh trong khắp
hư không, tôi nguyện sẽ là người lợi ích cho tất cả mọi loài cho tới khi nào
không còn một ai chưa giải thoát”.
Đây là một ví dụ của Bồ-đề
tâm
nguyện. Còn Bồ-đề
tâm
hạnh là quyết tâm thực hiện mọi việc làm lợi ích cho chúng sanh mà trước hết là
tiêu diệt phiền não của chính mình: “Ta đã phát nguyện cứu độ chúng sinh
trong mười phương ra khỏi ái dục, phiền não trong khi chính ta chưa tự độ thoát!
Không biết tự lượng khả năng của mình, ta đã ngạo nghễ phát nguyện một cách vô ý
thức. Vậy từ nay ta phải không ngừng chiến đấu, tiêu diệt phiền não của chính
mình trước”.
Nói như
Hòa
thượng Tuệ Sỹ, Bồ-đề
tâm
là “chí nguyện nóng bỏng của một chúng sinh tự thấy mình đang sống trong cảnh
tối tăm, giữa đọa đày khổ nhục, mong tìm một con đường sáng không những để giải
thoát bản thân khỏi những đe dọa áp bức mà còn là để giải thoát cho tất cả những
người cùng cảnh ngộ”.
Thực tế, trên con đường tìm cầu giải thoát, không dễ để có được Bồ-đề
tâm,
mà lại quá dễ để đánh mất hay bị bào mòn. Thầy
tổ
không hiểu, huynh đệ không thương, những khó khăn về vật chất lẫn tinh thần...
và muôn ngàn trở ngại khác làm Bồ-đề
tâm
trong lòng người tu bị héo úa. Cũng như các tu sĩ Tây Tạng chịu sự tra tấn của
nhà tù Trung Quốc, khi nhà báo hỏi có trường hợp nào tính mạng của các ngài bị
gặp nguy hiểm không thì câu trả lời nhận được thật thấm thía: “Có. Đó là khi
chúng tôi tưởng sắp đánh mất tình yêu thương của mình dành cho người Trung Hoa”.
Không một lời tố cáo, oán trách hay hận thù, nhưng đủ để hình dung sự thâm độc
của đối phương và cốt lõi của phẩm chất tu hành: gìn giữ tâm thương yêu, gìn giữ
Bồ-đề
tâm.
Còn tình thương, còn
tâm
Bồ-đề
là còn tất cả, mất
tâm
Bồ-đề,
chúng ta không còn là người tu, là con của Đức Phật nữa. Nếu biết cách, khổ đau
sẽ làm Bồ-đề
tâm
phát khởi và tăng tiến. Thiền sư Nhất Hạnh dạy rằng hãy nghĩ những người làm bạn
khổ là những người cũng đang khổ đau, người ấy cần sự giúp đỡ và tình thương của
bạn chứ không đáng bị trừng phạt. Ngay cả khi họ chỉ muốn thấy bạn đau khổ thì
cũng chỉ là một chúng sinh tội nghiệp. Bạn mong cho họ được an vui. Bạn cầu cho
họ đừng gặp quả báo. Đừng chạy trốn khổ đau vì nó ở ngay chính bên trong bạn. Và
câu
“Nguyện
thay chúng sanh thọ vô lượng khổ”
có thể là một câu thần chú nhắc bạn nhớ đến Bồ-đề
tâm
hàng ngày, hàng giờ. Nỗi khổ của bạn chính là nỗi khổ của chúng sanh. Có thể bạn
còn khổ đau nhưng khổ đau của bạn không vô ích. Bạn đã là một vị Bồ-tát
rồi.
Tuệ Anh