Đuốc Thiêng Vẫn Sáng
duoc thieng
Lời HPO: Đạo
Phật là đạo Từ Bi, Trí Tuệ, đem lại sự thanh thoát cho tâm hồn, khai
phóng tư tưởng tiến bộ, mở ra hướng đi hòa bình, khoan dung cho nhân
loại.
Dẫu vậy, Phật giáo không sao tránh khỏi quy luật thăng trầm, biến động chung của
thế giới. Tại Việt Nam, cuộc vận động lịch sử của Phật giáo 1963, tuy
đã gặp nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng cuối cùng chân lý lẽ phải đã
thắng, đã đánh thức được lương tâm và lương tri của cộng đồng thế giới.
Dòng
thời gian lịch sử 60 năm (1963-2023) đang đi qua, với nhiều biến thiên
của chính thể, của dân tộc, nhưng “Trái tim bất diệt” của Bồ tát Thích
Quảng Đức, tinh thần xả thân bảo vệ chánh pháp của các vị Thánh tử đạo
“Vàng-Lam” vẫn còn sáng mãi trong lòng Tăng Ni, Phật tử, nhân dân Việt Nam.
Bằng sự tôn kính của người con Phật, cũng như thể hiện tấm lòng “tri ân tiền nhân”, HPO xin đăng lại bài viết
của tác giả Tâm Quang (đã đăng tren trang thông tin HPO, năm 2013 ) ,
qua tựa bài: Đuốc Thiêng Vẫn Sáng. Kính mong tác giả, quý bạn đọc
hoan hỷ!
ĐUỐC THIÊNG VẪN SÁNG
TÂM QUANG
Ngày
24 tháng 6 năm Quý Mão (ngày 13.8.1963) là ngày Đại đức Thích Thanh
Tuệ, vị pháp thiêu thân cúng dường Phật pháp, tại chùa Phước Duyên,
Huế. Từ ấy đến nay, thời gian trôi qua đã tròn Năm Mươi Năm, nhưng ngọn
Đuốc Thiêng mà Người thắp lên vẫn rực sáng giữa lòng Đạo pháp, dân tộc
và nhân loại.
Sinh
ra và lớn lên trong thời kỳ đất nước đang đắm chìm trong vòng nô lệ của
ngoại bang, sống trong một xã hội đầy dẫy sự bất công áp bức, niềm tín
ngưỡng tâm linh cao đẹp của dân tộc bị chà đạp, sự sinh hoạt tôn giáo
bị đối xử bất bình đẳng, thiếu tự do. Từ
đó, đã tạo nên cho Phật giáo Việt Nam một cuộc đấu tranh không khoan
nhượng, quyết tâm đòi hỏi tự do tín ngưỡng và bình đẳng tôn giáo dù
phải hy sinh xương máu.
Nhìn
thấy các bậc chư tôn Trưởng lão Hòa thượng, chư Thượng tọa Đại đức Tăng
Ni, cùng các thế hệ Phật tử cha anh, đang ngày đêm quật cường đấu tranh
cho sự tồn vong của Đạo pháp, nhiệt huyết của tuổi trẻ như trào dâng,
đã thôi thúc Người đi đến một quyết định làm rung động trái tim của mọi
người con Phật và lay động cả lương tâm nhân loại trên toàn thế giới.
Hạnh
nguyện “vị pháp thiêu thân” cao cả của Người không chỉ tiếp nối ngọn
đuốc Thiêng sáng ngời của Bồ tát Quảng Đức, của Đại đức Nguyên Hương,
mà Người đã tiếp tục dấn thân cho một quá trình đấu tranh trong tinh
thần “bất bạo động” trước một chính quyền vô nhân, hung hãn.
Người
không chỉ góp phần đẩy mạnh phong trào đấu tranh của Phật giáo Việt Nam
nhanh chóng đến ngày thắng lợi, mà Người còn đại diện xứng đáng cho cả
một thế hệ Tăng sinh trẻ của Phật giáo Việt Nam nói riêng và cho cả một
thế hệ Thanh, Thiếu niên Việt Nam nói chung bằng tất cả chí khí kiêu
hùng, tinh thần bất khuất và ý thức trách nhiệm cao cả của một người
con dân nước Việt, của một vị “Sứ giả Như Lai”.
Hạnh
nguyện “vị pháp thiêu thân” cao cả của Người, là một chứng minh cụ thể
tấm lòng son sắt của người con Phật yêu chuộng tự do, bình đẳng, nhưng
cũng vô cùng kiên cường, bất khuất trước nạn cường quyền, áp bức.
Câu
nói của Người, trong bức thư gởi cho thân phụ, trước lúc tự thiêu đã
đánh thức lương tâm và trách nhiệm của mọi người con Phật lúc bấy giờ,
cũng như hôm nay và cho đến các thế hệ con cháu mai sau: “Con
đã ý thức được sự tồn vong của Đạo pháp, con hy sinh bản thân con để
làm tròn bổn phận của người xuất gia, cái chết là một lẽ dĩ nhiên mà
tất cả mọi người và sinh vật, cậu không nên buồn”.
Hôm
nay, nhân lễ kỷ niệm 50 năm (1963-2013) ngày Người hiến thân cho Đạo
pháp, thế hệ Thanh, Thiếu niên Phật tử chúng con hôm nay, xin thành
kính đốt nén tâm hương vọng bái giác linh Người, xin chiêm ngưỡng di
hình tỉnh mặc để ôn lại phần nào Thân thế và hạnh nguyện lớn lao của
Người, để làm hành trang trên bước đường tu tập, hoằng dương và hộ trì
Chánh pháp.
Người
sinh ra trong một gia đình Phật giáo trung nông, trên miền đất “Hải
Lăng” của tỉnh Quảng Trị, miền đất mà lịch sử Phật giáo Việt Nam đã
trân trọng ghi nhận là nơi xuất hiện nhiều bậc Cao tăng thạc đức, nhiều
đấng long tượng ra đời mà sự nghiệp hoằng dương Chánh pháp lừng lẫy của
quý ngài đã làm rạng rỡ ngôi nhà Phật giáo Việt Nam suốt bao nhiêu thế
kỷ.
Người
họ Bùi, húy Huy Chương, sinh năm Bính Tuất, 1946, tại thôn Ba Khê, xã
Hải Thượng, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ ông Bùi Dư,
thân mẫu là cụ bà Hoàng thị Phục. Ông bà sinh hạ được 5 người con (3
trai, 2 gái), Người là con thứ tư, sau hai anh và một chị.
Thác sinh trong một gia đình mà song thân đều là người hiền lành, chất phát và rất sùng phụng Tam bảo. Năm
anh chị em đều là những người con hiếu thảo với cha mẹ và sống rất hòa
thuận với nhau. Khung cảnh gia đình sum vầy, êm ấm ấy đã un đúc cho Người những đức tính cần cù, nhẫn nại, siêng năng, chăm chỉ trong học tập.
Năm lên 7 tuổi (Quý Tỵ,1953)
được thân phụ cho theo học chữ Quốc ngữ với một thầy giáo mở trường dạy
học trong làng. Năm lên 8 tuổi (Giáp Ngọ, 1954), Người theo học trường
Tiểu học trong quận, đến năm 12 tuổi (Mậu Tuất, 1958), Người thi đậu
văn bằng Tiểu học.
Trong suốt quãng đời niên thiếu ấy, Người lại thường được theo thân phụ lên chùa lễ Phật, nghe chư Tăng giảng pháp. Cuộc sống trang nghiêm, thanh tịnh chốn Thiền môn đã ảnh hưởng sâu sắc đến tâm trí của Người. Từ đó, Người luôn nung nấu chí nguyện xuất gia cầu đạo giải thoát.
Năm
14 tuổi (Canh Tý 1960), Người được thân phụ cho phép vào chùa Phước
Duyên, Huế, cầu xin xuất gia thọ giáo với Hòa thượng khai sơn Tâm Ưng
Đảnh Lễ (1918-1968). Với nguyện lực kiên cường và quyết tâm cầu pháp. Lần
đầu tiên được diện kiến trước một bậc Cao tăng uy nghiêm, đức độ, nhưng
qua những lời vấn nạn, Người đã ứng đáp thông suốt, lanh lẹ, thể hiện
tư chất thông minh, giàu nghị lực, nên liền được Hòa thượng khai sơn từ
bi hứa khả.
Suốt
thời gian “hành điệu”, Người đã tỏ rõ là một chú Điệu siêng năng, cần
mẫn, chấp tác mọi công việc không lúc nào nề hà khó nhọc, nên rất được
Hòa thượng khai sơn hết mực thương yêu và tận tình giáo dưỡng.
Trong thời gian này, Người được Hòa thượng khai sơn cho theo học
lớp Sơ đẳng rồi lên lớp Trung đẳng tại Phật học đường Báo Quốc. Ngoài
chương trình Nội điển, Người còn được tiếp tục theo học chương trình
Phổ thông tại trường Trung học Bồ Đề Thành Nội, Huế (Nay là trường
Trung học cơ sở Thống Nhất, ở đường Đặng Dung, phường Thuận Thành,
thành phố Huế).
Năm
16 tuổi (Nhâm Dần, 1962), Người được Hòa thượng khai sơn y chứng cho
làm đệ tử với Hòa thượng Nguyên Ngọc Tánh Hải (Hòa thượng Tánh Hải là
trưởng tử của Tổ khai sơn Tâm Ưng Đảnh Lễ. Ngài hiện trú trì chùa Linh
Sơn, Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng). Sau khi lãnh thọ giới Sa-di, được Bổn sư đặt pháp danh là QUẢNG TRÍ, pháp hiệu là THANH TUỆ. Thể nhập đời thứ 45 dòng Thiền Lâm tế Chánh tông, đời thứ 11 dòng Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán.
Năm 17 tuổi (Quý Mão,1963), Người tốt nghiệp văn bằng Đệ nhất cấp niên khóa 1962-1963.
Lúc Người dự thi tốt nghiệp, cũng là lúc khí thế đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng và bình đẳng tôn giáo của chư tôn
đức Tăng Ni và Phật giáo đồ Việt Nam với chính quyền Ngô Đình Diệm đang
diễn ra vô cùng quyết liệt. Nhìn cảnh tượng đấu tranh hào hùng, bất
khuất của chư Tăng Ni và Phật giáo đồ dưới sự đàn áp vô cùng dã man của
bạo quyền Ngô Đình Diệm, thực trạng ấy đã gây cho người Tăng sinh tuổi
đời còn vị thành niên vô cùng bức xúc.
Suốt
mấy ngày liền, Người đã âm thầm suy tư, để rồi tự thân dứt khoát bằng
một quyết định là “tự nguyện thiêu thân” để cúng dường Phật pháp và
thức tỉnh nhân tâm. Người nghĩ và Người đã quyết tâm thực hiện. Vào
nửa khuya ngày 24 tháng 6 năm Quý Mão (ngày 13.8.1963), Người lặng lẽ
một mình ra trước cổng tam quan chùa Phước Duyên, Huế, sau khi tĩnh
tọa, Người tự tẩm xăng vào lớp áo “Nhật bình” và châm lửa để “tự thiêu”.
Ngọn
lửa đại hùng từ thân xác Người đã bùng lên, tỏa sáng cả một bầu trời
đêm đen thẳm trước cổng tam quan chùa. Tăng Ni, Phật tử khắp các nơi
nghe tin đã nhanh chóng tấp nập kéo về nơi Người tự thiêu đông vô số
kể. Vừa để chiêm bái, cầu nguyện, vừa để cùng chư Tăng,
Phật tử, di chuyển nhục thân của Người lên chùa Từ Đàm để tổ chức tang
lễ theo yêu cầu của chư tôn giáo phẩm lãnh đạo Năm cấp Trị sự Tổng Hội
Phật giáo Việt Nam lúc bấy giờ.
Nhưng
khi đoàn di chuyển nhục thân của Người vừa mới qua đến khu vực chùa
Thiên Mụ, thì bất ngờ lực lượng công an, cảnh sát của bạo quyền Ngô
Đình Diệm đã bao vây từ mọi phía, lưỡi lê, súng đạn ào ạt tấn công vào
đoàn người di chuyển nhục thân của Người, rồi cướp mất nhục thân đem về
chôn giấu nơi quê hương của Người, không cho Giáo hội tổ chức tang lễ
của Người theo nghi thức Phật giáo.
Mãi
cho đến năm Canh Ngọ, 1990, chư tôn đức chùa Phước Duyên, Huế mới đưa
di hài của Người về cung táng và xây dựng bảo tháp phía trước cổng tam
quan chùa Phước Duyên. Qua
những bức thư Người viết để lại trước lúc tự thiêu, với lời lẽ chân
thành, tha thiết nhưng cũng vô cùng mạnh mẽ, đã thể hiện rất rõ quyết
tâm và ý thức cao độ của Người đối với sự an nguy của Đạo pháp và dân
tộc.
Trong
bức thư Người gởi cho chư tôn đức Tăng Ni và Phật giáo đồ Việt Nam, có
đoạn Người viết: “Trước khi về cõi Phật, tôi trân trọng gởi đến quý
ngài lời chào tối hậu và tôi xin thành kính cầu nguyện Hồng ân Tam bảo,
Bồ tát Quảng Đức, liệt vị Thánh tử đạo gia hộ quý ngài pháp thể khinh
an, để đoàn kết sau lưng Hòa thượng Hội chủ Thích Tịnh Khiết và Ủy ban
Liên phái Bảo vệ Phật giáo, tranh đấu cho nền tín ngưỡng của dân tộc và
yêu cầu chính phủ thực thi những nguyện vọng tối thiểu mà quý ngài đã
ghi trong các biểu ngữ và trong các báo chí Phật giáo”.
Trong bức thư gởi
cho thân phụ và gia đình, Người đã dự tri được những điều nguy khó mà
thân phụ và gia đình phải gánh chịu sau khi Người tự thiêu. Trong thư
có đoạn Người khuyên thân phụ: “Con chết đi, cậu
phải đương đầu với mọi đe dọa, nhưng cậu đừng sợ, đừng xiêu lòng, khi
họ dùng những mánh lới khác, mà cậu phải hy sinh hoàn toàn cho Phật
giáo, dù cho bản thân tứ đại của cậu phải bị diệt vong. Lần cuối cùng,
con kính lời đến gia đình con, quý bác, chú thím, cô dì, cậu mợ và quý
anh chị em thúc bá nội ngoại gần xa, lời chúc vĩnh biệt trước khi con
về cõi Phật”.
Trong
bức thư gởi “Hai thầy và đạo hữu chùa Phước Duyên” Người chỉ viết ngắn
gọn có mấy dòng, mà chan chứa tình cảm và thể hiện ý thức thức trách
nhiệm sâu sắc sứ mệnh của người xuất gia: “Trước
khi về cõi Phật, tôi kính cẩn chào quý thầy và đạo hữu ở lại được mạnh
giỏi để phụng sự đạo pháp, noi gương vô úy của cố Hòa thượng Quảng Đức”.
Cuối cùng là bức thư Người
gởi cho Tổng Tống Ngô Đình Diệm, nhà lãnh đạo nước Việt Nam Cộng hòa ở
miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ. Qua giọng nói và những đòi hỏi đanh thép
trong bức thư này, lịch sử đã khẳng định: Người không còn là một vị
Tăng sinh 17 tuổi, Người không còn là một chú Sa-si vừa mới được lãnh
thọ giới pháp, mà Người đã trưởng thành như một bậc xuất gia trưởng
thành, pháp vị và pháp tự của Người xứng đáng dự vào hàng ngũ của các
bậc “Trưởng tử Như Lai”. Khi Người mạnh mẽ đòi hỏi: “Hãy
chấm dứt mọi tình trạng khủng bố và áp bức Phật giáo đồ và thả gấp tất
cả những Phật tử bị bắt giam kể từ ngày mồng 8 tháng 5 năm 1963 đến
nay. Hãy giải quyết thỏa đáng những nguyện vọng của Phật giáo đồ đã nêu
trong các biểu ngữ…”
Năm mươi năm - Người đã an nhiên đi vào cõi Niết bàn tịch tịnh, nấm tro yêu quý của Người đã vĩnh viễn nằm yên dưới lòng tháp mộ. Nhưng pháp thân vòi vọi của Người vẫn tỏa rạng giữa lòng Đạo pháp, dân tộc và với cả hồn thiêng sông núi.
Pháp danh và pháp hiệu cao quý của Người vẫn mãi là dấu ấn sâu đậm trong lòng chư tôn
đức Tăng Ni và Phật tử Việt Nam hôm nay và mai sau… Hạnh nguyện cao cả
của Người cũng sẽ mãi mãi là tấm gương sáng chói, soi đường cho hàng
Phật tử hậu thế chúng con trên lộ trình tu tập, hoằng dương và hộ trì Chánh pháp.
Năm
Mươi Năm - Người đã đi - nhưng bóng hình của Người vẫn hiển hiện dưới
mái chùa thân yêu, ngày đêm trầm hương vẫn xông ngát bên di ảnh và long
vị của Người. Mảnh đất nơi Người tự thiêu, Hòa thượng trú trì và chư tôn
đức chùa Phước Duyên đã quyết định xây dựng bảo tháp để làm nơi Người
yên nghỉ. Đây cũng là nơi để hàng Phật tử hậu thế chúng con được chiêm
bái một chứng tích lịch sử hào hùng của Phật giáo Việt Nam trong thời
kỳ Pháp nạn đầy nước mắt và máu xương của biết bao thế hệ Tăng Ni và
Phật tử.
Trên
bức bình phong hậu bảo tháp, Thiền sư Tâm Quán, bậc Cao tăng thế hệ
tiền bối, đã không ngớt lời xưng tán hạnh nguyện cao cả của Người.
Đau thế gian ngã gục người học Tăng bé nhỏ
Em đốt tuổi xuân thành lửa đỏ,
Cháy ngất trời cao,
Ngọn đuốc rực về sông núi âm u.
Ôi ! thịt xương em,
Cho tôi quỳ ngàn năm trên đống tro yêu quý.
Luyện phép linh thiêng,
Biến em thành hoa hồng trở lại
Những đóa sen búp đầu mùa
Chưa kịp hái, chưa từng nở thấy ánh hào quang.
Tôi nghe rồi, em mưa gió phũ phàng
Tôi nghe rồi, em từng tế bào rưng rưng trong cơ thể.
Tôi nghe rồi, tiếng gọi em vang.
Không ai quên đâu, địa ngục hay thiên đàng,
Đều ngó em, tim thế gian đập mạnh,
Trời đất nhìn nhau, trời cao bay thấp.
Tên em viết bằng chữ trăng sao.
Lửa cháy em tôi,
Ôi ! là xương là thịt
Em có đau không ?
Nước mắt tôi không đủ để tưới lên mát dịu
hồn em bé nhỏ thương đau.
bảo tháp Thầy Thanh Tuệ
Cao quý thay!
Năm
Mươi Năm - Ánh Đuốc Thiêng Người thắp lên vẫn rực sáng trong sứ mệnh
hoằng dương và hộ trì Chánh pháp của mọi người con Phật, trong đó có
hàng Thanh, thiếu niên Phật tử hậu thế chúng con.
Nhất tâm đảnh lễ:
NAM MÔ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG TỨ THẬP NGŨ THẾ VIỆT NAM PHẬT GIÁO VỊ PHÁP THIÊU THÂNTHƯỢNG QUẢNG HẠ TRÍ HIỆU THANH TUỆ ĐẠI ĐỨC.
Tác đại chứng minh.