Bồ-tát Văn Thù trong các kinh Phương Đẳng
bo tat van thu
BỒ-TÁT VĂN THÙ TRONG CÁC KINH PHƯƠNG ĐẲNG
Miroj Sakya
- Nghiệp Đức dịch
Giới thiệu
Bồ-tát Văn Thù (Mañjuśrī) được gọi là “Pháp vương tử” bởi vì trí tuệ thâm
sâu của Ngài.
Về hình tượng, Bồ-tát Văn Thù được mô tả nắm thanh gươm trí tuệ trong tay phải
và một hoa sen trong tay trái.
Tất cả những thuộc tính của Bồ-tát Văn Thù đều nhằm vào trí tuệ mà Ngài hiện
thân.
Văn Thù được đề cập trong nhiều bản kinh Đại thừa chẳng hạn như Bát-nhã,
Pháp hoa và Hoa nghiêm. Tuy nhiên, trong kinh tạng Pāli, Ngài
không được đề cập đến. Bởi vì những hạnh nguyện của mình, Ngài trở thành một vị
Bồ-tát vô cùng quan trọng và phổ biến ở Đông Á và ở những khu vực theo Phật giáo
Đại thừa ở Ấn Độ, Nepal và Bhutan. Chi-lâu-ca-sấm (Lokakṣena)
đã dịch những bản kinh Đại thừa liên quan đến Ngài sang Hán ngữ vào cuối thế kỷ
II Tây lịch,
đó là Đạo hành bát-nhã (Aṣṭasahasrikā
Prajñāpāramitā Sūtra, T. 224), Văn Thù Sư Lợi vấn Bồ-tát thự kinh
(T. 458), Đồn-chân-đà-la sở vấn Như Lai tam muội kinh (Drumakinnararāja
Paripṛccha
Sūtra, T. 624), Phật thuyết nội tàng bách bảo kinh (Lokānuvartana
Sūtra, T. 807), Đâu sa kinh (T. 280), và Phật thuyết A-xà-thế
vương kinh (Ajataśatru Kaukṛtyavinodana
Sūtra, T. 626).
Ở Trung Quốc, kinh Văn Thú Sư Lợi Phật độ nghiêm tịnh kinh (Mañjuśrī
Buddhakṣetraguṇavyūha
Sūtra) được dịch vào cuối thế kỷ III
và kinh Duy Ma Cật (Vimalakīrtinirdeśa Sūtra) được dịch vào khoảng thế kỷ
VI.
Ở bản kinh sau, Văn Thù có những đối thoại sâu sắc với vị Bồ-tát tại gia Duy Ma
Cật.
Paul Williams cho rằng tín ngưỡng thờ Văn Thù bắt đầu ở Trung Á (Khoṭān?),
hay thậm chí ở Trung Quốc, vào những thế kỷ đầu Tây lịch. Ngũ Đài sơn, trú xứ
của Bồ-tát Văn Thù ở Trung Quốc đã trở thành một địa điểm hành hương quan trọng.
Từ thế kỷ IV TL, đây là trung tâm chính thờ phụng Bồ-tát Văn Thù ở đất nước này.
Vào thời nhà Đường, tín ngường thờ Bồ-tát Văn Thù thịnh hành với sự ủng hộ của
những nhà lãnh đạo Hoa Nghiêm tông.
Ngài Bất Không Kim Cương (Amoghavajra, 705-774), người đã dành trọn đời để
truyền bá việc thờ phụng Bồ-tát Văn Thù vào thời Đường,
là một trong những người có ảnh hưởng nhất trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc.
Ngài là một dịch giả lớn, một người giỏi nghi lễ, và là thầy của ba vị hoàng đế.
Ngài cũng truyền bá Mật giáo ở Trung Quốc và đã thành lập Kim Các tự trên núi
Ngũ Đài.
Phần lớn nhờ nỗ lực của ngài mà tín ngưỡng thờ Bồ-tát Văn Thù đã trở thành việc
thờ phụng chung của Trung Quốc vào cuối triều nhà Đường.
Trong Phật giáo Đại thừa, Bồ-tát là con người lý tưởng, bậc tu tập nhằm chứng
đắc Phật quả và phát thệ nguyện cứu giúp tất cả chúng sinh, và như vậy là một vị
Phật sẽ thành.
Những vị Bồ-tát đã đạt được sở chứng cao được xem là những bậc có sức mạnh lớn,
bao gồm sức mạnh cứu độ. Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc, Quan Âm… là những bậc
Bồ-tát như vậy.
Có nhiều bản kinh liên quan đến Bồ-tát Văn Thù được tìm thấy trong Hán tạng,
trong khi không có nhiều bản kinh bằng tiếng Sanskrit còn tồn tại khi nhiều bản
kinh bằng ngôn ngữ này đã bị thất lạc hoặc bị tiêu hủy sau khi Phật giáo suy tàn
ở Ấn Độ. Hiện tại, không có một tạng kinh Phật hoàn chỉnh bằng tiếng Sanskrit,
nhưng một số bản kinh Đại thừa bằng tiếng Sanskrit đã được tìm thấy ở những khu
vực khác nhau như Nepal, Tây Tạng, Gilgit và những nơi khác.
Hầu hết chúng được phát hiện ở Nepal, và về phương diện lịch sử chúng đóng một
vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và lưu truyền phần cốt lõi của văn học
Sanskrit Phật giáo. Viện Mathilā đã xuất bản một số bản kinh Phật bằng tiếng
Sanskrit này.
Nhiều viện hay nhóm khác, chẳng hạn như Central Institute of Higher Tibetan
Studies (ở Sāranāth), Viśva Bhāratī Śānti Niketan, Kaukhambā Sanskrit Saṃsthān,
và Oriental Institute Barodā cũng đã xuất bản những bản kinh Sanskrit này.
Những bản kinh Sanskrit này đã được công chúng biết đến sau khi Brian Houghton
Hodgson, một công sứ người Anh ở Nepal,
phát hiện và phổ biến chúng đến các học giả phương Tây. Số kinh mà ông phát hiện
ước đoán khoảng 381 cuốn, bao gồm 200 bản sao chép những bản viết tay được gửi
đến các học giả phương Tây.
Có chín bản kinh Đại thừa tạo thành tập hợp những bản kinh Phật quan trọng nhất
ở trong Phật giáo Newār và được gọi là Chín Pháp. Chúng bao gồm: Bát-nhã
(Prajñāpāramita), Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha),
Thập địa (Daśabhūmīka), Chánh định vương (Samādhirāja),
Lăng-già (Lāṅkāvatāra),
Pháp hoa (Saddharmapuṇdarīka),
Như Lai tạng (Tathāgataguhyaka), Phổ diệu (Lalitvistara), và
Kim quang minh (Suvarṇaprabhāsa).
Chín bản kinh Đại thừa này là những bản kinh chính của Phật giáo Newār và vẫn
được thờ phụng ở Nepal ngày nay. Chúng được xem là tạng kinh của một dòng truyền
thừa đặc biệt. Nhưng theo J.K. Nariman, vai trò của chúng không gì hơn vai trò
của một tạng kinh trong Phật giáo Newār.
Chín bộ kinh Phương đẳng (Vaipulya) này, được xem là những bản kinh căn
bản của Phật giáo Newār, là những bản kinh chính nói về truyền thống Bồ-tát.
Brian Hodgson cho rằng, “Vaipulya bàn về một số loại pháp (dharma) và artha,
tức là về những cách thức khác nhau trong việc đạt được những điều tốt trong
cuộc đời này và đời vị lai.”
Tuy nhiên, theo Nariman, “Chín Pháp này không phải kinh điển của riêng bất kỳ
bộ phái nào, mà một loạt những cuốn kinh được kiết tập vào những thời kỳ khác
nhau và thuộc về những tông phái khác nhau, mặc dù tất cả chúng rất được kính
trọng ở Nepal ngày nay.”
Không hề có ghi chép cụ thể nào cho biết thời điểm chính xác các bản kinh Đại
thừa được truyền đến thung lũng Kathmandu. Về phương diện lịch sử, sự có mặt đầu
tiên của những bản kinh không thuộc truyền thống Thượng tọa bộ có niên đại vào
thời kỳ Kaniṣka
(132-152).
Akira Hirakawa chỉ ra rằng “Mặc dù sự truyền bá Phật giáo đầu tiên đến Trung
Quốc có thể xảy ra vào khoảng đầu Tây lịch, những tác phẩm Phật giáo không được
chuyển dịch sang Hán ngữ mãi cho đến khoảng một thế kỷ sau.”
Nhưng không có bằng chứng rằng liệu những bản kinh được truyền đến Trung Quốc
vào thời bấy giờ có phải là những bản kinh Đại thừa hay không. Một trong những
công trình được biết đến đầu tiên là bản dịch 14 bộ kinh thành 27 tập, bao gồm
Đạo hành bát-nhã kinh (T. 224. Aṣṭasahasrikā
Prajñāpāramitā Sūtra) được dịch bởi Chi-lâu-ca-sấm (Lokaṣema?),
người đến Trung Quốc
từ Kuṣāṇa.
Hirakawa cũng nói rằng “Bởi vì Chi-lâu-ca-sấm đến Trung Quốc sớm hơn, những bản
kinh gốc mà những bản dịch của ông dựa vào có thể có niên đại từ thời Kuṣāṇa,
một thời điểm trước năm 150 TL.”
Theo sử gia Taranatha người Tây Tạng sống vào thế kỷ XVI, Thế Thân (Vasubandhu),
một vị thầy nổi tiếng người Ấn Độ sống vào thế kỷ V,
vào cuối đời mình đã cùng với một ngàn vị giáo thọ (ācārya) đi đến Nepal.
Ngài được cho đã thành lập những trung tâm Phật giáo ở Nepal và truyền bá Phật
pháp cho những người địa phương.
Ngài cũng được cho là đã dạy Uṣṇiṣavijaya
Dhāraṇī
cho các đệ tử của mình và sống phần đời còn lại ở Nepal. Đệ tử của ngài đã xây
dựng một bảo tháp để tưởng niệm ngài.
Khi đến Nepal, theo quan điểm của tôi, ngài hẳn mang theo những bản kinh Phật đã
có mặt ở Ấn Độ và có khả năng rằng nhiều bản kinh từ Ấn Độ đã đến Nepal vào thời
Thế Thân.
Sau sự sụp đổ của vương triều Pāla và Sena ở Ấn Độ, Phật giáo bị các giáo phái
phi Phật giáo ở Ấn Độ kìm hãm, và chín bản kinh này biến mất ở Ấn Độ. Nhưng ở
Nepal, chúng được bảo tồn cùng với những bản kinh Đại thừa khác được viết bằng
tiếng Sanskrit.
Nhưng vì Kathmandu không có truyền thống lưu giữ những ghi chép các bản kinh
này, chúng ta không thể biết chính xác niên đại những bản kinh này được truyền
đến Nepal. Tuy nhiên, những Phật tử Newār có truyền thống đọc tụng và sao chép
những bản kinh này và nhờ đó đã bảo tồn chúng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Họ
thờ phụng và dâng hương hoa đến các bản kinh trong khi tụng đọc vào các buổi lễ
Aṣṭamī
Vrata, Vasundharā Vrata, Tārā Vrata và những lễ hội khác từ thời xưa ở thung
lũng Kathmandu.
Những Phật tử Newār thường giữ chín bộ kinh này như giữ những báu vật ở trong
nhà và tụng đọc chúng với lòng tôn kính. Bên cạnh, việc bảo trợ cho những hoạt
động như sao chép và tụng đọc, và thực hiện những buổi thuyết giảng chúng, được
xem là tạo nên phước đức lớn.
Như đã nói ở trước, những bản kinh Đại thừa này có mặt ở phương Tây vào thế kỷ
XIX nhờ vào Hodgson, người vào năm 1824 đã phát hiện nhiều tuyển tập về chín bản
kinh.
Nơi ba trong chín bản kinh, Bồ-tát Văn Thù được đề cập một cách nổi bật. Ba bản
kinh này là Bát-nhã, Pháp hoa và Hoa nghiêm. Trong khi kinh Kim
quang minh chỉ đề cập tên của Ngài mà không trình bày thêm những chi tiết
liên quan khác.
Một bản kinh khác có đề cập đến Bồ-tát Văn Thù là Như Lai tạng kinh. Bản
kinh này hầu như được tìm thấy với tên gọi Tam nghiệp
bí mật kinh (Guhyasamaja Tantra), nhưng nó không được xem là một bản
kinh độc lập bằng tiếng Sanskrit. Mặc dù những học giả hiện đại xem bản kinh này
là Tam nghiệp bí mật kinh, theo Benoytosh Bhattachrya, Tam nghiệp bí
mật kinh cũng được gọi là Như Lai tạng kinh.
Tuy nhiên, Mauricie Winternitz không đồng ý rằng Như Lai tạng kinh và
Tam nghiệp bí mật kinh có cùng tên gọi. Ông nêu vấn đề rằng Như Lai tạng
kinh mà nó được trích trong Tập Bồ-tát học luận (Śikṣāsamuccaya)
thì khác với Tam nghiệp bí mật kinh.
Nhưng Bồ-tát Văn Thù được đề cập trong Tam nghiệp bí mật kinh. Trong bản
kinh này, “Vị Bồ-tát nổi tiếng Văn Thù được đề cập bốn lần là Mañjusrī và ba
lần là Mañjuvajra, đồng thời cho thấy sự phổ biến của vị Bồ-tát trí tuệ này.”
Bồ-tát Văn Thù trong kinh Bát-nhã
Kinh Đạo hành bát-nhã là bản kinh phổ biến nhất trong các Phật tử Newār
và việc tụng đọc nó là một trong những thực hành phổ biến nhất tại các tu viện
của Phật giáo Newār ở ba thành phố Lalitpur, Kathmandu và Bhaktapur ở thung lũng
Kathmandu. Hầu hết các tu viện đều có bản kinh này trong chánh điện hay ở trong
thư viện. Tại đại tinh xá Hiraṇyavarṇa
ở Lalitpur, có một bản sao kinh Đạo hành bát-nhã được viết bằng mực vàng.
Nó vẫn được những vị thầy Kim cương thừa (Vajrācārya) thờ phụng và tụng
đọc quanh năm.
Trong những bản kinh Đại thừa sơ kỳ nói về trí tuệ Bát-nhã như kinh Đạo hành
và Phóng quang (Pañcaviṃśatisāhasrikā),
tên của Bồ-tát Văn Thù thỉnh thoảng xuất hiện, nhưng Ngài không giữ vai trò nổi
bật. Tuy nhiên, Bồ-tát Văn Thù giữ vai trò chính trong kinh Thất bách tụng
bát-nhã (Saptasatika Prajñāpāramitā Sūtra).
Thất bách tụng bát-nhã,
cũng được gọi là Văn Thù vấn kinh (Mañjuśrīparivarta), bao gồm 700 bài kệ
được viết theo thể văn xuôi. Bản kinh này được Giuseppe Tucci biên tập và xuất
bản ở Rome vào năm 1923. Nó cũng được J.Masuda biên tập vào năm 1930 và được
công bố nơi chuyên sản của Đại học Taisho, ở các tập VI-VII, phần II, Tokyo,
1930.
P.L.Vaidya đã chọn bản của Masuda cho ấn bản của mình được công bố nơi
Mahāyābasūtra Saṁgrajaḥ,
phần 1, 1961. Edward Conze đã dịch bản của Masuda ở trong tác phẩm của ông,
Short Prajñāpāramitā Texts, vào năm 1973. Thất bách tụng bát-nhã cũng
có bản Hán ngữ. Bản dịch Hán ngữ đầu tiên kinh này có niên đại 502-552 TL,
cho thấy rằng nó đã phổ biến vào thế kỷ VI.
Trong Thất bách tụng bát-nhã có một cuộc đối thoại thú vị bao gồm hai
phần. Phần đầu, giảng giải về phước điền, bao gồm một cuộc đối thoại giữa Văn
Thù, Xá Lợi Phất và Đức Phật Thích Ca ở Vá Vệ, tại vườn của ông Câp Cô Độc ở
tinh xá Kỳ Viên.
Đức Phật, Xá Lợi Phất đã đặt những câu hỏi và Văn Thù đã trả lời bằng việc giải
thích những thuật ngữ triết học thâm sâu chẳng hạn như bất sinh (anutpāda),
chân như (tathatā) cũng như việc phát triển và khai mở trí tuệ viên mãn.
Ngài mô tả học thuyết vô hữu (asat) và cho rằng chữ “Phật” thực sự đồng
nghĩa với vô sinh. Ngài cũng nói rằng ngã và chư Phật có cùng nghĩa và do đó
giác ngộ không tồn tại cũng không không tồn tại. Giác ngộ được cho là giống với
sự vô hữu của tất cả pháp.
Trong khi họ thảo luận, quả đất bỗng nhiên rúng động và Ananda đã hỏi Đức Phật
lý do. Đức Phật bấy giờ đã thuyết giảng về pháp có tên gọi là Khai diễn về phước
điền.
Ở phần hai của bản kinh, Văn Thù thảo luận với thính chúng về chủ đề làm cách
nào nhập vào Vô tưởng định. Đại Ca Diệp tham gia thảo luận với họ và Đức Phật đã
dạy họ về những đặc điểm và tính ưu việt của trí tuệ Bát-nhã. Đức Phật nói rằng
pháp chỉ có một vị duy nhất đó là “vị vô sinh, vô hữu, tự tại và giải thoát”.
Bồ-tát Văn Thù trong kinh Hoa nghiêm
Kinh Hoa nghiêm là một bản kinh vô cùng phổ biến ở Nepal cũng như ở Trung
Quốc. Bản viết tay cổ xưa nhất bằng tiếng Nepal của bản kinh này thuộc về Hội
Royol Asiatic Society of Great Britain and Northern Island, London. Nó là một
bản chép tay trên lá bối và có niên đại 286 TL.
Bản kinh này cũng được xem là một phần của bản kinh Hoa nghiêm (Avataṃsaka)
lớn hơn. Trong kinh này, Văn Thù được tôn vinh là người có thể giúp một người
phát tâm Bồ-đề đạt được giác ngộ viên mãn. Và ở đây câu chuyện về con trai một
vị thương nhân được thuật lại: “Chàng thanh niên này có tên là Thiện Tài do
sự việc rằng ngay sau khi chàng trai hạ sinh, cha của chàng đã bất ngờ trở nên
giàu có.”
Bấy giờ Thiện Tài phát tâm tìm cầu giác ngộ. Ở câu chuyện này Bồ-tát Văn Thù
đóng chức năng như một vị thiện tri thức (kalyāṇamitra)
của Thiện Tài, bằng việc trao cho chàng trai những lời khuyên cụ thể và thực
tiễn. Như vậy, Văn Thù giữ một vai trò nổi bật trong kinh Hoa nghiêm, đặc
biệt ở phần cuối, Gaṇḍavyūha.
Ở câu chuyện này, Bồ-tát Văn Thù sau khi đảnh lễ Đức Phật đã rời tịnh xá Kỳ
Viên, rồi cùng với Xá Lợi Phất và những Tỷ-kheo khác đi về hướng Dakṣiṇapatha.
Bấy giờ, Xá Lợi Phất và những Tỷ-kheo khác thấy được sức mạnh vi diệu của Bồ-tát
Văn Thù. Sau đó, khi ở trong hội chúng, Xá Lợi Phất đã thể hiện mong muốn đạt
được sức mạnh giống như Bồ-tát Văn Thù. Bấy giờ Bồ-tát Văn Thù trả lời các vị
Tỷ-kheo rằng các thiện nam tử và thiện nữ nhân có thể thực hành mười nguyên tắc
để phát khởi tâm Bồ-đề và đi vào Như Lai địa (Tathāgatabhūmi).
Bồ-tát Văn Thù nhấn mạnh rằng sự thực hành của Bồ-tát có thể thành tựu với mười
nguyên tắc này, và một hành giả cuối cùng sẽ đạt được Phật quả.
Ngài cũng dạy những vị Tỷ-kheo này phát triển tâm Bồ-đề và thực hành những thệ
nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền. Chúng lần lượt là thanh tịnh thân, khẩu, ý và đạt
được sức mạnh vi diệu thông qua thiền định và trí tuệ. Sau khi thiết lập những
vị Tỷ-kheo này vào con đường giác ngộ viên mãn, Bồ-tát Văn Thù đi đến thành phố
có tên Dhanyakara ở phía Nam.
Bồ-tát Văn Thù sau đó đi đến thành phố Dhanyakara, ở đó có năm trăm người tập
họp sẵn đề chào đó Ngài. Trong số họ có con trai của một vị thương nhân tên là
Thiện Tài.
Bồ-tát Văn Thù nhìn Thiện Tài
và nhận thấy rằng chàng trai này có thể đạt được trí tuệ của một vị Bồ-tát và
phát triển tâm Bồ-đề. Sau đó Bồ-tát Văn Thù thuyết giảng cho Thiện Tài cùng
những người khác
và ra đi. Tuy nhiên, sau khi nghe Bồ-tát Văn Thù giảng về những phẩm tính của
Phật quả, Thiện Tài đã theo Ngài với mong muốn đạt được Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác (anuttara samyak sambodhi). Bồ-tát Văn Thu đọc một bài kệ để
tán thán Thiện Tài.
Bồ-tát Văn Thù sau đó đã trả lời câu hỏi của Thiện Tài về cách thực hành Bồ-tát
đạo và Ngài nói với Thiện Tài rằng phương pháp tốt nhất để thực hành Bồ-tát đạo
là gặp những vị thiện hữu trí thức.
Thiện Tài lại hỏi Bồ-tát Văn Thù những câu hỏi khác: Chúng con nên học Bồ-tát
đạo như thế nào? Chúng con có thể duy trì và thực hành những nguyên tắc mà chúng
con đã học được như thế nào? Sau đó, bằng những bài kệ, Bồ-tát Văn Thù đã trả
lời rằng Thiện Tài nên thực hành những thệ nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền để có thể
nhanh chóng làm lợi ích bản thân cùng người khác và đạt được giác ngộ viên mãn.
Ngài nói rằng Thiện Tài nên tìm gặp các thiện hữu tri thức nếu chàng muốn biết
thêm về việc tu tập chứng đắc giác ngộ; chàng trai nên lắng nghe những vị thiện
tri thức; không nên nhận lời dạy của một vị thiện tri thức theo một cách thức
tiêu cực; và cũng không nên phê phán phương tiện thiện xảo và tính cách của
những vị thiện tri thức đó.
Sau đó Bồ-tát Văn Thù khuyên Thiện Tài nên đi đến một nơi được gọi là Ramavanta
ở phía Nam.
Ở Ramavanta có một ngọn núi có tên gọi là Sugrīva. Ở đó có một vị Tỷ-kheo tên là
Đức Vân (Meghaśrī) đang sống. Bồ-tát Văn Thù khuyên Thiện Tài nên đến gặp
Đức Vân và học cách thực hành Bồ-tát đạo.
Sau đó Bồ-tát Văn Thù khuyên Thiện Thài thực hành những hạnh nguyện của Bồ-tát
Phổ Hiền.
Vâng theo lời Bồ-tát Văn Thù, Thiện Tài đã đến gặp Tỷ-kheo Đức Vân. Bản kinh
tiếp tục với hành trình của Thiện Tài trong việc tìm gặp những vị thiện tri thức
khác nhau. Chàng trai đi đến 110 thành phố và sau đó quay trở lại thành phố
Sumanamukha để gặp lại Bồ-tát Văn Thù.
Bằng việc làm theo những hướng dẫn và lời khuyên của Bồ-tát Văn Thù, cuộc đời
của Thiện Tài đã hướng thẳng đến con đường giác ngộ. Như vậy, bản kinh này đã đề
cao những hành hoạt của Bồ-tát Văn Thù và sự đóng góp của Ngài đối với việc tầm
đạo của Thiện Tài.
Bồ-tát Văn Thù trong kinh Pháp hoa
Kinh Pháp hoa cho đến nay là bản kinh phổ biến và nổi tiếng nhất ở trong
những truyền thống theo Phật giáo Đại thừa. Kinh Pháp hoa là bản kinh
chính của Thiên Thai tông ở Trung Quốc và Nhật Liên tông (Nichiren) ở
Nhật Bản.
Bản kinh cũng được xem là một trong Chín Pháp của Phật giáo Nepal. Có
những phiên bản kinh Pháp hoa khác nhau bằng tiếng Sanskrit. H.Kern và
B.Nanjio đã công cố phiên bản kinh này trong Bibliotheca Buddhica, vào
năm 1908-1912 ở Nga. Có sáu bản chép tay bằng chữ Devanagari đã được sử dụng cho
phiên bản này: hai từ London, hai từ Cambridge, một từ Nepal, và một bản chép
tay của Watters, cựu lãnh sự người Anh ở Formosa. Phiên bản này cũng sử dụng một
số đoạn được phát hiện ở Kashgar và Trung Á.
Ba bản dịch Hán ngữ sớm hơn có niên đại 255, 270 và 386 TL hiện không còn. Hiện
có ba bản dịch Hán ngữ, và theo danh mục Nanjio (南条文雄)
ký số của chúng là 138, 134 và 139. Trong số đó, bản dịch của Cưu-ma-la-thập (số
134 theo danh mục Nanjio)
là bản phổ biến nhất.
Bản khác (số 138 theo danh mục Nanjio) do Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn
(265-316). Bản dịch Hán ngữ thứ ba do Xà-na-quật-đa (Jñānagupta) và Pháp
Tạng (Dharmagupta) thực hiện vào năm 601 (số 139 theo danh mục Nanjio).
Bản kinh này cũng được dịch sang Tạng ngữ, do Surendrabodhi và Snam-man Ye-śes-sde
thực hiện (số 113 theo danh mục Tohoku).
Bồ-tát
Văn Thù xuất hiện nhiều lần trong bản kinh này. Ở phẩm
1,
có một cuộc đối thoại giữa Bồ-tát Văn Thù và Di Lặc về lý do có nhiều tia sáng
mầu nhiệm phát ra từ lông
mày
của Đức Phật.
Văn Thù giải thích lý do cho Di Lặc và toàn thể hội chúng Bồ-tát:
“Chư
vị thiện nam tử, theo tôi suy xét thì Đức Thế Tôn hiện muốn nói Chánh pháp vĩ
đại, đổ mưa Chánh pháp vĩ đại, thổi loa Chánh pháp vĩ đại, đánh trống Chánh pháp
vĩ đại, diễn nghĩa Chánh pháp vĩ đại.”
Bồ-tát
Văn Thù tiếp tục giải thích rằng Như Lai phóng ra những tia sáng vi diệu như vậy
từ thân của Ngài với ý muốn khai mở Chánh pháp.
Bồ-tát Văn Thù
cũng nói rằng
Ngài
đã chứng kiến chư Như Lai trong quá khứ đã phát ra những tia sáng rực rỡ như vậy
trước khi bắt đầu thuyết pháp. Ngài nhắc lại
rằng
trong nhiều kiếp quá khứ, có một vị Phật tên là Nhật Nguyệt Đăng Minh (Candrasūtrapradīpa)
ra đời
và
đã dạy Chánh pháp khiến cho vô số chúng sinh đạt được giác ngộ tối thượng.
Đức
Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh lúc còn sống đời thế tục đã có tám người con.
Tên của họ
là Hữu Ý, Thiện Ý, Vô Lượng Ý, Bảo Ý, Tăng Ý, Trừ Nghi Ý, Hướng Ý và Pháp Ý.
Nhật Nguyệt Đăng Minh sau đó xuất gia và
chứng đắc
giác ngộ. Khi nghe phụ hoàng xuất gia, tám vị vương tử cũng xuất gia theo.
Khi
Đức
Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thuyết giảng pháp Đại thừa có tên Nghĩa vô lượng, bấy
giờ có một trận mưa hoa và những tia sáng phát ra từ chùm lông trắng giữa hai
chân mày
Ngài,
chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật.
Bấy giờ,
trong hội chúng
có một vị Bồ-tát tên là Diệu Quang (Varaprabha). Đức Phật Nhật Nguyệt
Đăng Minh đã dạy kinh Diệu pháp liên hoa cho Diệu Quang trong 60
tiểu
kiếp.
Sau đó Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đã nhập Niết-bàn, và Bồ-tát Diệu Quang
giữ
trách nhiệm giảng kinh Diệu pháp liên hoa và
Ngài
đã
giảng giải kinh này trong 80 tiểu kiếp. Tất cả tám
vị
vương tử của Nhật Nguyệt Đăng Minh
đều
trở thành đệ tử của Diệu Quang. Trong số họ,
vị vương tử út trở thành Phật có tên gọi là Nhiên Đăng (Dīpaṃkara).
Bồ-tát
Văn Thù kết luận bằng việc
nói với
Di Lặc rằng Bồ-tát Diệu Quang
chính là Ngài chứ
không ai khác.
Phẩm 12 đề cập đến một hoạt động quan trọng khác của Bồ-tát Văn Thù. Bồ-tát Trí
Tích (Pranjñākuṭa)
đã hỏi Bồ-tát Văn Thù đã giáo hóa được bao nhiêu chúng sinh ở long cung.
Khi ấy Bồ-tát
Văn Thù trả lời
rằng
“Số lượng ấy vô lượng, không thể tính kể, không thể miệng nói hay trí lường mà
biết được”.
Bồ-tát Văn Thù nói chưa xong thì có vô số hoa sen từ biển vọt lên.
Sau đó bản kinh nói:
“Trên
những hoa sen này có vô số Bồ-tát ngồi trên đó, họ tụ hội trong không trung và
cùng đi đến Linh
Sơn.
Các vị Bồ-tát này đều do Bồ-tát Văn Thù hóa độ, hoàn bị phong cách Bồ-tát, và
cùng luận thuyết sáu pháp ba-la-mật.
Gốc của các vị này là Thanh văn, ở trong không gian mà nói về việc làm Thanh
văn, nhưng nay thì ai cũng thực hành nguyên lý Không của Đại thừa.”
Ở phẩm XII,
Bồ-tát
Văn Thù nói với Bồ-tát Trí Tích rằng
Ngài
đã thuyết kinh Pháp hoa ở
dưới
long cung. Kết quả,
con gái của Long vương tên là Sāgara, mặc dù chỉ mới
tám tuổi, đã hiểu được tất cả pháp.
Bồ-tát
Văn Thù nói rằng công chúa của Long vương đạt được giác ngộ viên mãn
nhưng
Trí Tích nghi ngờ và hỏi: Làm thế nào con gái của Long vương có thể đạt được
giác ngộ? Vào lúc đó, con gái của Long vương xuất hiện trước hội chúng và đảnh
lễ
Đức
Phật.
Sau đó Xá Lợi Phất nói với cô rằng, việc cô nói đạt
được
tuệ giác vô thượng
một cách nhánh chóng
thì thật sự khó tin, bởi vì có năm điều mà thân một người nữ không thể đạt được,
đó là:
1. Không thể làm Phạm thiên.
2. Không thể làm Đế Thích.
3. Không
thể
làm Ma vương.
4. Không thể làm Chuyển luân thánh vương.
5. Không thể làm Phật.
Khi ấy con gái của Long vương dâng
một viên châu lên Đức Phật với mong muốn sớm đạt được giác ngộ. Vào
ngay
lúc đó, cô chuyển từ thân nữ sang thân nam, có đầy đủ tư cách Bồ-tát
và rời khỏi thế giới Vô cấu ở phương
Nam
và ngự
trên một đài sen quý, theo đó chứng đắc giác ngộ.
Bồ-tát Văn Thù trong kinh Kim quang minh
Tên của Bồ-tát Văn Thù được đề cập ở phẩm 18 của kinh Kim quang minh. Ở
đó Đức Phật Thích Ca kể
cho
Ananda
nghe
câu chuyện về một tiền kiếp của Ngài. Bấy giờ có một vị vua tên là Mahāratha có
ba người con trai, đó là Mahāpraṇada,
Mahādeva, và Mahāsattva. Một ngày
nọ,
họ đi vào một khu rừng có tên là Dvadaśavanagulma.
Ở đó họ
nhìn thấy một con cọp mẹ cùng với năm cọp con đang rất đói. Ba vị hoàng tử này
khởi lòng thương xót đối với cọp mẹ,
nhưng
chỉ có hoàng tử Mahāsattva quyết định lấy
nhục thân
của mình cứu con cọp đó.
Ở câu chuyện này, Đức Phật Thích Ca cho biết rằng hoàng tử Mahāsattva là tiền
thân của Ngài, còn hoàng tử Mahāpraṇada
là Bồ-tát Di Lặc,
và hoàng tử Mahādeva là Bồ-tát Văn Thù. Con cọp mẹ và năm cọp con là
Mahāprajāpatī và năm vị Tỷ-kheo
khác.
Kết luận
Trong Phật giáo Newār,
Chín
Pháp
(chín bộ kinh Phương đẳng) là những bản kinh quan trọng nhất và vẫn được
thờ phụng ở Nepal ngày nay. Nepal đã giúp thế giới Phật giáo bảo tồn chín bản
kinh này bằng tiếng Sanskrit sau khi Phật giáo suy tàn ở Ấn Độ. Chín bộ kinh này
không được xem là kinh tạng của một bộ phái cụ thể,
tuy nhiên
chúng được xem là
một tạng kinh ở trong Phật giáo Newār. Trong chín bản kinh này, Bồ-tát Văn Thù
được một tả giữ một vai trò chính
yếu.
Ngài
giữ vai trò
thượng thủ
trong kinh Thất bách tụng bát-nhã, Pháp hoa và Hoa nghiêm. Sau khi
xem xét vai trò của
Bồ-tát
Văn Thù trong ba bộ kinh ngày, chúng ta thấy rằng Bồ-tát Văn Thù đã hóa độ vô số
chúng
sinh
và đưa họ đến giác ngộ. Trong Thất bách tụng bát-nhã, Bồ-tát Văn Thù đã
giúp chúng ta
hiểu
chi tiết
những thuật ngữ triết học thâm sâu như vô sinh, chân như cũng như sự phát
triển
trí tuệ bát-nhã. Trong kinh Hoa nghiêm, Bồ-tát Văn Thù hướng dẫn Thiện
Tài về cách thực hành Bồ-tát đạo và dạy chàng thanh niên này rằng cách tốt nhất
để thực hành Bồ-tát đạo là tìm gặp các vị thiện trí thức. Tương tự, trong kinh
Pháp hoa, lời dạy của Bồ-tát Văn Thù về kinh này đã giúp con gái của Long
vương là Sāgara đạt được giác ngộ. Như vậy, những bản kinh này đã chứng minh
rằng Bồ-tát Văn Thù giữ một vai trò ý nghĩa trong các bản kinh Đại thừa ở Nepal.
Nguồn: academia.edu