Sơ lược về các tổ chức trong phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Nam Bộ giai đoạn 1920-1945
Sơ lược về các tổ chức trong pho
Sơ lược về các tổ chức trong
phong trào Chấn hưng Phật giáo
ở Nam Bộ giai đoạn 1920-1945
Tỳ-kheo Thích Đồng Hạnh
Dẫn Nhập
Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật
học được thành lập tại chùa Linh Sơn, Sài Gòn vào năm 1931 là hội Phật giáo đầu
tiên được cấp phép thành lập trong phong trào chấn hưng Phật giáo của Phật giáo
Việt Nam trong giai đoạn 1920-1945. Từ đó tạo nên sự phấn khởi trong Tăng Ni và
tín đồ các giới, tạo tiền đề cho việc thành lập các hội Phật giáo khắp ba miền
và cuối cùng là sự thống nhất thành một hội Phật giáo duy nhất, đúng theo tâm
nguyện của các bậc tôn túc lúc bấy giờ.
Từ thời điểm đó đến nay, đã
gần một thế kỷ trôi qua, nhưng những di sản mà các bậc tiền nhân để lại vẫn còn
nguyên giá trị cho hậu thế noi theo. Với mục đích tri ân các bậc tiền nhân và
tập hợp lại các tư liệu về phong trào chấn hưng Phật giáo tại Nam Bộ giai đoạn
1920-1945, trong bài biết này, người viết xin trình bày sơ lược về sự thành lập
các tổ chức Phật giáo tại Nam Bộ, những tổ chức đi đầu trong phòng trào chấn
hưng Phật giáo tại Việt Nam, từ năm 1920 đến năm 1945, cũng như trình bày về
cương lĩnh hoạt động và kết quả đạt được trong hơn hai thập kỷ chấn hưng Phật
giáo tại miền Nam Việt Nam.
Từ khóa:
chấn hưng, Phật giáo Nam Bộ, phong trào, chấn hưng Phật giáo.
Nội Dung
1. Các tổ chức trong phong
trào chấn hưng Phật giáo Nam Bộ
Ý tưởng về
chấn hưng Phật giáo
xuất phát đầu tiên từ
Hòa thượng (HT)
Khánh Hòa vào năm
1923. Nhân ngày giỗ tại chùa Long Hòa,
quận Tiểu Cầu, tỉnh Trà Vinh (19-9-Quý
Hợi), HT.Khánh Hòa đã
cho mời
những vị tôn túc ở vùng Tiền - Hậu Giang về dự. Trong buổi lễ giỗ, nhân cơ hội,
Hòa thượng
ngõ ý mời các vị tôn túc cùng thành lập một tổ chức Phật giáo
chung nhằm củng cố và
chấn hưng Phật giáo
[5,
tr.43]. Trước ngõ ý rất chân thành của HT.Khánh Hòa và vì một nền Phật giáo
tươi
sáng hơn, các
Hòa thượng
như Huệ Quang, Chí Thiền, Trí Thiền, Từ Phong, Chánh Quả, An
Lạc, Huệ Định, Diệu Pháp đã cùng hiệp tâm với HT.Khánh Hòa. Họ đã thành lập hội
Lục hòa
Liên hợp
nhằm tạo bàn đạp cho một hội Phật giáo thống nhất toàn quốc. Nhưng những nỗ
lực ban đầu của HT.Khánh hòa thất bại [5,
tr. 45].
Mãi tới năm 1926, ý
tưởng chấn hưng Phật
giáo mới
được nhắc lại từ cư sĩ Huỳnh Thái Cửu. Nhân dịp Vu Lan, cư sĩ đã mời một số vị
Hòa thượng
tới cư gia tại Trà Vinh để cúng dường trai tăng. Trong buổi tác
bạch cúng dường, cư sĩ đã tuyên nói những vấn nạn của giới
Tăng
Ni
và sự suy thoái của Phật giáo nước nhà, và cư sĩ cũng nêu rõ
thành ý muốn
thành lập một tổ chức Phật giáo thống nhất để hưng khôi Phật giáo nước nhà
[7,
tr.431]. Cư sĩ đề ra 3 tiêu chí cho việc chấn hưng:
a.
Lập hội Phật giáo.
b.
Thỉnh ba tạng kinh điển dịch ra chữ Quốc ngữ.
c.
Lập trường Phật học đào tạo
Tăng
tài.
Vào năm 1927,
HT.Khánh Hòa hiệp thông cùng HT.Huệ Quang, Liên Trì, Thiện Niệm, Thiện Chiếu
cùng các cư sĩ trẻ tại chùa Linh Sơn lập một tổ chức với tên gọi Phong
trào
Chấn hưng,
với mục
đích ban đầu là làm cơ sở giáo dục chư
Tăng
Ni
và tàng lưu kinh sách phục vụ cho vấn đề nghiên cứu [5,
tr. 50]. Tuy nhiên, do không xin được giấy phép của chính quyền thuộc địa, tổ
chức này không được đi vào hoạt động. Vào đầu năm 1929, nhóm của HT.Khánh Hòa
lại hiệp thông với Sư
Thiện Chiếu lập
Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật
học.
Nhưng do không xin được giấy phép nên tổ chức này không được đi vào hoạt động
ngay được. Cũng trong năm 1929, nhóm
của
HT.Khánh Hòa đã vận động thành lập hai tập san Phật giáo bằng chữ Quốc ngữ là
Pháp Âm và Phật Hóa Tân Thanh Niên. Tuy nhiên,
hai
tờ
báo Phật giáo đầu tiên này
bị đình chỉ ngay sau ấn bản đầu tiên.
Ngày 26-8-1931,
Thống đốc Nam Kỳ Khrautheimer phê chuẩn Nghị định số 2062 chính thức công nhận
tính pháp lý của Hội Nam Kỳ Nghiên
cứu
Phật học
(Association pour l'etude et la conservation du Bouddhisme en Cochinchine), đồng
thời thông qua bản điều lệ gồm 19 điều và bản quy tắc 51 điều. Cơ cấu tổ chức
ban đầu của Hội bao gồm: Ban hội viên danh dự với các thành viên như Thống đốc
Nam Kỳ
Khrautheimer (Hội trưởng Danh dự), Đốc lý
thành
phố Sài Gòn Rivoal (Hội phó Danh dự), bà Karpeès - Trưởng phòng Khảo cứu Phật
giáo Lào và Campuchia, ông Robert - Đốc học Đông Pháp Trung Pháp học đường và bà
Lê Thị Ngởi; Ban Trị sự do HT.Lê Khánh Hòa làm Hội trưởng, Hội phó là
cư
sĩ Trần Nguyên Chấn và HT.Từ Phong; Cố vấn là HT.Huệ Quang cùng
cư
sĩ Nguyễn Văn Nhơn; Thủ quỹ là Phạm Ngọc Vĩnh và Từ hàn (thư ký) Lê Văn Phổ.
Ngày 9-11-1932,
Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học được Đốc lý Khâm sứ Legros cho phép thành
lập chi hội tại Nam Vang theo Nghị định số 307, và HT.Nguyễn Phát Phước được cử
làm Chi Hội trưởng. Hội có trụ sở đóng tại chùa Kim Chương. Sự ra đời của chi
nhánh này là tiền đề cho việc lập Hội Phật học Cao Miên tại chùa Thanh Quang
- Phnompenh
năm 1934, với ông Trần Văn Phép làm Hội trưởng, và với Khâm sứ Silvestre và
Richard làm Hội trưởng Danh dự. Mục đích của Hội là: “Học
hỏi cho biết rồi do sự hiểu biết theo sức lại nhờ các bậc Đại đức giúp đỡ mà
diễn dịch lần hồi hằng ước ao cho ánh sáng của Phật pháp chói rọi khắp thế gian”.
Tiếp bước sự thành công của HT.Khánh Hòa trong việc lập Hội Nam
Kỳ
Nghiên cứu Phật học,
một số vị tôn túc cũng cho thành lập những tổ chức cũng như tập san Phật giáo mà
đồng hiệp ý
chấn hưng Phật giáo
tại Nam
Bộ.
Trong đó điển hình là các phong trào: Thiên Thai Thiền
giáo
tông
và
Tạp
chí Bát
Nhã Âm
(được
lập bởi HT.Huệ Đăng
vào
năm 1931), Liên Đoàn Học Xã và Lưỡng Xuyên Phật Học (được
thành lập bởi nhóm HT.Khánh Hòa và các cộng sự), Phật giáo Tương Tế Hội [5,
tr.43-59].
Tiếp đến, ngày 13-8-1934,
Hội Lưỡng Xuyên Phật học (Association Bouddhique Luong
-
Xuyen
-
Phat - hoc) được
Thống đốc Nam Kỳ
phê chuẩn thành lập theo Nghị định số 2286, tại chùa Long Phước, tỉnh Trà Vinh.
Mục đích của Hội là: “Đào
tạo nhân tài để trùng hưng Phật pháp & hoằng pháp lợi sanh, đồng tu tập cho tinh
tấn đoàn thể Tăng-già
và nghiên cứu nghĩa lý mầu
nhiệm trong kinh tạng, phô diễn ra chữ Quốc âm để làm món tâm dược mà cống hiến
cho nhân sinh”.
[5,
tr.43-59].
Ngày 5-7-1935,
Toàn quyền Đông Dương René Robin ký Nghị định số N604S cho phép Hội Lưỡng
Xuyên xuất bản Tạp
chí Duy Tâm Phật
Học,
mỗi tháng ra 4 kỳ. Số đầu tiên của Duy Tâm được ấn hành vào ngày 1-10-1935
và đình bản vào ngày 6-7-1943
ở số kép 53-54. Tôn chỉ của tạp chí: “Nhằm
đem giáo lý cao thượng của Phật-đà
mà bày tỏ cho những người học Phật biết được cái mục đích học Phật của mình.
Duy Tâm
ra đời để cứu rỗi cái đời đảo điên thống khổ, cái tri thức
lu lờ, sửa đổi hết thảy những phong tục xấu xa, kiểu chánh các điều thành kiến
dở dang của xã hội, mưu sao cho nhân loại yên vui, cõi đời bình tĩnh, từ chốn
quê mùa đến nơi khai hóa được biết đến giáo lý huyền diệu cao siêu của Phật pháp”
[5,
tr.43-59].
Ngày 19-10-1934,
Hội Thiên Thai Thiền giáo tông Liên hữu được chính quyền thuộc địa cho
phép thành lập tại Bà Rịa. HT.Huệ Đăng chùa Thiên Thai được bầu làm Chứng minh
Đạo sư; Đốc phủ Gò Công là Nguyễn Văn Hải giữ chức Hội trưởng Danh dự. Ban Trị
sự của Hội gồm 11 người, gồm: Hội trưởng Phạm Hữu Đức; Hội phó Thái Văn Chánh và
Bùi Sơn Tây; Thủ quỹ Đỗ Phước Tâm; Từ hàn Đặng Tấn Chức; Cố vấn Trương Văn Tý,
Trần Văn Liêng, Phùng Văn Phương. Mục đích của Hội là: “Làm cho các hội viên
học kinh, luật, luận đạo Phật bởi nhờ lập kho sách học Phật, lập trường dạy học
và diễn thuyết có kỳ thời. Cứu giúp những người cùng khổ tùy theo sức của Hội.
Tế trợ những người trong Hội trong các cuộc hoan hôn tang tế” [5,
tr.43-59].
Ngày 19-7-1935,
Hội Thiên Thai Thiền giáo tông được Thống đốc Nam
Kỳ
phê chuẩn Nghị định số 2466 cho phép thành lập. HT.Huệ Đăng chùa Thiên Thai được
bầu làm Đại Chứng minh; HT.Pháp Hỷ chùa Bửu Sơn, HT.Minh Chiếu chùa Long Quang
và HT.Pháp Trí chùa Phước Lập được bầu làm Chứng minh. Chiếu theo điều lệ thứ 10
của Hội, Ban Trị sự gồm: Phạm Hữu Đức - Giám đốc học hồi hưu giữ chức Hội
trưởng; Thái Văn Chánh - Ngũ đẳng Bắc đầu bội tinh làm Phó Hội trưởng thứ nhất,
và Bùi Sơn Tây giữ chức Phó Hội trưởng thứ hai; Thư ký là Phan Văn Sô - Chánh
quản hồi hưu và Phó Thư ký Lê Văn Huề; Cố vấn Nguyễn Văn Dũng, Trần Văn Tý, Trần
Văn Liên, Nguyễn Văn Ngưu. Năm 1935, Hội được phép xuất bản
Tạp
chí Niết Bàn. Mục đích của Hội là: “Lập Thích học đường;
tạo
pháp bửu tạng; vân
tập các thích tử tu học;
rước
thầy giảng kinh Phật và dạy sách Nho;
mỗi
kỳ thuyết pháp và ban bố cho hội viên;
cất
nhà cô độc nuôi những kẻ cô quạnh bệnh già”
[8, tr.46].
Theo
Công
văn số 61-C của Thống đốc Nam
Kỳ,
đến ngày 16-7-1935
tại miền Nam có các tổ chức
Giáo
hội được công nhận tính chất pháp lý là: Hội Nam
Kỳ
Nghiên cứu Phật học
đăng ký tại chùa
Linh Sơn, Sài Gòn; Tịnh độ Cư sĩ Phật hội tại chùa Hưng Long, Chợ Lớn;
Lưỡng Xuyên Phật học
hội
tại chùa Long Phước, Trà Vinh; Long Xuyên Phật giáo Lương
hữu
hội tại
chùa Bình An, Long Xuyên; Hội Phật học Tương
tế
tại chùa
Thiên Phước, Sóc Trăng; Thiên Thai Thiền giáo tông Liên hữu Hội tại chùa
Phước An, Bà Rịa.
Thành lập muộn nhất
tại miền Nam là Hội Phật học Kiêm
tế
(Association Bouddhique et de Bienfaisance de Rachgia) được Thống đốc Nam kỳ
Pagès phê chuẩn thành lập theo Nghị định số 1068, ngày 23-3-1937,
kèm theo 24 điều lệ và 37 điều quy tắc tại chùa Tam Bảo -
Rạch Giá.
Mục đích của Hội là “Cốt
để tuyên truyền Phật pháp và bố thí áo cơm, sách vở, thuốc thang cho trẻ cô bần”
[3,tr.8].
Ngày 23-9-1937
Toàn quyền Đông Dương ký
nghị
định cho phép xuất bản
Tạp
chí Ánh Sáng
Phật Pháp,
tòa soạn đặt tại Sùng Phước
tự,
quản lý là Đinh Văn Khương, số đầu tiên ra mắt vào ngày 1-1-1938.
Tôn chỉ của tạp
chí nhằm hướng theo gương từ bi, hỷ xả của Đức Phật, độ người bất phân tôn ti
thượng hạ, không chia giai cấp xã hội, không bênh mình bỏ người, cũng chẳng nói
bổn ban hay ngoại quốc, chỉ biết chúng sinh
là quyến thuộc để mong cầu độ tận là được thỏa mãn. Mục đích là: “Đem
cái giáo lý của Đấng
Chí tôn mà phơi bày cho các nhà học Phật, xướng minh cái
Chánh
pháp để cải chánh những chỗ sai lầm, chỉ mong nhân loại quần sanh mau khỏi khổ,
từ chốn thôn quê đến miền thị tứ cho được thấu lý vô thường pháp mầu của Phật”
[5,
tr.53].
2.
Cương Lĩnh hoạt động chung
của phong trào chấn hưng Phật giáo Nam Bộ giai đoạn 1920-1945
Chủ
trương ban đầu của phong trào
chấn hưng Phật giáo
do HT.Khánh Hòa đề
xướng bao gồm 4 điểm: Lập hội Phật giáo;
Thỉnh ba tạng kinh điển dịch ra chữ Quốc ngữ;
Lập trường Phật học để đào tạo
Tăng
tài và xuất bản tạp chí phổ biến giáo lý;
Kêu gọi Tăng
đồ thức tỉnh, chấn
hưng quy củ thiền môn[10].
Tuy nhiên,
đây là những mục tiêu khách quan HT.Khánh Hòa đã đề ra, bởi vì mỗi tổ chức hay
mỗi hội nhóm đều có những cương lĩnh và mục tiêu nhất định.
Ngay từ đầu khi
lập Hội
Liên Hiệp Lục Hòa,
mục tiêu duy nhất của HT.Khánh Hòa là để tập hợp
Tăng
Ni
trong cả nước để thành lập một khối Phật giáo thống nhất từ Nam ra Bắc [9].
Vậy mục tiêu đầu tiên của phong trào chấn hưng là lập hội Phật giáo. Sau cuộc
vận động thành lập hội Phật giáo Nam Bắc thất bại, HT.Khánh
Hòa
cùng Sư
Thiện Chiếu vận động
thành lập
tập san Phật giáo đầu tiên tại Việt Nam, với tên gọi Pháp Âm. Mục tiêu
của Pháp Âm là phổ biến Phật giáo
đến
với mọi người đồng thời kêu gọi mọi người chung tay thúc đẩy công việc chấn
hưng: “Muốn truyền bá tư tưởng Phật giáo thì cần nhứt các học giả nên hiệp
tác với nhau, chung cùng tư phủ, cất nhà thư xã, thỉnh ba tạng kinh đồng nghiên
cứu, rồi dịch ra chữ
Quốc
ngữ, phổ thông trong thiên hạ, khiến cho mỗi người xem đọc đều được phép nhà
đạo, ai làm trái thì chừa ai làm phải thì theo. Kẻ giả đồ kia cải nghiệp thì
Phật pháp mới chuyển tăng hưng vượng”
[6,
tr.31-33]. Trong khi đó tờ Phật Hóa Tân Thanh Niên lại chủ trương hướng
sự chú tâm của giới trẻ [11].
Không phải tờ báo chỉ hướng tới người đọc là giới trẻ, mà tờ báo nhấn mạnh
tầm quan trọng của thanh niên trong việc
chấn hưng Phật giáo
và gây dựng nền hòa bình cho nước nhà
[2,
tr.18-23].
Về cương lĩnh hoạt
động của Nam Kỳ Nghiên
cứu
Phật học
Hội
(1931),
cho dù không đi vào hoạt động như ý muốn ban đầu, mục tiêu của hội rất rõ ràng.
Ở
mục tiêu thứ nhất, hội nhấn mạnh những người tham gia vào hội hoặc là nhân viên
hoặc là học Tăng,
nhất nhất chỉ chuyên tâm vào nghiên cứu Phật học. Hội cấm và không chủ đích bàn
về các hoạt động chính trị và các việc khác với mục tiêu đề ra[1]. Mục tiêu thứ
hai của hội gồm bốn
phân mục nhỏ: phát triển và bảo vệ chùa Linh Sơn là cơ sở trụ xứ của
hội,
tu bổ Pháp bảo
phường
và Duyệt kinh
thất
là phòng đọc sách và thư viện của hội, thúc đẩy dịch kinh sách từ chữ Hán
sang
chữ Quốc ngữ, và lập Thích
học
đường
để đào tạo tăng tài[1].
Về Lưỡng Xuyên
Phật học
hội,
mục tiêu được đề ra là:
một
mặt lo đào tạo nhân tài để trùng hưng Phật pháp, hoằng pháp lợi sanh; mặt khác
đoàn thể Tăng-già đồng
tu tập tinh tấn và nghiên cứu nghĩa lý mầu
nhiệm trong kinh tạng, phô diễn ra chữ Quốc âm để làm món tâm dược mà cống hiến
cho nhân sinh. Thiên Thai Thiền giáo tông Liên hữu
hội
lại chủ
trương: xây
dựng trường đào tạo Tăng sĩ, tạo Pháp bảo đường tàng trữ kinh sách, truyền dạy
Nho học, xây dựng nhà tế bần. Hội Phật
học
Kiêm tế
chỉ nêu
ra
hai mục tiêu chính:
tuyên
truyền Phật học và tế bần kẻ nghèo khó.
Nhìn chung, mục
tiêu của những hội nhóm Phật giáo được thành lập tại Nam
Bộ
trong giai đoạn 1920-1945, trên bình diện chung, không ngoài mục tiêu khôi chấn
lại Phật giáo nước nhà, và mặc dù có những khác biệt nhỏ, mục tiêu của những hội
nhóm này khá tương đồng với bốn mục tiêu ban đầu của HT.Khánh Hòa: lập hội Phật
giáo, dịch kinh điển ra chữ Quốc ngữ, lập trường Phật học,
và chấn chỉnh Tăng
đoàn.
3. Thành quả đạt được của các
phong trào chấn hưng Phật giáo tại Nam Bộ giai đoạn 1920-1945
Phong trào
chấn hưng Phật giáo
được khởi xướng bởi HT.Khánh Hòa, tuy không có những thành quả to lớn từ khi bắt
đầu tới mốc thời gian năm 1945, nó thật sự đã có những thành công nhất định và
phần nào thỏa mãn mục tiêu đề ra của HT.Khánh Hòa.
Thứ nhất,
phong trào chấn hưng đã kích thích và làm động lực cho việc thành lập một số hội
Phật giáo tại Nam Kỳ,
như Nam kỳ Nghiên cứu Phật học hội (1931) tại chùa Linh Sơn, Sài Gòn;
Tịnh độ Cư sĩ Phật hội (1934) tại
chùa Hưng Long, Chợ Lớn;
Lưỡng Xuyên Phật học
hội
(1934) tại chùa Long Phước, Trà Vinh;
Hội Phật
học Tương tế
(1934) tại chùa Thiên Phước, Sóc Trăng; Thiên Thai Thiền giáo tông Liên hữu
hội
(1934) tại chùa Phước An, Bà Rịa;
Hội Phật học
Kiêm tế
(1937) tại chùa Tam Bảo, Rạch Giá.
Thứ hai,
phong trào chấn hưng thật sự đạt được mục tiêu quảng tuyên Phật lý theo hướng
chuyên nghiệp, phổ thông và dễ tiếp cận, bởi vì mỗi hội nhóm kể trên đều có
những tập san Phật học, là những công cụ để họ truyền thông những bài dịch,
những bài tranh luận Phật học tới số động quần chúng. Hơn nữa, sự ra đời của
những tập san Phật giáo tạo cơ hội cho những bậc trí thức có tư tưởng chấn khai
Phật học nước nhà cùng
chung tay góp sức truyền bá tư tưởng Phật giáo tới mọi người bằng những bài viết
tâm huyết. Những tờ báo có ảnh hưởng tới phong trào chấn hưng trong giai đoạn
này là Từ Bi Âm (Nam Kỳ Nghiên
cứu
Phật học
hội),
Duy Tâm (Lưỡng Xuyên Phật
học
hội),
Tiến Hóa (Phật
học Kiêm
tế
hội),
Tạp chí
Pháp Âm
(Tĩnh độ
Cư sĩ)
và Phật Học
Tùng Thư
(Đoàn Trung Còn) [28,
tr.567].
Thứ ba,
theo Nguyễn Lang, phong trào
chấn hưng Phật giáo
đã góp phần xác định yếu tố Phật giáo là một trong những yếu tố quan trọng của
văn hóa Việt Nam [4,
tr.568].
Điều này được Phạm Quỳnh, Thượng
thư
Bộ Quốc gia
Giáo dục,
tuyên bố như sau: “Cái tinh thần Việt Nam của chúng ta đây tất phải nhờ các
học thuyết tạo thành, mà xét về đức dục thì một phần lớn là do công nghiệp của
Phật học. Phật học đã có ảnh hưởng về luân lý đạo đức trong dân tộc ta như vậy,
thì ai là người muốn bảo tồn tinh thần dân tộc Việt Nam tất phải tán thành cho
Phật học”.
Tuy nhiên, phong
trào chấn hưng chưa thật sự đào tạo được số lượng lớn Tăng tài. Theo Nguyễn Lang
[4,
tr.569], với số lượng
Tăng
Ni
được đào tạo tại ba miền chỉ chưa tới 500 vị, thì con số
Tăng
Ni
được đào tạo tại Nam Bộ
quả thực rất ít. Hơn nữa,
mặc dù có bảy
hội
Phật giáo được thành lập trong giai đoạn 1920-1945 tại Nam
Bộ,
nhưng chỉ có Lưỡng Xuyên Phật
học
là có mở trường Phật học để đào tạo
Tăng
Ni,
những hội nhóm khác chỉ hoạt động trên mặt lý thuyết.
Hơn thế, phong trào
chấn hưng Phật giáo
Nam Bộ
còn gây sự bất thiện cảm đối với một số thành phần trí thức đương thời. Ví dụ,
Phan Khôi cho rằng: “Các hội Phật giáo xứ ta cứ im im mà chẳng làm gì hết.”
Hay Quốc Tri tỏ sự bất bình:
“Các
ngài
định chấn hưng Phật học để cải tạo nền tảng ở nước ta, gây thành một thế lực mà
ứng phó với thời cơ, hay là định liên lạc các phần tử Phật gia lại làm một cái
đại đoàn để duy trì lấy cái thế lực cho một bọn người quen nghề buôn thần bán
Phật? Các ngài
định chấn hưng Phật học để rồi đào chú cho nước Nam một bọn người có đức hy
sinh, xả kỷ, nhẫn nại, mạo hiểm như
Đức
Phật Thích Ca, hay sẽ tạo thành cho nước Nam về sau một bọn tín đồ Phật giáo như
ở các nước Miên Lào?”
Về ý kiến cá nhân,
người viết cho
rằng rất khó để nói
về sự thành tựu của phong trào chấn hưng nếu chỉ nhìn vào những thành quả đạt
được trong giai đoạn bắt đầu từ 1920 tới năm 1945, bởi vì thành quả cần phải
được quán xét trong một khoảng thời gian nhất định. Hơn nữa, chúng ta thật sự
thiếu thốn về tư liệu cũng như thiếu những cuộc khảo cứu về sự ảnh hưởng thực
tế của những hội
Phật giáo với xã hội trong giai đoạn 1920-1945; cho nên, thật sự là thiếu khách
quan khi đánh giá
là phong trào chấn hưng thành tựu hay thất bại trong giai đoạn này.
Kết Luận
Mặc dù bài viết
này
chỉ trình bày
ngắn gọn về phong
trào chấn hưng Phật
giáo
1920-1945 tại Nam Bộ,
người viết
đã giới thiệu những
yếu tố quan trọng của phong trào chấn hưng.
Có
bảy
hội đoàn Phật giáo được thành lập trong giai đoạn 1920-1945, tuy nhiên chỉ một
số hội đoàn gây được tiếng vang và có những đóng góp thực tiễn cho công cuộc đổi
mới như: Nam
Kỳ
Nghiên cứu Phật học hội,
Lưỡng Xuyên Phật học hội,
Phật học Kiêm
tế
và Thiên Thai Thiền giáo tông Liên hữu...
Những hội đoàn này
đều có những tập san Phật giáo riêng, và những tập san của họ là những công cụ
truyền bá Phật
giáo hữu hiệu cấp tiến trong giai đoạn 1920-1945.
Cương lĩnh hoạt động của các
hội Phật giáo trong giai đoạn này nhìn chung đều chịu ảnh hưởng tư tưởng chấn
hưng do
HT.Khánh Hòa chủ xướng bao gồm 4 điểm: Lập hội Phật giáo;
Thỉnh ba tạng kinh điển dịch ra chữ Quốc ngữ;
Lập trường Phật học để đào tạo
Tăng
tài và xuất bản tạp chí phổ biến giáo lý;
Kêu gọi Tăng
đồ thức tỉnh, chấn hưng quy củ thiền môn.
Phong trào chấn
hưng đã đạt được những mục tiêu đáng kể. Có nhiều hội đoàn Phật học được thành
lập trong giai đoạn
1920-1945, và những hội đoàn này rất tích cực trong việc truyền bá và phiên dịch
kinh sách từ tiếng Hán, tiếng Pāli, tiếng Pháp và
tiếng
Anh sang
chữ Quốc ngữ. Một số trường Phật học cũng được thành lập.
Tuy nhiên,
giai đoạn này chưa đào tạo được nhiều nhân tài cho Phật giáo, bởi vì những
trường Phật học chỉ có thể hoạt động trong một thời gian ngắn do việc thiếu kinh
phí.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Đỗ Hoàng Anh (2017), Nam Kỳ
Nghiên
cứu Phật học hội,
Trung
tâm
Lưu
trữ
Quốc gia I.
2.
Nguyễn Đại Đồng (2008),
“Về
những tờ báo đầu tiên của báo chí Phật giáo Việt
Nam”,
Báo Giác Ngộ, số 147, tr.18-23.
3.
Hội Phật học Kiêm
tế
(1937), “Điều lệ”, Tiến Hóa, số 10, tr.8.
4.
Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo
sử
luận
toàn tập,
NXB.Văn
Học, Hà Nội.
5.
Dương Thanh Mừng (2015),
“Các
tổ chức Phật giáo trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam trước năm 1945”,
Tạp
chí
Nghiên
cứu
Tôn
giáo,
số 143, tr.43-59.
6.
Nguyễn Ngọc Phan (2007),
“Tờ
báo Phật giáo đầu tiên và tâm nguyện chấn hưng Phật giáo”,
Tạp
chí
Văn Hóa Phật Giáo,
số 31, tr.31-33.
7.
Nguyễn Tài Thư chủ biên (1988) và tác giả khác, Lịch sử Phật giáo Việt Nam,
NXB.Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
8.
Tin tức Tôn giáo (1936), Tiếng Chuông
Sớm,
số 15, tr.46.
9.
Lại Như Bằng (2016), Phong trào
chấn
hưng Phật
giáo
tại Việt Nam và tại các nước Trung Quốc, Nhật Bản
-
Kỳ 1.
Tham khảo tại
https://toasang-ugvf.org/2016/12/02/phong-trao-chan-hung-phat-giao-tai-viet-nam-va-tai-cac-nuoc-trung-quoc-nhat-ban-ky-1/
10.
Thích Nữ Nhuận Bình (2019). Tư tưởng Phật học của hội An Nam trong phong trào
chấn hưng Phật giáo
tại
Trung Kỳ.
Tham khảo tại
https://vbgh.vn/index.php?language=vi&nv=news&op=le-ky-niem-35-thanh-lap-hoc-vien-phat-giao-vn-tp-hcm/13-tu-tuong-phat-hoc-cua-hoi-an-nam-trong-phong-trao-chan-hung-phat-giao-tai-trung-ky-959.html
11.
Thích Không Hạnh (2019), Hai tờ báo Phật giáo đầu tiên: Pháp Âm, Phật Hóa Tân
Thanh Niên. Tham khảo tại
https://thuvienhuequang.vn/blogs/bai-viet/hai-to-bao-phat-giao-dau-tien-phap-am-phat-hoa-tan-thanh-nien