Đức Phật dạy lìa xan tham
dua phat day
ĐỨC
PHẬT DẠY LÌA XAN THAM
Nguyên
Giác
Bài này sẽ nói tới đoạn tận xan
tham, và sẽ ghi lại những lời dạy của Đức Phật ít được chú ý tới. Xan
tham là gốc từ “ái” nên sinh ra cái “khả ý” và “bất khả ý” tức là ưa/ghét.
Đoạn tận xan tham cũng là lìa ba độc tham, sân, si. Tức
là giải thoát.
Chữ “xan tham” là cách dịch của Thầy Minh
Châu, với chữ xan là keo kiệt, và tham là tham muốn. Cả hai chữ xan
và tham đều có nghĩa gần nhau, đều là chấp có cái gì là “ta” và “của
ta” và “muốn gì cho ta”. Nhóm kinh Tăng
chi bộ AN 5.254, AN 5.255, AN.256, AN 5.257-263, AN 5.264, AN
5.265-271 đều nói về cùng chủ đề Xan tham. Hai bản dịch tiếng Anh của
hai Thầy Sujato và Thanissaro dịch là “stinginess” tức là “keo kiệt.” Đức
Phật dạy rằng hễ còn tâm xan tham thì không giải thoát
nổi. Do vậy, cần phải bứng gốc rễ tâm keo kiệt, tâm xan
tham.
Trong kinh AN 5.254, Đức Phật dạy, theo bản dịch của Thầy Minh
Châu: “Này các Tỷ-kheo, có năm xan tham này. Thế nào là
năm? Xan tham trú xứ, xan tham gia đình, xan
tham lợi dưỡng, xan tham tán thán, xan tham pháp. Này
các Tỷ-kheo, có năm xan tham này. Trong năm xan tham này,
này các Tỷ-kheo, cái này là tối hạ liệt, tức là xan
tham pháp.”
Tối hạ liệt nghĩa là tệ vô
cùng tận. Bởi vì xan tham trú xứ là còn ưa thích niềm vui
chùa lớn, nhà cao cửa rộng. Xan tham gia đình là còn ưa
thích niềm vui gia tộc, tông phái, bạn hữu. Xan tham lợi
dưỡng là còn ưa thích niềm vui lợi nhuận, cung dưỡng. Xan
tham tán thán là còn ưa thích niềm vui được khen ngợi, được
phong chức, được trao quyền. Xan tham pháp là còn ưa
thích niềm vui giữ riêng pháp này, biện biệt pháp kia.
Trong kinh AN 5.525, Đức Phật dạy, theo bản dịch của Thầy Minh
Châu: “Do đoạn tận, cắt đứt năm xan tham, này các Tỷ-kheo, Phạm hạnh được thực
hiện. Thế nào là năm? Do đoạn tận, cắt đứt xan tham trú xứ, Phạm
hạnh được thực hiện. Do đoạn tận, cắt đứt xan tham gia
đình… xan tham lợi dưỡng… xan tham tán thán… xan tham pháp, Phạm
hạnh được thực hiện.”
Trong kinh AN 5.526, Đức Phật dạy, theo bản dịch của Thầy Minh
Châu: “Do không đoạn tận năm pháp này, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng đạt
và an trú Sơ thiền. Thế nào là năm? Xan tham trú xứ, xan
tham gia đình, xan tham lợi dưỡng, xan tham tán
thán, xan tham pháp. Do không đoạn tận năm pháp này, này các Tỷ-kheo,
không có thể chứng đạt và an trú Sơ thiền. Do đoạn tận năm pháp này,
này các Tỷ-kheo, có thể chứng đạt và an trú Sơ thiền.”
Cách đối trị tâm xan
tham là hãy bố thí và chia sẻ. Trong kinh Iti-26, Đức Phật dạy (nơi đây, dịch theo 2 bản Anh văn của
Sujato và John D. Ireland): “Các Tỷ-kheo, nếu chúng sinh chỉ
biết, như ta biết, về phước báo của bố thí và chia sẻ, họ
sẽ không ăn mà không cho trước, và vết nhơ của keo kiệt sẽ
không chiếm lấy tâm trí họ. Họ sẽ không ăn mà không chia sẻ
dù chỉ một ngụm ăn cuối cùng, một miếng cuối cùng của họ, miễn
là có người nhận. Chính vì chúng sinh không biết, như ta biết, về phước
báo của bố thí và chia sẻ, nên họ ăn mà không bố thí trước,
và vết nhơ keo kiệt chiếm lấy tâm trí họ.”
Tuy nhiên, dù đã lìa tâm xan tham,
nhưng chưa chắc đã có cơ duyên và phương tiện để tu
pháp bố thí. Vẫn có những hoàn cảnh, tuy có khởi
tâm bố thí nhưng vẫn không có điều kiện để bố thí.
Kinh AN 5.31 kể về phước
báo của bố thí, ghi lời Đức Phật trả lời một nữ cư sĩ,
trích bản dịch của Thầy Minh Châu:
“…Sumanā, con gái vua bạch Thế
Tôn: ‘Ở đây, bạch Thế Tôn, có hai đệ tử của Thế
Tôn đồng đẳng về tín, đồng đẳng về giới, đồng đẳng về tuệ, một có bố
thí, một không bố thí. Sau khi thân hoại mạng chung, cả hai được sinh
lên cõi lành Thiên giới. Giữa hai vị thiên ấy, có sự đặc thù gì, có sự sai
khác gì?’
Thế Tôn đáp: ‘Có sự sai
biệt, này Sumanā. Người có bố thí, khi được làm vị Thiên, vượt
qua vị Thiên không có bố thí trên năm phương diện.
Về thiên thọ mạng, về thiên sắc, về thiên lạc, về thiên danh xưng, về
thiên tăng thượng. Người có bố thí, này Sumanā, khi được làm vị
Thiên, vượt qua vị Thiên không bố thí trên
năm phương diện này.”
Tương tự, Đức Phật nói về hai đệ
tử Thế Tôn sinh lại làm người, cũng đồng đẳng về tín, đồng đẳng về giới,
đồng đẳng về tuệ, một có bố thí, một không bố thí, thì “Người có bố
thí, khi được làm người, vượt qua vị làm người không bố
thí trên năm phương diện: Về nhân thọ mạng, về nhân sắc, về nhân
lạc, về nhân danh xưng, về nhân tăng thượng. Người có bố
thí, này Sumanā, khi được làm người, vượt qua vị làm người
không bố thí trên năm phương diện này.”
Tương tự, chỉ khi giải
thoát (tức lìa tham sân si) thì mới không sai khác, vì giải
thoát chỉ có một vị. Kinh AN 5.31
ghi tiếp:
“- Bạch Thế Tôn, nếu cả hai
đều xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Giữa hai
người xuất gia ấy, bạch Thế Tôn có thể có những đặc thù gì,
những sai khác gì?
Thế Tôn đáp: - Có sự sai
biệt, này Sumanā. Người có bố thí, khi được xuất gia, vượt
qua vị xuất gia không có bố thí trên năm phương
diện: Thường hay được yêu cầu nhận y, ít
khi không được yêu cầu; thường hay được yêu cầu nhận
đồ ăn khất thực, ít khi không được yêu cầu; thường
hay được yêu cầu nhận sàng tọa, ít khi không được yêu
cầu; thường hay được yêu cầu nhận dược phẩm trị bệnh, ít
khi không được yêu cầu. Vị ấy sống với những vị đồng Phạm hạnh nào,
các vị này đối với vị ấy, xử sự với nhiều thân nghiệp khả
ái, với ít thân nghiệp không khả ái, với nhiều khẩu nghiệp khả
ái, với ít khẩu nghiệp không khả ái, với nhiều ý nghiệp khả
ái, với ít ý nghiệp không khả ái, giúp đỡ với nhiều giúp đỡ khả ái, với
ít giúp đỡ không khả ái. Này Sumanā, người có bố thí khi được xuất
gia, vượt qua người không có bố thí trên năm phương diện này.
- Nhưng bạch Thế Tôn, nếu
cả hai đều chứng quả A-la-hán. Với hai vị chứng đạt A-la-hán ấy, bạch Thế
Tôn có sự đặc thù nào, có sự sai khác nào?
- Ở đây, này Sumanā, Ta nói
không có sự sai khác nào, tức là so sánh giải thoát với giải
thoát.”
Như vậy, có cách nào để xóa bỏ hoàn
toàn khổ đau, xan tham, keo kiệt… hay không? Nơi đây, chúng
ta sẽ dẫn ra kinh Tiểu bộ,
trong phần Kinh Tập, kinh Snp 4.11. Bản Việt dịch của Thầy Minh
Châu là: (XI) kinh Tranh luận (Sn
168).
Nhóm Kinh Tập này, chương 4 còn gọi là phẩm tám, gồm 16 kinh, là cuộc
đối thoại giữa Đức Phật và 16 thanh niên, và các thanh niên này thay
nhau hỏi Đức Phật, sau khi nghe trả lời, tất cả 16 thanh niên đều trở
thành A-la-hán.
Tương tự, cũng trong Kinh Tập này, chương 5 còn gọi là phẩm
Qua bờ bên kia, cũng gồm 16 kinh, trong sự kiện khác, là cuộc đối
thoại giữa Đức Phật và 16 thanh niên khác, và các thanh niên này cũng
thay nhau hỏi Đức Phật. Sau khi nghe trả lời, tất cả 16 thanh niên đều trở
thành A-la-hán.
Cả chương 4 và 5 là kinh Nhật tụng của chư
Tăng Ni trong những năm đầu Đức Phật hoằng pháp, văn cô đọng, uyên
áo.
Kinh Snp
4.11, Thầy Minh Châu dịch, câu hỏi là: “862. Từ đâu được khởi
lên/ Các tranh luận, đấu tranh / Than van và sầu muộn/ Cùng với tánh xan
tham/ Mạn và tăng thượng mạn/ Kể cả với hai lưỡi/ Từ đâu chúng
sanh nhiều/ Mong Ngài hãy nói lên.”
Sau khi giải thích về ái, về ước
muốn, về ưa (khả ý) và ghét (bất khả ý), về sắc pháp, về hữu
và phi hữu, về tưởng và vô tưởng, tới chìa khóa giải
pháp là đoạn tận sắc pháp (con gọi là đạt vô sinh, bất
sinh, Niết-bàn). Đoạn này, Đức Phật dạy, Thầy Minh
Châu dịch:
“874.
Không có tưởng các tưởng,
Không có tưởng vô tưởng,
Phi tưởng cũng không có,
Vô hữu tưởng cũng không.
Do sở hành như vậy,
Sắc pháp không hiện hữu,
Do nhân duyên các tưởng,
Hý luận được hình thành.”(6)
Nơi đây, chúng ta nói rõ thêm
về tưởng, một chi trong ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Theo tự
điển Wikipedia tiếng Anh, tưởng (perception) trong tiếng Pāli là saññā, tiếng Hán là 想
(xiǎng), tiếng Việt là tưởng, và là một “tiến trình của căn và tâm, nơi tiến
trình này ghi nhận, nhận biết và định danh (thí dụ, hình
dáng của một cây, màu xanh lá cây, cảm xúc của sợ hãi).”
[sensory and mental process that registers, recognizes and labels (for
instance, the shape of a tree, color green, emotion of fear).]
Nơi đây, cũng nên ghi thêm rằng đối với
người tu pháp tưởng [nhận biết] vô thường, hay tu
pháp tưởng [nhận biết] vô ngã, sẽ thường trực thấy trước
mắt, bên tai “không hề có gì gọi là cái gì” vì thực tướng các pháp
chính là vô tướng. Đây là một cách để hiểu đoạn kinh dẫn trên.
Trong kinh SN 22.79, Đức Phật giải thích về tưởng, theo bản dịch
của Thầy Minh Châu: “Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là tưởng?
Nhận rõ, này các Tỷ-kheo, nên gọi là tưởng. Nhận rõ gì? Nhận rõ màu xanh, nhận
rõ màu vàng, nhận rõ màu đỏ, nhận rõ màu trắng. Nhận rõ, này các Tỷ-kheo, nên gọi
là tưởng.”
Như thế, lời dạy trong Kinh Tập về cách (sở hành) về bốn trường
hợp tưởng sẽ dẫn tới sinh tử luân hồi rất phức tạp, nên
xin đối chiếu các bản Anh dịch. Tất cả links sẽ ở ghi chú (6), nếu
theo các links này sẽ thấy bình luận của A-tỳ-đàm về đoạn
kinh này (nhưng, theo người viết, xin nói suy nghĩ thật rằng, bình
luận của A-tỳ-đàm là sai, do người đời sau giảng không
theo đúng ý Kinh Tập). Theo định
nghĩa của Đức Phật, nơi đây chúng ta có vài chỗ thay chữ “tưởng”
bằng “nhận biết” khi dịch đoạn Kinh
Tập này cho dễ hiểu.
Bản dịch Anh văn của Thầy Sujato, trích:
“Without normal perception or distorted perception; not lacking perception,
nor perceiving what has disappeared. That’s how to proceed so that form
disappears: for concepts of identity due to proliferation spring from perception.”
(Dịch: “Không có nhận biết bình thường, cũng không có nhận biết bị
sai lệch; không có thiếu nhận biết, [cũng] không nhận biết cái
đã biến mất. Đó là cách để làm cho sắc pháp biến mất: vì khái niệm về
có cái gì từ ‘tưởng’ sẽ dẫn tới hý luận.”)
Bản dịch của Ireland: “His perception
is not the ordinary kind, nor is his perception abnormal; he is not without
perception nor is his perception (of materiality) suspended. To such an one
immateriality ceases. Perception is indeed the source of the world of multiplicity.” (Dịch:
“Nhận biết của người giải thoát không phải là nhận biết bình
thường, cũng không phải khác thường; người này không phải không có nhận biết,
cũng không phải nhận biết của người này (về sắc pháp) đã bị
ngưng đọng. Với người như thế, sắc pháp đã tịch diệt. Nhận
biết thực sự là cội nguồn của thế giới hý luận.”)
Bản dịch của Thanissaro: “One not
percipient of perceptions, not percipient of aberrant perceptions, not
unpercipient, nor percipient of what's disappeared: for one arriving at this,
form disappears - for objectification-classifications have their cause in
perception.” (Dịch: “Người này không biết về các tưởng, không biết về các
tưởng sai lệch, không phải không biết, cũng không phải biết về cái đã biến mất:
với người có tâm như thế, sắc pháp biến mất - vì phân biệt đối tượng
hóa sinh khởi từ tưởng.”)
Đoạn kinh vừa dẫn rất phức tạp.
Trong ghi chú từ A-tỳ-đàm do 3 nhà dịch kinh (Sujato,
Ireland, Thanissaro) trong link (6) ghi rằng đây là trạng thái định rất
cao, có thể hàm ý là Tứ thiền hoặc các tầng thiền vô sắc. Thực
tế, xin mạn phép nói ý riêng, nếu Đức Phật muốn nói các tầng thiền
thì đã nói thẳng là các tầng thiền, như nhiều kinh khác. Xin nhớ rằng, Đề
Bà Đạt Đa đã đạt tất cả các tầng thiền và đã có thần thông, nên sinh
ra kiêu ngạo, xách động chia rẽ Tăng đoàn. Thêm nữa, nhóm 16 thanh
niên này là lần đầu gặp Đức Phật, ngay khi vừa nghe dạy xong là chứng
quả A-la-hán, mà không cần trải qua thứ tự tu tập.
Xin phép trả lời đây là pháp
ai cũng có thể tu tập được, có thể ngay tức khắc kinh nghiệm được,
mà không cần ngồi thở, không cần quán tâm gì nữa hết. Trong cái
thấy pháp ấn vô ngã, khi tắm được trong dòng chảy pháp ấn vô
thường, sẽ thấy không có “tôi, hay của tôi”… sẽ thấy không có cái gì gọi
là quá khứ, hiện tại, vị lai… Sẽ thấy không thể có cái gì gọi là cái
gì… Bởi vì có nhận biết nhưng không có cái gì gọi là có ai nhận
biết, và cũng không có cái gì gọi là cái được nhận biết… Hễ mở miệng ra là
thành hý luận, vì sẽ nhầm có cái gì gọi là các pháp… Cái nhận biết pháp
ấn như thế là ly nhất thiết tướng, không dính vào những cái được
thấy nghe hay biết (Kinh Kim cang: Ưng vô
sở trụ nhi sanh kỳ tâm); là chớ nghĩ thiện, chớ nghĩ ác… lìa tất cả nghĩ
ngợi tư lường (Kinh Pháp bảo đàn: Vô
niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc)…
Đó là thấy biết nhưng không dựng lập thấy biết (Kinh Lăng nghiêm: Thấy biết mà dựng lập thấy biết, chính
là cội gốc vô minh; Thấy biết, mà không dựng lập thấy biết,
tức khắc là Niết-bàn)…
Trong Tạng Pāli, nơi kinh AN 3.16, Đức Phật gọi đó
là con đường không lầm lỗi: “Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt
thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng....” (Thí dụ:
Tướng chung là tướng nam hay nữ, tướng già hay trẻ… Tướng riêng là cái gì
làm chúng ta nhận ra cô A khác cô B, anh C khác anh D…)
Trong kinh SN 47.9, ghi lời Đức Phật dạy: “Không tác
ý tất cả tướng...”
Trong kinh MN 43, ngài Xá Lợi Phất dạy: “Ở đây, này Hiền giả,
vị Tỷ-kheo không tác ý với nhất thiết tướng, đạt và an
trú vô tướng tâm định. Như vậy, này Hiền giả, gọi là vô tướng tâm
giải thoát.”
Trong kinh MN 143, ngài Xá Lợi Phất dạy trưởng giả Cấp Cô Độc khi
bệnh nặng: “Tôi sẽ không chấp thủ những gì được thấy, được nghe,
được cảm thọ, được nhận thức, được hy cầu, được tư sát với ý, và tôi
sẽ không có thức y cứ vào các pháp (nói trên)…”
Trong kinh AN 11.9, Đức Phật dạy: “Vị ấy Thiền
tư không y chỉ vào đất, Thiền tư không y chỉ vào
nước, Thiền tư không y chỉ vào lửa, Thiền
tư không y chỉ vào gió, Thiền tư không y chỉ vào Không
vô biên xứ, Thiền tư không y chỉ vào Thức vô biên xứ, Thiền
tư không y chỉ vào Vô sở hữu xứ, Thiền
tư không y chỉ vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Thiền
tư không y chỉ vào thế giới này, Thiền
tư không y chỉ vào thế giới sau, phàm điều gì được thấy,
được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến,
được ý suy tư, Thiền tư không y chỉ vào cái ấy. Tuy vậy, vị
ấy vẫn có Thiền tư. Lại nữa, này Sandha, với vị ấy Thiền
tư như vậy, chư Thiên với Thiên chủ, các Phạm
thiên với chúng Phạm thiên, dầu từ xa, đảnh lễ con người hiền
thiện thuần thục…”
Trong Thiền Tông Việt Nam, có
lời dạy của ngài Phước Hậu, như sau:
Kinh
điển lưu truyền tám vạn tư,
Học hành không thiếu cũng không dư,
Năm nay nghĩ lại chừng quên hết,
Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ.
Bởi vì với người sống trong pháp ấn,
thì đi đứng nằm ngồi đều thấy rằng không hề có ai đi đứng nằm ngồi, chỉ thấy có
cái nhận biết không tác ý, và đó là pháp NHƯ, khi tất cả hiển
lộ trước mắt và bên tai đều là giải thoát.
Trong kinh AN 4.24, Đức Phật giải thích, đúng là pháp vô niệm y
hệt như Huệ Năng, đúng là pháp Như y hệt ngài Phước Hậu,
qua bản dịch của Thầy Minh Châu như sau, trích:
“Như Lai là vị đã thấy những gì
cần thấy, nhưng không có tưởng tượng điều đã được thấy, không có tưởng tượng những
cái gì không được thấy, không có tưởng tượng những gì cần phải thấy,
không có tưởng tượng đối với người thấy. Đã nghe những gì cần nghe, nhưng không
có tưởng tượng điều đã được nghe, không có tưởng tượng những cái gì không được
nghe, không có tưởng tượng những gì cần phải nghe, không có tưởng tượng
đối với người nghe. Đã cảm giác những gì cần cảm giác, nhưng
không có tưởng tượng điều đã được cảm giác, không có tưởng tượng những cái
gì không được cảm giác, không có tưởng tượng những gì cần phải cảm
giác, không có tưởng tượng đối với người cảm giác. Đã thức tri những gì cần
thức tri, nhưng không có tưởng tượng điều đã được thức tri, không có tưởng tượng
những cái gì không được thức tri, không có tưởng tượng những cái gì cần phải thức
tri, không có tưởng tượng đối với người thức tri.”
Có cách nào đơn giản để trải
nghiệm ngay không? Bạn có thể thử thực tập ngay bây giờ: “Hãy tỉnh
thức với tâm không biết.” Khi tỉnh thức với tâm
không biết như thế, tức là có tưởng, có nhận biết, vẫn xem trận bóng
đá trên TV, vẫn nghe ca hát trên TV, tất cả pháp vừa tới mắt và tai liền biến mất,
nên không gọi là có tưởng bình thường, cũng không gọi là có tưởng sai lệch,
cũng không có [tướng] gì để nắm giữ hay buông bỏ vì không có gì gọi
được là cái gì, cũng không hề có thiếu nhận biết, cũng không hề có tưởng
gì về những cái đã biến mất (quá khứ). Ngay khi bạn tỉnh thức với tâm
không biết, bạn thấy tất cả tham sân si biến mất.
Như thế, tâm xan tham keo kiệt sẽ
từ từ vắng bặt. Người này vẫn đi đứng nằm ngồi, vẫn biết có những cử động đang
đi đứng nằm ngồi, vẫn thấy rõ không hề có ai đang đi đứng nằm ngồi, chỉ thấy và
cảm nhận cái rỗng rang tịch lặng đang hiện ra tướng đi đứng nằm ngồi…
Điều kỳ lạ, cả hai chương 4 (phẩm tám) và chương 5 (phẩm Qua bờ bên kia)
trong Kinh Tập là kinh Nhật
tụng của Tăng đoàn trong những năm đầu Đức Phật hoằng
pháp, lại là những lời dạy ít được chú ý nhất. Cũng chính là cốt tủy của Thiền
tông Việt Nam.