Vua Asoka và bốn bia ký liên quan đến Phật giáo
vua asoka
Vua Asoka và bốn bia ký
liên quan đến Phật giáo
Thích Hồng Tánh
Dưới thời vua Asoka (A Dục)
vào khoảng thế kỷ III trước Tây lịch, Phật giáo phát triển rực rỡ ở Ấn Độ và
được truyền bá đến những nước khác. Cuộc đời và sự nghiệp chính trị của vua
Asoka có những liên hệ nhất định đến Phật giáo. Các huấn lệnh được chính nhà vua
cho khắc vào các bia ký hay trụ đá là minh chứng cho sự ảnh hưởng của Phật giáo
đối với những chính sách cai trị đất nước của ông. Dưới thời của ông, Ấn Độ được
thái bình thịnh trị; và ông được tôn xưng là Dhammasoka (Asoka Chánh pháp), do
bởi đường lối cai tri đầy nhân bản và sự hộ trì Phật giáo của ông. “Ashoka là
vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử nhân loại chủ trương tự thắng chính mình hơn
chiến thắng người khác và dùng Pháp âm thay cho tiếng trống trận”.
Qua các chỉ dụ trên bia ký và
trụ đá được tìm thấy, đã cho ta thấy được một phần chính sách cai trị của vua
Asoka. Và có thể nói rằng, dấu mốc quan trọng đã làm thay đổi ông là cuộc chiến
tại Kalinga. Từ đó sau cuộc chiến đó, Asoka từ một con người hiếu chiến, được
biết đến với tên gọi Candasoka (Ashoka tàn bạo), đã trở thành một vị vua nhân từ
với tôn hiệu Dhammasoka (Asoka Chánh pháp). “Ông tự hứa sẽ dùng đường lối cai
trị theo lý tưởng Luân vương. Đó là dùng chính sách hòa bình để kiến thiết quốc
gia, đem lại phồn vinh an lạc cho xã hội”.
Lịch sử Phật giáo đã ghi nhận
sự đóng góp to lớn của vua Asoka trong việc hộ trì Chánh pháp, xiển dương đạo
Phật. Ông là người đã bảo trợ kỳ kiết tập kinh điển lần thứ 3, đã phái chín phái
đoàn truyền giáo ra nước ngoài để truyền bá Chánh pháp, cho xây dựng tháp thờ
xá-lợi Phật trên khắp đất nước. Ông cũng cho dựng nhiều trụ đá và bia ký tại các
thánh tích Phật giáo, và qua các bia ký này ta thấy được phần nào sự ảnh hưởng
của Phật giáo vào cuộc đời của ông.
Bia ký Kalinga là minh chứng
đầu tiên thể hiện sự ảnh hưởng của Chánh pháp vào cuộc đời vua Asoka. Bia ký này
ghi: “Tám năm sau khi lên ngôi, đức Thánh thượng Priyadarsi, người con yêu
của các thần linh, chinh phục xứ Kalinga... Sau khi chinh phục xứ Kalinga, người
con yêu của các thần linh đã thực hành Chánh pháp, yêu quý Chánh pháp và giảng
dạy Chánh pháp. Đức Thánh thượng cảm thấy hối tiếc việc chinh phục Kalinga vì đã
gây ra cảnh tàn sát, chết chốc và đày ải khổ đau, đáng thương tâm cho dân chúng
một xứ sở độc lập… Đức Thánh thượng cho rằng, chiến thắng cao cả nhất là chiến
thắng lòng người bằng đạo đức nhân ái… Và dân chúng cần hiểu rằng chỉ có thu
phục lòng người bằng đạo đức nhân ái mới là chiến thắng thật sự. Mong rằng tất
cả dân chúng được hạnh phúc trong sự nỗ lực thực hành Chánh pháp”.
Nội dung được khắc trên bia
ký này cho thấy, chính sự tàn khốc của cuộc chiến tại Kalinga đã khiến Asoka đại
đế tỉnh ngộ. Sự tỉnh ngộ đến từ nỗi sợ hãi và ân hận về hậu quả nặng nề của cuộc
chiến. Đúng như R.P.Mohapatra, nhà khảo cổ học người Ấn đã nhận xét: “Không
có trận chiến nào trong lịch sử biên niên của nhân loại đã thay đổi trái tim của
kẻ chiến thắng từ trái tim cố ý gây đau khổ cho người khác qua trái tim yêu
thương tốt nhất như trận chiến Kalinga”.
Cũng từ đây, cuộc đời của vị đại đế với biệt danh Candasoka (Asoka bạo tàn) đã
thay đổi hoàn toàn và trở thành vị minh quân với tôn hiệu Dhammasoka (Asoka
Chánh pháp). Ông đã tuyên bố theo đuổi Chánh pháp và khuyến khích thực hành
Chánh pháp, chủ trương thu phục lòng dân bằng đạo đức nhân ái, quyết định dùng
Pháp âm thay tiếng trống trận,
biến những cuộc dạo chơi săn bắn thành những cuộc du hành thuyết pháp và khuyến
khích điều thiện,
qua đó đã mở ra một trang mới trong cuộc đời của nhà vua, với lý tưởng “Dầu
thắng hàng vạn địch quân trên chiến trận cũng không bằng tự chiến thắng mình.
Chiến thắng chính mình mới là chiến công oanh liệt nhất”.
Từ sau khi áp dụng Chánh pháp vào việc cai trị đất nước, ông được thần dân
của mình tôn kính hơn. Đúng như lời Phật dạy: “Ai dùng các hạnh lành làm xóa
mờ nghiệp ác, người ấy chói sáng cõi đời này, như ánh trăng thoát khỏi áng mây
che”.
Thêm nữa, vua Asoka không chỉ
áp dụng Chánh pháp vào đời sống và chính sách cai trị mà ông còn thân hành đến
các thánh tích Phật giáo để thể hiện lòng tôn kính của ông đối với Đức Phật và
Phật pháp. “Vua A Dục cũng tự thân hành thăm viếng và đảnh lễ các Phật tích,
tại mỗi Phật tích, ông đều cho dựng trụ đá, trên mỗi trụ đá đều có khắc ghi lại
sự tích để kỷ niệm…”.
Điều này thể hiện rõ nơi chỉ dụ khắc trên bia ký tại Lumbini (Lâm-tỳ-ni).
Nội dung trên bia ký này là: “1. Hai mươi năm sau khi lên ngôi, vua Thiên Ái
Thiện Kiến đích thân đến đảnh lễ nơi này bởi vì Đức Phật Thích Ca đã đản sinh
tại đây. 2. Ngài hạ chỉ tạo dựng một tượng con thú (con ngựa) bằng đá và một trụ
đá được đặt ở đây để đánh dấu nơi Đức Phật đã đản sinh. 3. Ngài hạ chỉ giảm thuế
cho làng Lâm-tỳ-ni và chỉ đóng một phần tám sản lượng”.
Bia ký
trên trụ đá tại Lumbini được tiến sĩ A.A.Fuhrer phát hiện vào năm 1896. Lumbini
là khu vườn nổi tiếng, là nơi Đức Phật đản sinh. Vua Asoka đã để lại rất nhiều
bia ký, nhưng chỉ riêng nơi đây đề cập đến vấn đề thuế và giảm thuế. Ngoài ra,
bia ký còn nhắc đến hình tượng một con thú đặt trên trụ đá. Trong A Dục vương
truyện có đề cập đến khu vườn Lâm-tỳ-ni, là nơi đầu tiên mà Upagupta
(Ưu-ba-cúc-đa) hướng dẫn nhà vua đến chiêm bái trong chuyến hành hương của ông.
Tại đây, Upagupta đã chỉ cho vua nơi hoàng hậu Mahamaya hạ sinh Thái tử Tất Đạt
Đa. Nhà vua sau đó hạ chiếu cho xây một ngôi điện để thờ Thánh mẫu và hỷ cúng
một trăm ngàn đồng tiền vàng.
Lumbini hiện là một trong bốn
thánh tích nổi tiếng của Phật giáo, còn gọi là Tứ động tâm. Việc vua Asoka hành
hương chiêm bái các thánh tích có lẽ thể hiện tinh thần được nêu ra trong kinh
Đại bát Niết-bàn: “Này Ananda, có bốn Thánh tích, người thiện tín cư
sĩ cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính. Này Ananda, các thiện tín Tỷ kheo, Tỷ kheo
ni, nam nữ cư sĩ sẽ đến với niềm suy tư: Đây là chỗ Như Lai đản sanh, đây là chỗ
Như Lai chứng ngộ Vô thượng Chánh đẳng giác, đây là chỗ Như Lai chuyển Pháp luân
vô thượng, đây là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết bàn. Này Ananda, những
ai trong khi chiêm bái những Thánh tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ,
thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh cõi thiện thú, cảnh
giới chư Thiên”.
Như chúng ta đã thấy, từ sau
khi vua Asoka tuyên bố trở về với Chánh pháp, ông đã sống và thực hành lời Phật
dạy, cai trị đất nước bằng chính sách nhân từ, và hẳn nhiên ông có niềm tin kính
sâu sắc vào Tam bảo. Điều này được minh chứng qua nội dung được ghi trên trụ đá
tại Bairat: “1. Vua Thiên Ái Thiện Kiến, nước Ma-kiệt-đà đảnh lễ Tăng-già,
mong rằng các vị khỏe mạnh và an lạc. 2. Như các vị đã biết, thưa các Tôn giả,
lòng tin bất thối và lòng kính trọng của trẫm đối với Phật, đối với Pháp, đối
với Tăng. 3. Bất cứ điều gì, thưa các tôn giả, được tuyên thuyết từ Đấng Giác
ngộ, tất cả điều ấy là thiện thuyết; 4. Thưa các Tôn giả, cho phép trẫm được nói
rằng: điều mà trẫm tin tưởng sẽ đóng góp vào việc trường tồn của Chánh pháp. 5.
Thưa các Tôn giả, những đoạn sau đây (được trích) từ Pháp: (i). Vinaya-samukasa,
(ii). Alya-vasas, (iii). Anagata-bhayas, (iv). Muni-gasthas, (v). Moneya-suta,
(vi). Upatisa-pasina, (vii). Laghulovada được Đức Phật tuyên thuyết (khi Ngài
dạy) về việc nói dối. 6. Trẫm muốn rằng Tăng Ni trùng tụng, lắng nghe những đoạn
này của Chánh pháp và rằng sẽ ảnh hưởng đến các vị. 7. Cùng một cách như vậy,
hàng cư sĩ áo trắng nam và nữ cũng nên thực hành theo. 8. Vì mục đích đó, thưa
các Tôn giả, trẫm hạ chỉ được viết ra để mọi người biết được bản ý của trẫm”.
Bia ký tại Bairat được tìm
thấy vào năm 1840, do đội trưởng Burt phát hiện nằm trên một ngọn đồi kề bên thị
trấn Bairat. Ngôn ngữ của bia ký là tiếng Prakit, chữ viết Brahmi. Bia ký cho
biết vua Asoka đã đến nơi đây, thăm viếng và đảnh lễ chư Tăng, thể hiện sự tôn
kính đối với Tăng-già và Chánh pháp. Nội dung trên bia ký cũng xác định tôn giáo
mà nhà vua theo và ủng hộ chính là Phật giáo. Ông mong muốn Chánh pháp luôn được
trường tồn, khẳng định niềm tin bất động của mình đối với Tam bảo.
Bia ký này được xem là một
chỉ dụ riêng của nhà vua đối với với Tăng-già, chứ không phải nói chung cho thần
dân. Bia ký còn cho biết Thiên Ái Thiện Kiến là vua nước Ma-kiệt-đà. Điểm nổi
bật ở nơi bia ký này là đề cập đến tên một số bản kinh, trong đó ít nhất có bảy
bài kinh được xem là quan trọng, và nhà vua khuyên Tăng-già và cư sĩ cần nên
thực hành.
Vua Asoka cũng nỗ lực củng cố
Tăng đoàn, với mong muốn Tăng đoàn hòa hợp và thanh tịnh. Điều này được thể hiện
qua nội dung được ghi trên trụ đá tại Sarnath: “1. Thiên Ái… 2…Hoa Thị Thành…
3. Tăng-già không thể phân chia bởi bất cứ người nào. 4. Bất cứ Tỷ-kheo hay
Tỷ-kheo-ni nào chia rẽ Tăng-già sẽ bị lột y (cho mặc đồ trắng) và đuổi ra khỏi
tu viện (cho ở nơi không phải tu viện). 5. Sắc lệnh này nên được thông báo cho
Tăng đoàn lẫn Ni đoàn. 6. Thiên Ái Thiện Kiến vương nói như thế. 7. Hãy để một
bản sắc lệnh này trong văn phòng của Tăng-già và một bản nữa cho người cư sĩ áo
trắng. 8. Những người cư sĩ áo trắng có thể đến đây vào ngày trưởng tịnh để được
tăng trưởng tín tâm vào sắc lệnh này. Cũng vậy các vị ‘Tôn giáo quan’ (mahamatra)
phải đến đây vào ngày trưởng tịnh để tăng tưởng tín tâm và để hiểu biết sắc lệnh
này. 9. Các vị phó quan thuộc quyền của họ cũng phải làm như thế ở khắp các châu
huyện.”.
Sắc lệnh trên trụ đá này được
cho là huấn lệnh trong những năm cuối đời của vua Asoka.
Nội dung chủ yếu của sắc lệnh trên bia ký
Sarnath đề cập đến vấn đề bất hòa ở trong Tăng đoàn. Với trách nhiệm của một
Phật tử và người cai trị vương quốc, nhà vua có bổn phận giữ gìn sự thống nhất
của Tăng đoàn trước sự chia rẽ nội bộ. Sắc lệnh trên bia ký được xem như một
điều luật mang tính bắt buộc và cần được phổ biến rộng rãi khắp vương quốc. Với
sắc lệnh này, nhà vua mong muốn các xung đột trong Tăng-già sẽ được chấm dứt. Và
có thể rằng, nguyên nhân dẫn đến kỳ kiết tập kinh điển lần thứ ba là nhằm xây
dựng một Tăng-già hòa hợp và thanh tịnh. Như vậy, vua Asoka đã thể hiện vai trò
của một vị hộ pháp đúng nghĩa. Ông không chỉ ủng hộ Tăng đoàn về mặt vật chất mà
còn góp sức trong việc xây dựng một Tăng đoàn cao đẹp.