Vấn Đề Trợ Tử
vandetrotu
Trong những thập niên trở
lại đây, có lẽ sự phát triển gây chú ý nhất trong việc nghiên
cứu đạo
đức học là sự quan
tâm về đạo
đức học ứng
dụng, tức là việc ứng
dụng những lý
thuyết đạo
đức quy
phạm vào những vấn
đề thực
tế. Những lý
thuyết đạo
đức đối với những vấn
đề như bình
đẳng giới, quyền con
người, sự công
bằng, chống phân
biệt sắc tộc… đã có những ảnh
hưởng thiết
thực vào trong
đời sống xã
hội. Bên cạnh, những câu hỏi về giá
trị đời
sống con
người từ lúc còn là một bào
thai cho
đến khi qua đời, với những vấn
đề liên
hệ như ngừa thai, phá
thai, thụ thai trong ống thuỷ
tinh, cấy ghép các bộ phận trên thân
thể, tự tử, trợ tử hay giúp chết không đau... cũng tạo nên sự quan
tâm đối với nhiều giới khác nhau. Và những quan
điểm, những luật
lệ hay các nguyên tắc đạo
đức đối với những vấn
đề này được gọi là sinh đạo
đức (bioethics), một nhánh
của “đạo đức ứng dụng”, một phân ngành đạo
đức đang gia
tăng tầm ảnh
hưởng bởi đang mở ra những lựa
chọn mới và cả những nan
đề mới.
Sinh đạo
đức, một cách khái quát, là việc giải
quyết những vấn
đề đạo
đức của cả việc nghiên
cứu sinh học và những ứng
dụng của việc nghiên
cứu đó vào trong y học, là sử
dụng những nguyên tắc và quyết
định đạo
đức để giải
quyết những vấn
đề thực
tế trong y - sinh học. Sinh đạo
đức cũng là việc xem
xét những vấn
đề về đạo
đức liên
hệ đến việc chăm sóc sức
khỏe, khoa học sức
khỏe và chính sách sức
khỏe. Sinh đạo
đức liên
quan đến những câu hỏi về những giá
trị cơ bản của con
người chẳng hạn như quyền đối với đời
sống và sức
khỏe, và việc đúng hay sai của một số phát triển trong những tổ chức chăm
sóc sức
khỏe, y dược, về trách
nhiệm xã
hội đối với đời
sống và sức
khỏe của các thành viên của nó. Sinh đạo
đức chạm đến một vài vấn
đề cấp
bách nhất: nhân
phẩm con
người, tính quý giá của đời
sống, những giá
trị và những ích
lợi mà chúng cốt yếu đối với việc phát triển con
người và xã hội…
Sinh đạo
đức là một lĩnh vực rất quan trọng trong
đời sống hiện
đại. Nó cần đến ý
kiến từ những chuyên ngành khác nhau: luật, triết
học, y học và khoa học xã hội… Và các tôn
giáo, dù kinh sách của họ không đề cập cụ
thể những vấn
đề này, được yêu
cầu đưa ra quan
điểm cho việc giải
quyết những tình huống khó khăn liên
quan đến vấn
đề y sinh thuộc phương
diện đạo
đức mà cộng
đồng xã
hội, hay ít ra cộng
đồng tín
đồ của tôn
giáo đó, đang đối mặt.
Trong những thập niên trở
lại đây, một số nhà Phật
học cũng đã nỗ
lực trình bày những vấn
đề nêu trên trong ánh Phật
pháp và dựa
trên những nguyên tắc Phật
giáo, nhằm đưa ra một quan
điểm Phật
giáo trong việc góp phần giải
quyết những vấn
đề nói trên. Hoặc ít ra, cố
gắng đưa ra những quan
điểm khác nhau để tìm lấy một cái nhìn chung hơn và dễ chấp
nhận đối với cộng
đồng Phật
giáo, để từ đó có thể “định hướng” cộng
đồng đối với những vấn
đề nói trên. Như đã nói, vần đề sinh đạo
đức bao
gồm nhiều vấn
đề liên
quan đến giá
trị đời
sống con
người từ lúc còn là thai
nhi cho
đến khi mạng
chung. Nhưng ở bài viết này, tôi chỉ trình bày về vấn
đề trợ tử hay chết không đau.
Trợ tử là việc chấm
dứt đời
sống của một người với niềm
tin rằng cái chết sẽ giúp người ấy thoát
khỏi khổ đau, và với người ấy chết sẽ tốt
hơn sống; và trợ tử thường được thực
hiện bởi những chuyên gia y khoa. Vấn
đề trợ tử bao
gồm hai phương
diện: trợ tử có chủ tâm và trợ tử không có chủ tâm. Trợ tử có chủ tâm là rút
ngắn đời
sống do người sắp chết hay bị bệnh nặng mong muốn; còn trợ tử không có
chủ tâm thường được thực
hiện ở trong những trường
hợp khi người bệnh đã chết não và rơi vào tình
trạng hôn
mê đã quá lâu và khi người khác, thường là gia
đình hay những chuyên gia y khoa, chấm
dứt sự trị
liệu hay cắt bỏ những trợ giúp y học trong việc kéo dài sự sống, và cũng bao
gồm việc rút
ngắn sự sống bằng những tác
động ngoại tại, chẳng hạn như tiêm chích các
loại độc
dược. Việc chấm
dứt điều
trị và trợ giúp y học được gọi là trợ tử thụ
động; trong khi việc chấm
dứt đời
sống bằng một tác
động ngoại tại được gọi là trợ tử chủ động. Một số tổ chức tôn
giáo chấp
nhận việc trợ tử thụ
động nhưng không
chấp nhận trợ tử chủ động.
Phật giáo xem
xét vấn
đề trợ tử hay giúp chết không đau như thế nào? Bởi vì kinh sách không đề
cập cụ
thể đến trợ tử, nên các Phật
tử đã có những cách nhìn khác nhau về vấn
đề này.
Đối với một số người, trợ tử, một dạng khác của tự tử, là hoàn
toàn không thể chấp
nhận được, bởi vì nó vi
phạm giới thứ nhất trong năm
giới là không được tước đoạt mạng sống, cho dù là tước đoạt mạng sống của
chính bản
thân. Thêm nữa, trợ tử là gây hại (hiṃsā),
trái ngược với nguyên tắc không gây hại (ahiṃsā) của Phật
giáo. Những người này cho rằng những ai xem cái chết là một giải
pháp cho việc chấm
dứt đau
khổ là không hiểu về chân
lý thứ nhất trong Tứ
diệu đế, mà ở đó chính cái chết được xem là một trong các khổ. Nhưng quan
trọng hơn hết, đối với Phật
giáo, cái chết không phải là sự đoạn
diệt, và vì
vậy mong muốn rút
ngắn mạng sống vì sự đau
đớn của thân xác không phải là một giải
pháp tối ưu, bởi vì những nghiệp
khổ của thân xác đó vẫn còn đeo bám và người ta phải trả trong kiếp
sau; và sự đoạn tận mạng sống bằng trợ tử có thể ảnh
hưởng đến tiến trình tái
sanh. Theo một số người, việc sử
dụng công nghệ y học để làm giảm cơn đau thì phù
hợp với Phật
giáo hơn là dùng đến những phương
cách trợ tử.
Ngược lại với quan
điểm trên, một số người lập
luận rằng “được chết” là một quyền con
người, là tự
do ý
chí hay tự
do cá
nhân; và họ coi việc rút
ngắn mạng sống bằng tự nguyện bởi vì không đủ
sức chịu
đựng đau
đớn là có thể chấp
nhận được. Trợ tử tự nguyện do đó không phải là một hành động sai
trái, khác với nghĩa cố
ý tước đoạt mạng sống được nêu trong giới thứ nhất, mà trái
lại đôi khi được xem
như một hành động từ
bi, không phải với bản
thân, mà đối với những người chịu ảnh
hưởng bởi người bệnh đó. Ví dụ trong trường
hợp gia
đình người bệnh có những áp
lực về kinh tế. Và trong trường
hợp trợ tử không bằng tự nguyện, cũng được biện
minh là thể
hiện lòng
bi mẫn đối với người bệnh, giúp cho người bệnh chết một cách nhẹ nhàng,
không còn bị bệnh tật đau
đớn hành
hạ. Một số người cũng cho rằng việc sử
dụng các
loại thuốc để làm giảm cơn đau hay sử
dụng công nghệ y học để kéo dài sự sống không phải là một giải
pháp tốt cho người bệnh; bởi vì việc sử
dụng các
loại thuốc giảm đau, chẳng hạn như sử
dụng morphine, có thể làm mê mờ tâm
trí của người bệnh; và việc kéo dài mạng sống của một người đang sống
đời thực
vật nhờ vào công nghệ y học là không tốt cho việc tái
sanh của người này.
Khi thảo
luận đến vấn
đề này, chúng
ta lại chạm đến những vấn
đề sâu hơn liên
quan đến quan
điểm triết
học và niềm
tin. Chẳng hạn như quan
điểm về khi nào thì (thần) thức của một người sẽ chính
thức rời khỏi cơ thể của người bệnh? Thức có còn hiện
hữu nơi một người đã “chết não” hay không? Hay thức có tồn
tại nơi một người sống đời thực
vật hay không? Không giống như quan
điểm của một số tôn
giáo khác, xem trợ tử như là một hành động trái ngược với ý
muốn của Thiên Chúa, do đó vi
phạm đạo
đức, Phật
giáo không quy kết trợ tử là một tội
lỗi, tuy
nhiên vấn
đề này cần
phải có những cân
nhắc kỹ lưỡng.
Về việc chọn lựa cách chết không đau bằng sự tự nguyện, cần nên đặt vào trong giáo
lý nghiệp, xem
xét việc
làm đó sẽ tạo nên thiện hay ác
nghiệp. Việc tự nguyện rút
ngắn đời
sống do không chịu
đựng nỗi đau
đớn do cơn bệnh gây ra là một vấn
đề cá
nhân; và người thực
hiện việc
làm này phải chịu những nghiệp
quả từ hành
vi của mình (cũng như tất cả những hành
vi khác mà mình đã tạo tác). Bằng sự dẫn dắt của ý
chí và sự hỗ trợ bên ngoài, đời
sống sẽ rút
ngắn và cơn đau sẽ được chấm
dứt. Tuy
nhiên, người ấy sẽ tái
sanh như thế nào sau khi thực
hiện hành
vi ấy lại là một vấn
đề quan trọng. Riêng trong trường
hợp giúp cho người bệnh chết không đau từ người khác, điều này có liên
hệ nhiều đến đạo
đức, và là một sự lựa
chọn khó khăn cho những người liên
quan. Việc cắt bỏ những hỗ trợ y học để cho người bệnh được chết nhanh,
hay việc hỗ trợ các phương
tiện y học để chấm
dứt đời
sống của người bệnh với mục
đích giúp họ không còn đau
đớn không phải là một quyết
định dễ dàng cho những người thân và bác
sĩ. Người ta chịu nhiều áp
lực từ dư
luận xã
hội và cả lương
tâm của mình.
Dựa trên những nguyên tắc Phật
giáo, nhìn chung, trợ tử không phải là một vấn
đề được khuyến khích. Tuy
nhiên, trong một số trường
hợp vấn
đề này cần có sự linh
động, chẳng hạn như những trường
hợp sau:
Những người bị ung thư ở giai
đoạn cuối và chịu nhiều đau
đớn; một người mang căn bệnh Alzheimer và mong muốn được “trở tử” trước
khi căn bệnh phát triển mạnh và người này hoàn
toàn mất
trí nhớ; những người bị liệt toàn
thân và nhận
thấy việc kéo dài đời
sống là không còn ý
nghĩa; người sống trong trạng
thái thực
vật, các chức
năng não bộ đã tê liệt và không có khả năng phục
hồi; một đứa bé sinh ra đã mắc bệnh Tay-Sachs với sự đau
đớn khốc liệt và khả năng sống chỉ được vài ngày; các căn bệnh nan y ở giai
đoạn cuối; những bệnh gây đau
đớn không thể chịu
đựng nổi, cho cả người bệnh và những người xung quanh…
Chết không đau và câu
chuyện Channa, Vakkali & Godhika
Trước hết chúng
ta xem
xét câu chuyên về Tôn
giả Channa. Câu
chuyện về Tôn
giả Channa xuất
hiện hai lần trong Nikaya: một ở trong Trung
bộ (kinh Channovāda, số 144) và một ở trong Tương
ưng bộ (Tương
ưng IV: 55). Nội dung câu
chuyện ở trong hai bản
kinh này là giống nhau. Câu
chuyện về Channa thường được nhiều người trích dẫn nhằm mục
đích đưa ra quan
điểm của Phật
giáo đối với các vấn
đề y sinh như trợ tử và tự tử.
Tôn giả Channa bị bệnh nặng và cơn bệnh đã làm thầy vô
cùng đau
đớn. Khi hay
tin Channa bị trọng bệnh, Tôn
giả Sāriputta và Māha Cunda đã đến nơi ở của Tôn
giả Channa để thăm
viếng và động viên. Tôn
giả Channa vào lúc đó, do sự hành
hạ của cơn đau, đã nói với hai vị Tôn
giả Sāriputta và Māha Cunda rằng thầy mong muốn kết
thúc mạng sống của mình bằng một sự tác
động của ngoại tại, đó là sử
dụng một con dao. Tôn
giả Sāriputta khuyên Channa hãy nên kham
nhẫn và chớ có hành động như vậy. Nhưng khi Tôn
giả Sāriputta và Māha Cunda rời khỏi nơi đó, thầy Channa đã “mang lại một
con dao” và kết
thúc mạng sống của mình. Khi sự việc được bạch lên Đức
Phật, Ngài nói rằng Channa không phạm lỗi, bởi vì “ai quăng
bỏ thân này, và chấp
thủ thân khác, Ta nói rằng người ấy có phạm
tội. Tỳ-kheo Channa không có (chấp
thủ) như vậy. Tỳ-kheo Channa đem con dao lại (cho mình), không có phạm
tội.” Như vậy, theo những gì được trình bày trong câu
chuyện này, Tôn
giả Channa không bị coi là có tội, bởi vì thầy thực
hiện hành
vi đó không phải vì sự chấp
thủ.
Câu chuyện thứ hai là về Tôn
giả Vakkāli (Tương
ưng III:119). Tôn
giả Vakkāli bị bệnh nặng và vô
cùng đau
đớn. Để thoát
khỏi sự đau
đớn do bệnh tật gây ra, Tôn
giả đã dùng một con dao và kết
thúc mạng sống của mình. Sau khi sự việc được bạch lên Đức
Phật, Ngài đã cùng với các Tỳ-kheo đến nơi ở của Vakkāli và xác
nhận rằng “…với thức không an
trú tại một chỗ nào, Thiện
nam tử Vakkāli đã nhập Niết-bàn một cách hoàn toàn!”. Theo câu
chuyện này, một người khi tâm
không còn sự chấp
thủ, người ấy sẽ giải
thoát sau khi mạng
chung, dù là bằng phương
cách “trợ tử”.
Câu chuyện thứ ba liên
quan đến Tôn
giả Godhika (Tương
ưng I:120). Tôn
giả Godhika tu
tập “không phóng
dật, nhiệt tâm, tinh
cần và chứng được nhất
thời tâm
giải thoát.” Nhưng sau đó tâm
giải thoát ấy nhanh chóng bị mất đi. Lần thứ hai Tôn
giả lại đạt
được tâm
giải thoát, nhưng rồi tâm
giải thoát ấy cũng nhanh chóng biến mất. Và cứ như vậy cho
đến lần thứ sáu. Vào lần thứ bảy, sau khi đạt
được tâm
giải thoát, Tôn
giả nghĩ rằng sáu lần trước thầy đã đạt
được tâm
giải thoát nhưng sau đó tâm này nhanh chóng biến mất, nên lần thứ bảy,
sau khi đạt
được tâm
giải thoát, thầy nghĩ “cho đến lần thứ sáu, ta bị thối thất nhất
thời tâm
giải thoát. Vậy nay ta hãy đem lại con dao”.
Sau khi biết tin Tôn
giả Godhika đã đoạn tận mạng sống (bởi vì muốn giữ tâm
giải thoát), Đức
Thế Tôn cùng với các Tỳ-kheo khác đến nơi Godhika mạng
chung, và Ngài xác
nhận rằng “Godhika đã nhập
diệt, với thức không an
trú ở đâu cả”. Tức Godhika đã được
giải thoát.
Từ ba câu
chuyện được dẫn ở trên, cho thấy Đức
Phật đã không phê
bình việc tự chấm
dứt mạng sống của ba vị Tỳ-kheo nói trên. Tuy
nhiên trong ba câu
chuyện trên, chỉ hai câu
chuyện đầu có những liên
hệ gần với việc trợ tử hiện nay, tức là tự rút
ngắn mạng sống do sự chi
phối của cơn đau do bệnh tật gây ra. Và hai trường
hợp này có thể được gọi là “trợ tử có chủ tâm”.
Nhưng, dẫn ra hai câu
chuyện này có phải muốn nói rằng Phật
giáo ủng
hộ vấn
đề trợ tử trong trường
hợp một người đang chịu nhiều đau
đớn thể xác do bệnh tật gây ra? Ở đây cần nên lưu
ý rằng, cả ba trường
hợp ở trên đều rơi vào những người xuất
gia và Đức
Phật xác định rằng những vị này sau khi mạng
chung đã đạt
được sự
giải thoát.
Chính điểm này, một số người cho rằng vấn
đề trợ tử (theo Phật
giáo) chỉ dành cho những người tu
đạo và đã có những sở chứng tâm
linh mà không dành cho những người phàm
tục. Cách khác, trợ tử chỉ dành cho người đã thoát
khỏi những sở chấp và có thể làm chủ được tâm ngay lúc thực
hiện hành động đó. Tuy
nhiên, những nhận
định này cũng chỉ là một cách nhìn, chứ khó cho đó là một quan
điểm chính của Phật
giáo.
Thêm nữa, vấn
đề trợ tử cũng nên được xem
xét từ Luật
tạng. Trong Luật
tạng (Vinaya 1:3), có đề cập đến trường
hợp một nhóm Tỳ-kheo, sau khi nghe Đức
Phật giảng dạy về sự bất
tịnh của thân
thể, đã tự kết
liễu mạng sống của họ, hoặc kết
liễu mạng sống của nhau, hoặc nhờ người khác kết
liễu mạng sống của họ. Khi biết được điều ấy, Đức
Phật đã khiển trách các vị Tỳ-kheo đã thực
hiện những hành
vi này và chế định
luật cấm. Tuy
nhiên cũng cần lưu
ý ở đây, câu
chuyện được đề cập ở trong Vinaya liên
quan đến vấn
đề tự tử hơn là vấn
đề trợ tử.
Chấp nhận trợ tử và chọn cách chết không đau là một quyền cá
nhân. Với người không có niềm
tin tôn
giáo hay xem cái chết là sự đoạn tận, thì trợ tử có thể là một sự lựa
chọn dễ chấp
nhận. Với trợ tử cho chủ tâm, người ta có thể chọn cách thức này khi
không chịu
đựng nỗi đau
đớn do bệnh tật gây ra, và cần quyết
định điều đó khi tâm
trí còn tỉnh
táo. Trong trường
hợp trợ tử không có chủ tâm, người thân hay bác
sĩ giúp bệnh nhân kết
thúc sớm đời
sống, cần làm điều này với lòng thương
yêu thực sự, tin rằng việc
làm đó là tốt cho người bệnh, chứ không phải thực
hiện vì muốn chối bỏ những bổn phận liên
hệ.
Với Phật
giáo, như đã nói, chết không phải là hết, và người ta phải chịu trách
nhiệm cho tất cả những hành động đã gây ra ở đời này và ở trong
đời sống kế
tiếp. Đọc
kinh Đại bát Niết-bàn, ta
có thể thấy cách Đức
Phật đã kiểm
soát tâm trước những tác
động của bệnh tật như thế nào. Và đó là tấm gương
tốt nhất mà chúng
ta có thể noi theo trong việc đối mặt với sự đau
đớn do bệnh tật gây ra, và có một cái nhìn sáng rõ hơn đối với vấn
đề trợ tử. Với người Phật
tử, trợ tử (trong trường
hợp luật
pháp cho
phép) không phải là giải
pháp tối ưu, mặc dù việc
làm này không bị kết tội và có thể được chấp
nhận trong một vài trường
hợp.
Nguyên Hiệp