Thư gửi người cư sĩ trẻ
thu gui
Nguyên Giác: Thư gửi người cư sĩ trẻ
Duyên khởi bài viết này vì, mấy hôm đầu tháng 5/2022, được một người em họ từ
Nebraska sang thăm, nghe vài chuyện Phật sự nơi miền Trung Tây Hoa Kỳ, lòng vui
mừng được biết em mình vẫn tin sâu Tam Bảo cho dù đang ở một nơi rất vắng người
Việt. Cũng không có nhiều thì giờ để nói chuyện tu học. Phần vì, người từ miền
xa lần đầu tới Quận Cam, chỉ có vài ngày chủ yếu là để đi chơi, chụp hình lưu
niệm. Do vậy, thư này được viết để trình bày một vài suy nghĩ về tu học và hộ
trì Chánh pháp. Mặt khác, để tránh bầu không khí gia trưởng, và để bài viết
thích hợp với nhiều bạn cư sĩ trẻ sơ cơ, bài này sẽ dùng cách xưng hô là “tôi”
và “bạn” — hy vọng có vài gợi ý khả dụng cho nhiều độc giả trẻ trong và ngoài
nước. Bài viết sẽ trích dẫn kinh điển, tập trung về vai trò người cư sĩ, về
khuyến tấn tu chứng quả Dự lưu để bảo đảm sẽ không bao giờ rơi về ác đạo nữa.
Các sai sót nếu có, xin được sám hối cùng Tam Bảo.
Thế nào là cư sĩ?
Trước tiên, chúng ta nên thấy rõ thế nào là cư sĩ. Trong Kinh AN 8.25, cư sĩ
Thích tử Mahànàma hỏi Đức Phật thế nào là một cư sĩ. Đức Phật trả lời, cư sĩ là
người sống với 3 hạnh: thứ nhất, quy y Phật Pháp Tăng; thứ nhì, giữ năm giới;
thứ ba, khuyến tấn và thực hành tự lợi và lợi tha. Nếu thiếu một trong ba chi
vừa dẫn, hiển nhiên là còn thiếu sót.
Đức Phật dạy rằng cư sĩ là người, trích Kinh AN 8.25, bản dịch của Thầy Minh
Châu: “…quy
y Phật, quy y Pháp, quy y chúng Tăng… từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho,
từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu… tự
mình thành tựu lòng tin và khích lệ người khác thành tựu lòng tin; khi nào tự
mình giữ giới và khích lệ người khác giữ giới; khi nào tự mình bố thí và khích
lệ người khác bố thí; khi nào tự mình muốn đi đến yết kiến các Tỷ-kheo và khích
lệ người khác đi đến yết kiến các Tỷ-kheo; khi nào tự mình muốn nghe diệu pháp
và khích lệ người khác nghe diệu pháp; khi nào tự mình thọ trì những pháp đã
được nghe và khích lệ người khác thọ trì những pháp đã được nghe; khi nào tự
mình suy nghĩ đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì và khích lệ người khác suy nghĩ
đến ý nghĩa các pháp đã thọ trì; sau khi tự mình biết nghĩa, biết pháp, thực
hiện pháp đúng Chánh pháp, khích lệ người khác sau khi biết nghĩa biết pháp,
thực hiện pháp đúng Chánh pháp.” (hết trích)
Ác giới dẫn tới địa ngục, Thiện giới dẫn tới cõi trời
Trong Kinh AN 5.174, Đức Phật nói với cư sĩ Anàthapindika:
“—Này Gia chủ, ai không đoạn tận năm sợ hãi hận thù, được gọi là ác giới và sanh
vào địa ngục. Thế nào là năm? Sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các
dục, nói láo, đắm say rượu men, rượu nấu. Này Gia chủ, ai không đoạn tận năm sợ
hãi hận thù này, được gọi là ác giới và sanh vào địa ngục.
—Này Gia chủ, ai đoạn tận năm sợ hãi hận thù, được gọi là có giới và sanh lên
cõi Trời. Thế nào là năm? Sát sanh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục,
nói láo, đắm say rượu men, rượu nấu. Này Gia chủ, ai đoạn tận năm sợ hãi hận thù
này, được gọi là có giới và sanh lên cõi Trời.” (ngưng trích)
Kẻ bị quăng bỏ ra khỏi hàng ngũ cư sĩ, người là hòn ngọc trong giới cư sĩ
Không phải ai cũng là cư sĩ được. Trong Kinh AN 5.175, Đức Phật dạy rằng có
những kẻ phải bị quăng bỏ ra ngoài hàng ngũ cư sĩ, và có những vị là viên ngọc
sáng trong hàng cư sĩ. Bản dịch của Thầy Minh Châu trích:
“— Thành
tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, một nam cư sĩ là kẻ bị vất bỏ khỏi giới nam cư
sĩ, là cấu uế cho nam cư sĩ, là tối hạ liệt cho nam cư sĩ. Thế nào là năm? Không
tin; ác giới; đoán tương lai với những nghi lễ đặc biệt; tin tưởng điềm lành;
không tin hành động; tìm kiếm ngoài (Tăng chúng) người xứng đáng tôn trọng và
tại đấy phục vụ trước…
— Thành tựu năm pháp, này các Tỷ-kheo, một nam cư sĩ là hòn ngọc trong giới nam
cư sĩ, là hoa sen hồng trong giới nam cư sĩ, là hoa sen trắng trong giới nam cư
sĩ. Thế nào là năm? Có lòng tin; có giới; không đoán tương lai với những nghi lễ
đặc biệt; không tin tưởng điềm lành; tin tưởng ở hành động; không tìm kiếm ngoài
Tăng chúng người xứng đáng tôn trọng và tại đấy phục vụ trước.” (ngưng
trích)
Thiện giới: Biết ơn ba mẹ, trả ơn ba mẹ
Đức Phât dạy rằng biết ơn, trả ơn ba mẹ là phải giúp cho ba mẹ có lòng tin vào
Tam Bảo, an trú ba mẹ vào lòng tin, vào thiện giới, vào bố thí, vào trí tuệ.
Trong Kinh AN 2.32, Đức Phật dạy về ơn ba mẹ: “Có
hai hạng người, này các Tỷ-kheo, ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai?
Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỷ-kheo, nếu một bên vai cõng cha,
làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa
gội, và dầu tại đấy, mẹ cha có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy, này các Tỷ-kheo,
cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Hơn nữa, này các Tỷ-kheo, nếu có an
trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này,
như vậy, này các Tỷ-kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao?
Vì rằng, này các Tỷ-kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng
chúng lớn, giới thiệu chúng vào đời này. Nhưng này các Tỷ-kheo, ai đối với cha
mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào lòng tin; đối
với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện
giới; đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố
thí; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy
vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ-kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha.”
(ngưng trích)
Quả Dự lưu có 4 chi: tin Tam Bảo, giữ giới để đắc định
Trong Kinh SN 55.2, Đức Phật dạy, trích bản dịch của Thầy Minh Châu: “Thành
tựu bốn pháp, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không có thối đọa,
quyết chắc chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh
đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: “Ðây là bậc Ứng cúng … Phật,
Thế Tôn”. Ðối với Pháp … Ðối với Tăng … Vị ấy thành tựu các giới được các bậc
Thánh ái kính … đưa đến Thiền định. Thành tựu bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, vị
Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ?”
(ngưng trích)[1]
Dự lưu: thấy rõ tập khởi, đoạn diệt…
Trong Kinh SN 23.7, Đức Phật dạy: “Này
Rādha, có năm thủ uẩn này. Thế nào là năm? Sắc thủ uẩn … thức thủ uẩn. Này
Rādha, khi nào bậc Ða văn Thánh đệ tử như thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn
diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của năm thủ uẩn này. Vị này, này
Rādha, được gọi là vị Thánh đệ tử đã chứng Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết
chắc đạt đến cứu cánh bồ-đề.” (ngưng trích)[2]
Dự lưu: Lòng tịnh tín bất động là chìa khóa
Trong Kinh AN 10.64, Đức Phật dạy:
“Này
các Tỷ-kheo,
những ai có lòng tịnh tín bất động ở nơi Ta, tất cả những vị ấy là những bậc Dự
lưu. Với những bậc Dự lưu ấy, năm hạng người đạt được cứu cánh ngay ở
nơi đây. Năm hạng người, sau khi từ bỏ đời này, đạt được cứu cánh. Và năm hạng
người nào, đạt được cứu cánh, ngay ở nơi đây?
Hạng trở lui nhiều nhất là bảy lần (Thất lai), hạng Gia gia, hạng Nhứt chủng,
hạng Nhất lai, và vị nào là vị A-la hán ngay trong hiện tại. Năm hạng người này
đạt được cứu cánh ngay ở nơi đây…” (ngưng trích)[3]
Ghi nhận: chữ “Gia gia” nơi đoạn thứ nhì ở trên là chỉ bậc Dự lưu còn tái sinh 7
lần, còn tái sinh từ nhà này sang nhà kia (theo bản dịch Sujato.)
Phạm giới nhỏ, cũng có thể là bậc Dự lưu
Trong Kinh SN 55.24, trích, bản dịch của Thầy Minh Châu:
“Ngồi
một bên, họ Thích Mahānāma bạch Thế Tôn:
—Ở đây, bạch Thế Tôn, họ Thích Sarakàni đã mệnh chung và được Thế Tôn tuyên bố
là bậc Dự lưu … chứng quả giác ngộ. Ở đây, bạch Thế Tôn, một số đông họ Thích
khi tụ tập lại với nhau, chỉ trích, phê bình, bàn tán: “Thật là lạ lùng! Thật là
hy hữu! … Họ Thích Sarakàni đã phạm giới và uống rượu.”
—Này Mahānāma, một cư sĩ lâu ngày qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng làm sao có
thể đi đến đọa xứ được?
Này Mahānāma, nếu nói một cách chơn chánh: Người cư sĩ nào đã lâu ngày qui y
Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, nói một cách chơn chánh phải nói là họ Thích
Sarakàni. Này Mahānāma, họ Thích Sarakàni đã lâu ngày quy y Phật, quy y Pháp,
qui y Tăng, làm sao có thể đi đến đọa xứ? (……)
Nếu những cây ta-la lớn này, này Mahānāma, biết những gì là thiện thuyết, ác
thuyết, thời Ta cũng sẽ tuyên bố những cây ấy là những bậc Dự lưu, không còn bị
thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ, huống nữa là họ Thích Sarakàni...”
(ngưng trích)[4]
Tương đương là bên A Hàm, Kinh SA 936, ghi thêm rằng có yếu tố cận tử biết tỉnh
ngộ: “Này
Ma-ha-nam, Bách Thủ họ Thích lúc sắp chết, nhờ thọ trì tịnh giới, bỏ uống rượu
nên sau khi mạnh chung Ta ký thuyết ông đắc Tu-đà-hoàn,… cho đến cứu cánh thoát
khổ.”
Dự lưu: tịnh tín Tam Bảo, lìa tham, thường bố thí
Trong Kinh SN 55.39, Đức Phật dạy cho một nữ cư sĩ, trích:
“— Thành
tựu bốn pháp, này Godhà, vị nữ Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa,
quyết chắc chứng quả giác ngộ. Thế nào là bốn? Ở đây, này Godhà, vị nữ Thánh đệ
tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với đức Phật: “Ðây là bậc Ứng Cúng, …
Phật, Thế Tôn” … đối với Pháp … đối với chúng Tăng … Vị này trú ở gia đình, tâm
thoát khỏi cấu uế của xan tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở, thích thú từ
bỏ, đáp ứng điều yêu cầu, thích thú chia xẻ vật bố thí. Này Godhà, thành tựu bốn
pháp này, một nữ Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc
chứng quả giác ngộ.” (ngưng trích)[5]
Chọn pháp tu thích hợp
Đọc kỹ lời Đức Phật dạy về quả Dự lưu, chúng ta thấy phần lớn tập trung vào giới
và sự tương tác với xã hội chung quanh. Thí dụ, quy y, giữ giới, ngoài đời giỏi
tay nghề, trong đạo tịnh tín bất động, lòng ưa bố thí, không vướng cấu uế, từ bỏ
xan tham, không theo tà kiến (không đoán tương lai, không tin điềm lành, không
theo nghi lễ đặc biệt [của ngoại đạo]…). Duy trong Kinh SN 23.7 nêu trên, Đức
Phật nói người chứng Dự lưu là đã như
thật biết rõ sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự
xuất ly của năm thủ uẩn — tức là Thiền, tức là quán sát thân tâm để thấy sinh
diệt của năm thủ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức); Đối chiếu với nhiều Kinh
khác, nếu thấy thực sự trọn vẹn như thế, cũng chính là đã chứng quả A la hán.
Trong cương vị người cư sĩ hiện nay, nhất là những người sống nơi xa ở xứ người,
may mắn thì còn gần chùa, gần thầy, còn thì cơ duyên học pháp phần lớn là đọc
bài trên mạng, nghe pháp trên YouTube; trường hợp như thế, nên tự tu tập nhiều
pháp, để rồi sẽ chọn một hay vài pháp thích nghi. Đôi khi, gặp những đoạn văn
tiếng Việt khó hiểu trong Kinh, nên tìm đọc bản tiếng Anh đối chiếu để hiểu rõ
hơn. Thêm nữa, đọc Kinh đối chiếu với tiếng Anh cũng là cơ hội học tiếng Anh.
Nếu tiếng Anh còn kém, nên vào YouTube và gõ “learning English” để theo các
video học tiếng Anh; không có trường nào dạy tiếng Anh trên đời này xuất sắc hơn
YouTube.
Thiền tâm từ, tưởng bất tịnh, niệm hơi thở, tưởng vô thường, tưởng vô ngã…
Đức Phật có dạy một pháp để được 11 lợi ích, trong đó người tu sẽ được chư Thiên
bảo hộ: đó là Thiền Tâm Từ. Kinh AN 11.15 ghi lời Đức Phật dạy: “…từ
tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác
thành cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tục an trú, được tích tập,
được khéo khởi sự thời được chờ đợi là mười một lợi ích. Thế nào là mười một?
Ngủ an lạc, thức an lạc, không ác mộng, được loài người ái mộ, được phi nhân ái
mộ, chư Thiên bảo hộ, không bị lửa, thuốc độc, kiếm xúc chạm, tâm được định mau
chóng, sắc mặt trong sáng, mệnh chung không hôn ám; nếu chưa thể nhập thượng
pháp (A-la-hán quả); được sanh lên Phạm thiên giới.”
Cách đơn giản để tu Tâm từ là ghi nhớ lời Đức Phật dạy rằng tất cả chúng sinh
đều đã từng là ba mẹ, anh chị của mình. Hoặc thọ trì Kinh Metta Sutta trong đó
ghi lời Đức Phật dạy rằng tu Tâm từ là tự thấy mình là mẹ và xem tất cả chúng
sinh các cõi như đứa con trai độc nhất của mình.
Trong Kinh Ud 4.1, Đức Phật dạy ngài Meghiya (một vị thị giả của Đức Phật trong
những năm trước khi ngài Ananda giữ chức thị giả bên Phật): “Nên
tu tưởng bất tịnh để xa lìa tham, tu tâm từ để xa lìa sân, tu niệm hơi thở để
cắt đứt dòng suy nghĩ, và tu pháp tưởng vô thường để nhỗ gốc rễ cái chấp ‘có tự
ngã’.”
Chúng ta nên đơn giản hóa pháp tu bất tịnh, dựa theo Kinh AN 4.169: “…sống
quán bất tịnh trên thân, với tưởng nhàm chán đối với các món ăn, với tưởng không
hoan hỷ đối với tất cả thế giới, quán vô thường đối với tất cả hành, với tưởng
chết, khéo an trú nội tâm...” Như thế, bất
tịnh nghĩa là nhàm
chán và không vui sướng với tất cả những gì được thấy, được nghe, được cảm
thọ, được hay biết (nghĩa là thế giới trong và ngoài thân tâm). Còn niệm
tử, hay tưởng chết, nên rút gọn về cái nhìn tất cả các pháp đang tịch
diệt, như thế nghĩa là đang thấy, nghe, cảm thọ, hay biết tất cả các pháp đang
biến mất, đang tan rã (kể cả thân tâm mình).
Thiền hơi thở có thể xem là một phần của Niệm Thân. Nhiều Kinh ghi về Thiền hơi
thở đầy đủ có 16 chi. Tuy nhiên, có một số Kinh, ghi lời Đức Phật dạy cách thở
đơn giản là “quán từ bỏ (xả ly) trong khi niệm hơi thở vào, niệm hơi thở ra.”
Nghĩa là, chỉ có 2 chi .
Kinh SN 54.4 ghi rằng: “Tu
tập như thế nào, này các Tỷ-kheo, làm cho sung mãn như thế nào, niệm hơi thở vô,
hơi thở ra có quả lớn, có lợi ích lớn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến
khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến căn nhà trống, ngồi kiết-già… “Quán từ
bỏ, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. Tu tập
như vậy, này các Tỷ-kheo, làm cho sung mãn như vậy, niệm hơi thở vô, hơi thở ra
thời có quả lớn, có lợi ích lớn. Niệm hơi thở vô, hơi thở ra được tu tập như
vậy, này các Tỷ-kheo, được làm cho sung mãn như vậy, được chờ đợi một trong hai
quả sau: Ngay trong hiện tại, được Chánh trí; nếu có dư y, chứng quả Bất lai.”
(ngưng trích) – (Các Kinh SN 54.6, SN 54.7, SN 54.9 cũng tương tự).[6]
Trong Kinh AN 9.20, Đức Phật dạy rằng niệm tâm từ và niệm vô thường có công đức
và oai lực rất lớn, rằng có cúng dường 100 vị A la hán, 100 vị Độc giác Phật,
một Như Lai, và xây tịnh xá cho vô lượng chư tăng mười phương thì cũng không
bằng “có
ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc vắt sữa bò, tu tập từ tâm, và có ai dầu chỉ
trong một khoảnh khắc búng ngón tay, tu tập tưởng vô thường, bố thí này quả lớn
hơn bố thí kia.”[7]
Thế nào là niệm vô thường? Niệm vô thường là liên tục thấy rằng không có gì có
thể gọi là một cái gì, vì dòng chảy xiết luôn luôn trôi chảy qua thế giới trong
và ngoài thân tâm chúng ta. Chúng ta không thể nghĩ về cái hiện tiền, vì thế
giới hiện tiền được ví như điểm tiếp giáp là hạt mè lơ lửng nơi đầu mũi kim.
Thấy như thế, là thấy không có bất kỳ pháp nào có thể gọi là tự ngã. Chúng ta
không có tự ngã, vì thân tâm chỉ là một dòng sông đang chảy xiết của “một nhúm
bọt sắc thọ tưởng hành thức”… Các Thiền sư thời xưa thường nói, mở miệng là sai
rồi. Bời vì mở miệng, là mất liền pháp hiện tiền.
Niệm vô thường cũng dẫn tới thấu triệt vô ngã. Để sống với dòng sông vô thường,
để nhận ra khối lung linh vô ngã của thân tâm, cách tiếp cận phải là trực tiếp,
không dựa vào bất kỳ phương pháp nào, phải là cái thấy tỉnh thức của vô ngôn,
của vô tâm. Khi chúng ta xem trận bóng đá trên TV, hễ suy nghĩ so đo là mất liền
cái thấy hiện tiền nơi quả bóng, hễ mở miệng nhận định đúng sai giỏi dở là mất
liền cái thấy hiện tiền của những bước chạy theo bóng. Nghĩa là, cái
thấy hiện tiền là một tỉnh thức thường trực của vô ngôn (không bàn cãi
nói năng), của vô tâm (không nghĩ ngợi). Tương tự, khi chúng ta nghe một ca sĩ
hát, hễ suy nghĩ so đo là mất liền cái nghe hiện tiền nơi lời ca, hễ mở miệng
nhận định đúng sai giỏi dở là mất liền cái nghe hiện tiền của ý nhạc. Nghĩa là, cái
nghe hiện tiền là một tỉnh thức thường trực của vô ngôn (không bàn cãi
nói năng), của vô tâm (không nghĩ ngợi). Tương tự, với cảm thọ, với nhận biết.
Hễ nghĩ ngợi, hễ dùng ngôn ngữ là mất liền cái hiện tiền, bởi vì ngôn ngữ và
nghĩ ngợi là cái khung của quá khứ, là cái gánh nặng của vô lượng ngày hôm qua.
Ngay khi thấy
nghe cái hiện tiền (dù là của trận bóng đá hay của cuộc hòa nhạc) thì
vô lượng những cái ngày hôm qua biến mất, vì cái hiện tiền không phải Tây, Tàu,
Mỹ, Việt, Nhật, Hàn… mà chính là vô lượng cái không biết, vô lượng cái chưa từng
biết, và là cái hạnh phúc hiển lộ ngay khi chúng ta sống được trong cái hiện
tiền vô thường (dù là đang xem đá bóng) thì đã không còn thấy bóng dáng tham sân
si nơi nào.
Nhận biết mình đang tắm trong dòng sông vô thường cũng là hiểu
rõ như thật, cũng là Thiền
Tịnh, theo lời Đức Phật dạy trong Kinh SN 35.100, trích: “Này
các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo Thiền tịnh, hiểu rõ như thật. Và hiểu rõ gì như thật?
Như thật hiểu rõ mắt là vô thường, như thật hiểu rõ các sắc là vô thường, như
thật hiểu rõ nhãn thức là vô thường, như thật hiểu rõ nhãn xúc là vô thường.
Phàm duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; như thật
hiểu rõ cảm thọ ấy là vô thường… tai… lưỡi… thân… ý… Này các Tỷ-kheo, hãy hành
trì hạnh Thiền tịnh.” (ngưng trích)[8]
Đó chính là cái thấy tối thượng, cái nghe tối thượng… như ghi trong Kinh SN
35.100: “Tôn
giả Bhaddaji vâng đáp Tôn giả Ananda. Tôn giả Ananda nói như sau: —Khi người ta
nhìn, này Hiền giả, không có gián đoạn, các lậu hoặc được đoạn trừ, như vậy là sự
thấy tối thượng. Khi người ta nghe không có gián đoạn, các lậu hoặc
được đoạn trừ, như vậy là sự
nghe tối thượng. Khi người ta cảm giác lạc thọ không có gián đoạn, các
lậu hoặc được đoạn trừ, như vậy là an
lạc tối thượng. Khi người ta cảm tưởng không có gián đoạn, các lậu hoặc
được đoạn trừ, như vậy là tưởng
tối thượng. Khi người ta hiện hữu không có gián đoạn, các lậu hoặc được
đoạn trừ, như vậy là hữu
tối thượng.”[9]
Đức Phật còn dạy nhiều pháp nữa. Nơi đây chỉ viết lại theo kiểu rút gọn một số
pháp tiện dụng cho bạn. Khi hiểu được một cửa vào, rồi sẽ hiểu tất cả những cửa
vào khác, vì vị giải thoát chỉ là một. Mỗi người cư sĩ đều sẽ tự thích nghi theo
cách riêng. Chỉ hy vọng rằng bài viết này là một lời mời lên đường cho các bạn
trẻ, để bước vào kho tàng mênh mông của Chánh pháp. Và đừng bao giờ đi chệch
hướng.
[1] Kinh SN 55.2: https://suttacentral.net/sn55.2/vi/minh_chau
[2] Kinh SN 23.7: https://suttacentral.net/sn23.7/vi/minh_chau
[3] Kinh AN 10.64: https://suttacentral.net/an10.64/vi/minh_chau
[4] Kinh SN 55.24: https://suttacentral.net/sn55.24/vi/minh_chau
[5] Kinh SN 55.39 https://suttacentral.net/sn55.39
[6] Kinh SN 54.4: https://suttacentral.net/sn54.4/vi/minh_chau
[7] Kinh AN 9.20: https://suttacentral.net/an9.20/vi/minh_chau
[8] Kinh SN 35.100: https://suttacentral.net/sn35.100/vi/minh_chau
[9] Kinh SN 35.100:
https://suttacentral.net/sn35.100/vi/minh_chau
Nguồn: hoangphap.org