Sự ảnh hưởng của Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ đối với pháp môn Tịnh độ ở Việt Nam

su anh huong

SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA NGÀI VĨNH MINH DIÊN THỌ ĐỐI VỚI PHÁP TU

TỊNH ĐỘ Ở VIỆT NAM

Thuyết Duy tâm Tịnh độ

Ngài Vĩnh Minh Diên Thọ là người có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo Việt Nam. Với chủ trương Thiền-Tịnh đồng tu, ngài đã tuyên dương học thuyết Duy tâm Tịnh độ. Nhiều học giả cho rằng tư tưởng mới mẻ này đã khiến cho ngài Vĩnh Minh trở thành một trong những Tổ sư có tinh thần hòa hợp tôn giáo trong lịch sử Trung Hoa[1].

Đại sư Vĩnh Minh đã có quan niệm như thế nào khi đưa ra pháp Thiền-Tịnh song tu? Bài kệ nổi tiếng sau phần nào nói lên được ý chỉ của ông:

“Có Thiền, không Tịnh độ

Mười người, chín người lạc,

Khi ấm cảnh hiện ra

Liền phải đi theo nó.

Không Thiền, có Tịnh độ

Vạn người tu đồng thành,

Thấy được Đức Di Đà

Lo gì không khai ngộ.

Có Thiền, có Tịnh độ

Giống như hổ thêm sừng,

Hiện tại làm thầy người

Tương lai làm Phật, Tổ.

Không Thiền, không Tịnh Độ

Đời đời nằm giường sắt,

Kiếp kiếp ôm trụ đồng

Chẳng có nơi nương tựa”[2].

Như vậy, ngài Vĩnh Minh cho rằng chỉ có Thiền-Tịnh song tu mới là con đường tối thắng đưa hành giả đến thành tựu viên mãn. Ngài là người từ cửa Thiền bước sang Tịnh độ[3] cho nên những trải nghiệm, việc nhìn nhận căn cơ thời đại đã thúc đẩy ngài hướng đến con đường Duy tâm Tịnh độ.

Vì sao gọi là Duy tâm Tịnh độ? Hiểu một cách đơn giản, tâm chúng ta chính là cõi Phật, ngoài tâm này ra thì không có Tịnh độ. Chúng sinh và Phật tuy đồng tâm nhưng không đồng tướng. Đồng tâm vì đều có Phật tánh (còn gọi là tự tánh). Không đồng tướng vì chúng sanh chưa khai mở tự tâm nên hiện tướng nghiệp báo phàm phu, còn Phật là bậc đã tỉnh giác, thấu rõ chân tâm nên có pháp thân vô tướng, bao trùm. Trong chân tâm không có chấp trước, cấu nhiễm, chỉ rỗng không và thanh tịnh. Tuy nhiên, chúng sinh do điên đảo vọng tưởng nên không thể thấu tột bản tâm thanh tịnh.

Trước thời ngài Vĩnh Minh, việc hành thiền phổ biến, nhưng về sau con đường ấy không còn hợp với thời thế, cần phải có một pháp trợ duyên. Đại sư cho rằng không có gì sánh được với tha lực của Phật. Do vậy ngài kết hợp Thiền-Tịnh với nhau nhằm giúp hành giả có lối tu an toàn hơn và sớm tìm được cõi Tịnh nơi tâm.

Bổ trợ học thuyết Duy tâm Tịnh độ là khái niệm Tự tánh Di Đà. Tự tánh Di Đà trong Duy tâm Tịnh độ có nghĩa là tự tánh sống lâu vô lượng, phát quang vô lượng. Nếu niệm niệm không rời tự tánh Di Đà thì vượt thẳng đến Tây phương, nơi ấy chính là chân tâm Tịnh độ.

Đường lối mới đã thổi một làn gió mát đến chốn Thiền lâm, và ngay sau đó các bậc cao tăng như Thiên Y Nghĩa Hoài, Huệ Lâm Tông Bổn đã hưởng ứng mạnh mẽ[4]. Càng về sau tông chỉ này càng trở nên đặc sắc đối với Phật giáo Trung Quốc, và Việt Nam cũng đã đón nhận một cách nồng nhiệt. 

Ảnh hưởng của Đại sư Vĩnh Minh đối với pháp tu Tịnh độ ở Việt Nam

Tiếp nhận tư tưởng của Đại sư Vĩnh Minh, các hành giả Việt Nam cũng dần dần có sự chuyển hướng sang Thiền-Tịnh song tu. Dường như xuyên suốt chiều dài lịch Phật giáo Việt Nam, thời đại nào cũng có người thực hành Duy tâm Tịnh độ. Xin nêu ra một số nhân vật tiêu biểu:

- Nhà Lý (1009 - 1225)

Thời Lý có thiền phái Thảo Đường chủ trương tham thiền, quán tâm và niệm Phật, lấy vãng sinh Tịnh Độ làm cứu cánh. Ngài Thảo Đường (997 - ?) luôn khuyến khích hàng hậu nhân nên song hành Thiền-Tịnh bằng bài kệ:

“Sáu chữ bánh xe quay,

Tĩnh niệm tự dắt tay,

Di Đà không xa cách,

Người biết nên tự cường

Tám vạn bốn ngàn tướng,

Chẳng ra ngoài tâm vương,

Sao còn nhọc chỉ chỏ,

Mới hay Cực lạc hương”[5].

Bên cạnh đó, một số hành giả thiền phái Vô Ngôn Thông cũng nhờ công phu niệm Phật mà đạt được định. Nhân vật phải kể đến là Thiền sư Tịnh Lực (1112 - 1175), người đã đạt được Niệm Phật tam muội. Âm thanh niệm Phật của ngài được cho vang xa như Phạm âm, làm thức tỉnh núi rừng, khai ngộ pháp giới[6]. Thời kỳ này trào lưu Tịnh độ đang trên đà phát triển.

- Nhà Trần (1225 - 1400)

Thiền sư Hiện Quang (? - 1221) và Đạo Viên (? - ?) là những nhân vật khởi đầu cho đường lối Thiền-Tịnh trong giai đoạn chuyển tiếp qua thời Trần. Càng về sau quan niệm Duy tâm Tịnh độ không chỉ tồn tại nơi phương thức tu tập mà còn được thể hiện qua các tác phẩm. Khóa hư lục của vua Trần Thái Tông (1218-1277) đã chính thức đề cập đến học thuyết này với đề mục “Niệm Phật luận” và “Lục thời sám hối khoa nghi”. Đối với bậc thượng trí, tác giả khuyên nên thực hành Thiền-Tịnh để nhận rõ tâm này chính là Phật[7]. Quan niệm này đề cao cõi Tịnh hiện tiền trước mắt chứ không tồn tại ở một thế giới xa xăm nào đó.

Cách lý giải Tịnh độ dưới cái nhìn của Thiền còn được thể hiện qua“Thân báu Di Đà ở nội tâm/ Đông Tây Nam Bắc pháp thân trùm[8] của Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) và Di Đà là tánh sáng soi/ Mựa phải nhọc tìm về Cực lạc[9] của Trần Nhân Tông (1258-1308).

- Nhà Lê - Mạc (1428 - 1592)

Khuynh hướng Thiền-Tịnh vào thời kỳ này vẫn ngấm ngầm trong đời sống xã hội. Thậm chí trong các khoa cử, học thuyết Duy tâm Tịnh độ cũng được chính quyền quan tâm, đề ra trong các câu hỏi nhằm khảo vấn trình độ Phật học của các sĩ tử. Điển hình như Lê Ích Mộc (1459 - ?) đã trả lời câu hỏi số 17 trong kỳ thi tiến sĩ: “Tâm tịnh tức là Phật ra đời, sao chẳng thường là tự tánh Di Đà. Tâm tịnh tức là Cực lạc trước mắt, sao chẳng Duy tâm Tịnh độ”[10]. Hoặc ở câu 20, ông cũng trả lời tương tự: “A Di Đà Phật, đây gọi là tánh giác, cũng gọi là bản lai”[11].

Qua đây cho thấy pháp tu Thiền-Tịnh không đơn thuần như các thời kỳ trước chỉ tồn tại trong đời sống tín ngưỡng, lễ nghi, nghệ thuật mà đã xuất hiện cả nơi phương diện học thuật, khoa bảng.

-  Thời Chúa Nguyễn - Đàng Trong (1558 - 1777)

Sau một thời gian bất ổn, cuối cùng Phật giáo đã trở nên khởi sắc. Tư tưởng chủ đạo ở thời kỳ này vẫn là thực tập Thiền-Tịnh song tu từ ngài Diên Thọ. Xu hướng này có thể nhìn thấy nơi ý thơ của Đào Duy Từ (1572 - 1634):

“Đêm khuya dắng dõi kệ Di Đà…

Mựa rảng đạo xa hòa nhọc kiếm

Bồ-đề kết quả ở lòng ta”[12].

Duy tâm Tịnh độ còn được biết qua chủ trương “Lý sự viên dung” trong tác phẩm Bồ-đề yếu nghĩa của Thiền sư Viên Văn Chuyết Công (1590-1644)[13]. Thiền sư Thạch Liêm (1633 - 1704) đã thuyết minh “Tự tánh Di Đà” trong Tự tánh Di Ðà thuyết: Thấy được Phật A Di Đà chính là đã thấy được tự tánh của chính mình[14]. Phương pháp lý-sự dung thông của Thiền sư Minh Châu Hương Hải (1628 - 1715) cũng nhấn mạnh rằng thấy được tự tánh của chính mình chính là ngộ đạo: “Mỗi tâm đều thành Phật, không tâm nào chẳng phải tâm Phật, chốn chốn đều thành đạo, không một hạt bụi nào chẳng phải cõi Phật”[15].

Nổi bật nhất vào thời kỳ này là Thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1647 - 1726). Vai trò Thiền-Tịnh được ngài xiển dương mạnh mẽ. Bên cạnh việc viết luận, kiến thiết các công trình Tịnh độ, Thiền sư cũng bày tỏ quan điểm Duy tâm Tịnh độ bằng sự trải nghiệm uyên thâm của mình. Đối với ngài, Thiền-Tịnh là hai mặt của một thực thể. Trong Thiền tông bản hạnh, ngài viết:

“Tông là nguyên tự tánh ta

Vốn vô nhất vật lặng hòa hư linh…

Thánh phàm vô khiếm vô dư

Bất sanh bất diệt như như Di Đà”[16].

Hoặc trong Kiến tánh thành Phật lục, ngài viết:

“Di Đà tự tánh vốn như như;

Rỗng lặng sáng tròn rực thái hư…

Tịnh độ rành rành ngay trước mắt

Chẳng nhọc khảy tay đến Tây thiên”[17].

Tiếp nối ngọn đuốc Thiền-Tịnh của ngài Chân Nguyên là Thiền sư Như Trừng Lân Giác (1696 - 1733). Ngoài ra chúng ta cũng không thể bỏ qua Thiền sư Minh Giác Kỳ Phương (1682 - 1744), đệ tử của Tổ Nguyên Thiều. Quan điểm Duy tâm Tịnh Độ được thể hiện rõ trong tập Kiết hạ an cư thị chúng: “Một câu Di Đà không niệm khác, thì phút giây chẳng nhọc đến Tây phương. Cho nên Di Đà là chính mình, sao lại hướng ngoại nhọc tìm mầu nhiệm…”[18]. Còn Thiền sư Thật Kiến Liễu Triệt (1702 - 1764) thì khuyến người nhất hướng Lạc bang thông qua ý tưởng:

“Anh làm sãi tâm vô nhất vật

Gởi cho em sáu chữ Di Đà…

Phải liều mình chẳng ngại khổ thân

Cầu cho tới Tây phương Cực lạc”[19].

Nhìn chung, xu hướng chủ đạo vào thời kỳ này vẫn là Thiền-Tịnh song tu. Các quan điểm trên rõ ràng đang xiển dương học thuyết Duy tâm Tịnh độ của Đại sư Vĩnh Minh.

-  Nhà Nguyễn (1802 - 1945)

Điển hình của thuyết Duy tâm Tịnh Độ vào giai đoạn này đầu tiên có Thiền sư Thanh Phước Chu Toàn (1836 - 1899). Tự tánh Di Đà theo quan điểm ngài được thể hiện qua ý thơ:

“Phàm phu tự tính vốn không ngộ

Không biết trong thân có Tịnh độ

Nguyện Đông nguyện Tây rồi tự ngộ

Cõi Phật cầu siêu chung một lộ”[20].

Vào thời kỳ này phát khởi phong trào Chấn hưng Phật giáo, và có một số cư sĩ cũng đã đề cao phương pháp Duy tâm Tịnh độ, điển hình là Cư sĩ Trần Trọng Kim (1883 - 1953). Ông cho rằng chỉ có con đường Thiền-Tịnh mới có thể phát triển cơ đồ Phật giáo nước nhà[21]

- Giai đoạn 1945 đến thế kỷ XXI

Cư sĩ Chánh Trí - Mai Thọ Truyền (1905 - 1973) là người luôn chí hướng hoằng dương phương pháp Tự tánh Di Đà, Duy tâm Tịnh độ. Điều đó được thể hiện qua nhiều bài phát biểu của ông. Gần đây nhất, chúng ta có một chủ trương mới lạ trong dòng thiền Tiếp Hiện của Thiền sư Nhất Hạnh (1926 - 2022). Ngài không những xiển dương Thiền học khắp thế giới mà cũng chủ trương pháp Tịnh độ thực tại: “Hiện tại sống chánh niệm, Tịnh độ đã thật rồi…”[22]. Đồng thời quan điểm Tịnh Độ hiện đại của ngài không khác gì người xưa:

“Tịnh Độ vốn sẵn nơi chân tâm

Di Đà hiện ra từ tự tánh

Chiếu sáng ba đời khắp mười phương

Mà vẫn không rời nơi hiện cảnh”[23].

Bài viết đã điểm qua một số hành giả đã tiếp nhận và thực tập pháp Duy tâm Tịnh độ của Đại sư Vĩnh Minh Diên Thọ. Điểm cần lưu ý ở đây là, nơi mỗi đường lối của vị hành giả, không có ai tiếp nhận nguyên bản tư tưởng của ngài Vĩnh Minh. Chủ trương ấy như một tiền đề gợi ý để phát minh ra nhiều phương thức tu tập mới thích hợp với tông môn của mình. Nhưng dù vậy chúng ta vẫn có thể khẳng định rằng phương pháp kết hợp Thiền-Tịnh của Đại sư Vĩnh Minh thực sự đã có ảnh hưởng rất lớn đối với Phật giáo Việt Nam.

 


 

[1] Lê Hữu Tuấn, “Tìm hiểu pháp môn Niệm Phật”, Nghiên cứu Tôn giáo, (Hà Nội), số 3 (2009), tr.08-14, tr.08

[2] Thích Nữ Minh Tâm, Tịnh độ tập yếu, NXB.Văn Hóa - Văn Nghệ, TP.HCM, tr.31

[3] Ngài Vĩnh Minh là pháp tôn của Tổ Thanh Lương Văn Ích thuộc tông Pháp Nhãn. Xem thêm: Luận sử Tịnh Độ tông, Pháp tạng Phật giáo Việt Nam, Thư viện Ebook 18/06/2009, tr.126.

[4] Pháp tạng Phật giáo Việt Nam, Luận sử Tịnh Độ tông, Thư viện Ebook 18/06/2009, tr.118.

[5] Nguyễn Đăng Thục (1974), Phật giáo Việt Nam, Mặt Đất xuất bản lần thứ nhất, Sài Gòn, tr.246.

[6] Lê Mạnh Thát (dịch) (2001), Thiền yyển tập anh, Ấn bản điện tử, tr.70.

[7] HT.Thích Thanh Từ (1996), Khóa hư lục giảng giải, NXB.Thành phố Hồ Chí Minh, TP.HCM, tr.230, 308.

[8] Bài thơ Bảo tu nghiệp Tây phương: “Thân báu Di Đà ở nội tâm/ Đông Tây Nam Bắc Pháp thân trùm/ Bầu trời chỉ thấy vầng trăng lẻ/ Trong vắt đêm thu cả biển chùa”. Xem tại: Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục giảng giải, Thích Thanh Từ (1996), Thiền viện Thường Chiếu, tr.259.

[9] Lê Mạnh Thát (2010), Toàn tập Trần Nhân Tông, Cư trần lạc đạo phú, Hội thứ hai, NXB.Phương Đông, Công ty phát hành Huệ Quang, tr.159.

[10] Thích Thái Hòa (2013), Đi vào bản nguyện Tịnh độ, NXB.Văn hóa - Văn Nghệ, TP.HCM, tr.69.

[11] Sđd., tr.70.

[12] Sđd., tr.71

[13] Nguyễn Văn Quý, “Vài nét về Tịnh Độ tông và tư tưởng Tịnh độ Trong Phật giáo Việt Nam”, Nghiên cứu Tôn giáo, (Hà Nội), số 2 (140) (2015), tr.19 - 38, tr.33.

[14] Nguyễn Lang (2008), Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB.Văn Học, Hà Nội, tr.476-479.

[15] HT.Thanh Từ (dịch) (2009), Hương Hải Thiền sư ngữ lục giảng giải, Thư viện Ebook, tr.118.

[16] HT. Thích Thanh Từ (giảng giải) (1998), Thiền tông bản hạnh, NXB.Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh, TP.HCM, tr.43.

[17] HT. Thích Thanh Từ (giảng giải) (2000), Kiến Tánh Thành Phật, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, TP. HCM, tr.29 - 30

[18] Thích Thái Hòa (2013), Đi Vào Bản Nguyện Tịnh Độ, NXB Văn hóa - Văn Nghệ, TP.HCM, tr.77

[19] Sđd., tr.77

[20] Sđd., tr.95

[21] Sđd., tr .99

[22] Sđd., tr.125

[23] HT. Thích Nhất Hạnh (2010), Nhật Tụng Thiền Môn, NXB Tôn Giáo, TP. HCM, tr.114

Chia sẻ: facebooktwittergoogle