Tôi đã giới
thiệu khá nhiều sách Phật của Cư
Sĩ Nguyên Giác
như: Thiền
Tập Trong
Đời Thường, Thiền
Tông Qua Bờ Kia, Kinh Nhật
Tụng Sơ Thời, Kinh
Pháp Cú Tây
Tạng, Để Ngộ Tông
Chỉ Phật, Viết Từ Phương Xa… mà chưa thấy mệt
mỏi dù năm nay đã ở tuổi tám mươi. Có thể đó là cái Nghiệp hay
cái Duyên chăng? Nghiệp thuộc về quá
khứ. Có thể trong kiếp
trước Nguyên Giác và tôi là bạn
đồng tu, đồng
học với nhau? Còn duyên thuộc về hiện
tại - là tình
cờ hay do một cơ hội, dịp
may nào đó mà nhịp cầu là Thư Viện Hoa
Sen mà chúng
tôi quen
biết nhau, cảm
thông và hiểu nhau cho nên hễ Nguyên Giác ra sách nào là tôi dành thời
giờ để giới
thiệu.
Đối với người hâm
mộ văn
chương, nói theo thế
tục thì giới
thiệu sách cũng là cái thú. Thời buổi này mấy ai dành thời
giờ để đọc một cuốn sách ba bốn trăm trang nhiều khi rất khô
khan, nhức đầu. Rồi sau đó phải tổng
kết, đắn
đo, suy
nghĩ viết ra, có khi mất cả tuần lễ…mà chẳng được xu nào cả. Phải
chăng đây là cái nghiệp? Thế nhưng trong nghiệp có nghiệp
lành và nghiệp dữ. Thay vì dùng thời
giờ để vui
chơi tại các sòng bài, chăm sóc chó mèo, vào Youtube để xem các chương
trình chọc cười thiên
hạ mà ngôn
ngữ rất thấp, du lịch khắp nơi trên thế
giới, từ sáng tới tối vào Facebook, Twitter hoặc các diễn
đàn để tranh
luận, lên án, công
kích lẫn nhau để chứng
tỏ mình đúng, mình chính
nghĩa rồi đưa
tới thù oán…tôi dành thời
giờ để lo việc nhà, làm vườn, đọc sách, viết sách, làm thơ và vẽ
tranh sơn dầu. Và luôn luôn nghĩ rằng ngày mai mình có thể lìa xa cõi
thế này cho nên phải tận dụng thời
gian của ngày hôm nay. Trong sự
nghiệp 35 năm viết văn, tôi đã giới
thiệu khá nhiều hồi ký, sách, truyện, tiểu thuyết, thơ của rất
nhiều tác
giả ở hải ngoại do họ gửi biếu mà tôi chưa
bao giờ gặp gỡ trong đó có các danh
tăng như Thích
Tâm Châu, Thích Quảng Độ, các HT. Thích Tín
Nghĩa (Từ Đàm Hải
Ngoại), HT. Thích Nguyên Siêu (San
Diego), TT. Thích Nguyên
Tạng (Úc Châu)
và Tiến
Sĩ Hoàng Xuân Hào (Nam Cali).
Thật tình tôi có giới
thiệu là vì quý
mến tác
phẩm chứ chẳng có ý mong cầu ai giới
thiệu sách của tôi theo câu ngạn
ngữ của người Anh “Roll
my log and I will roll yours” mà có người dịch là “Áo thụng vái
nhau”. Đó là lối suy
nghĩ của thế
gian. Thế
gian thì có thù
tạc, có mua
bán, đổi chác. Nhiều khi tác
giả cho tiền một nhà báo nào đó viết bài ca
ngợi tác
phẩm của mình. Còn trong Phật
Giáo làm gì có đổi chác, làm gì có chuyện đánh
bóng lẫn nhau? Trong các pháp
hội Đại
Thừa như
pháp hội Hoa
Nghiêm, rất nhiều vị bồ
tát đã khen ngợi công
đức của vị bồ
tát khác mà chẳng bao giờ các ngài mong cầu hay đòi hỏi phải có
đền đáp. Các ngài có khen ngợi một vị
cư sĩ, đại
sĩ, bồ
tát nào đó là để trang
nghiêm pháp
hội, để đại
chúng nương theo công
đức tu hành hay sự chứng
ngộ của người được giới
thiệu để tu
tập.
Tác giả tên
thật là Phan Tấn Hải, sinh năm 1952 tại Sài Gòn. Nguyên Giác là pháp
danh và là bút hiệu khi viết về Phật
Giáo. Ông định cư tại Hoa Kỳ năm 1984, chủ bút một tờ nhật báo
lớn ở Nam California cho tới khi về hưu năm 2019. Nguyên Giác viết
nhiều thể loại: truyện, thơ, biên khảo là học trò
đời thứ ba của Hòa
Thượng Thích Tịch
Chiếu (1912-2016) của Chùa Tây
Tạng, Bình Dương và Nguyên Giác còn là nhà thơ, họa sĩ tài ba.
Nguyên Giác đã gửi tặng tôi cả chục bức chân
dung của Đức Đạt
Lai Lạt Ma vẽ bằng màu Acrylic rất phóng và rất đẹp.
Sách
“Từ
Huyền Thoại Tới Tâm Kinh” do Ananda Viet Foundation xuất
bản, dày 265 trang và phát hành trên Amazon. Trong phần giới
thiệu, Cư
Sĩ Tâm Diệu của Ananda Viet Foundation đã có nhận
xét như sau: ”Người ta thường cho rằng, khi con
người có được hạnh
phúc là đã thoát
khỏi sự khổ đau. Nhưng khi có hạnh
phúc, người ta lại quên mất bản
tâm mình đang đắm chìm trong mê
lầm và sự khổ đau lại xuất
hiện. Phật
giáo gọi cái đó là hạnh
phúc thế
gian, do duyên mà biểu hiện, hết duyên là biến diệt. Do đó, để
được tâm
bình an thật sự thì điều quan trọng là chúng
ta phải tự huấn luyện tâm. Một khi tâm vượt lên trên cả khổ đau
và hạnh
phúc, vượt ra ngoài cái đối
đãi của thế
gian như thiện và bất
thiện hay có và không để không còn chấp giữ điều gì thì lúc đó chúng
ta mới có được chân
hạnh phúc và bình
an thật sự. Đây chính là bản
tánh của tâm. Bản
tâm cũng được biết như là tâm
thanh tịnh, tâm
không dính mắc và cũng chính là Niết
Bàn. Niết
Bàn là mục
tiêu tột cùng của Phật
pháp, là an
lạc và giải
thoát tận cùng của hành
giả, không còn gì hơn nữa.Tác
phẩm “Từ
Huyền Thoại Tới Tâm Kinh” là cuốn sách tổng hợp các bài viết
về Phật
học, với các đề tài có tính
cách thực
tiễn, thực
dụng mà sau khi đọc, độc
giả có thể nắm bắt và thực
hành ngay trong khi đi đứng nằm ngồi.”
Tôi sẽ vắn
tắt đi
vào từng chương để giới
thiệu tác
phẩm này.
-Chương Một: Bồ
Đề Đạt Ma- Từ
Huyền Thoại Tới Tâm
Kinh
Chương này viết về một số huyền thoại liên
hệ tới ngài Bồ
Đề Đạt Ma (tổ thứ 28) trong đó có đoạn, “Tổ thứ 27 là một Ni sư?
Một điển hình về nghi
vấn huyền thoại: Có phải tổ thứ 27 Thiền
Tông là một Ni
Sư, và Ni
Sư này là Thầy dạy đạo, truyền
pháp cho ngài Bồ
Đề Đạt Ma? Phần lớn theo truyền
thống nghĩ rằng ngài Bát
Nhã Đa La là nam giới cũng như các vị tổ
sư Thiền khác. Nhưng một số nhà nghiên
cứu Phật
học thế kỷ 20 tìm
ra một số dấu chỉ, cho thấy ngài Bát
Nhã Đa La có thể là nữ
giới. ” Huyền thoại thứ hai là, “Ngài ban
đầu không được cho vào Chùa
Thiếu Lâm, ngồi một chỗ trong một cái hang gần chùa, không nói gì
trong chín năm, hẳn là không đúng ý ngài là muốn hoằng
pháp.” Rồi, “ Huệ
Khả đã tự cắt cánh tay trái. Truyện kể cường điệu thôi, thực
tế không thể như thế.” Rồi chuyện Đạt
Ma Tổ
Sư gặp Lương
Vũ Đế “Do ngài Thần
Hội (Shen-hui), học trò của ngài Huệ
Năng (Huineng), ghi vào sách. Nghĩa là, từ khi gặp tới khi ghi
vào sách là hơn 230 năm. Trí
nhớ trải
qua mấy đời kể lại. Dĩ
nhiên, cũng không có chứng
cớ để nói rằng không có chuyện đối thoại như thế. Theo các sách
ghi lại, đúng là hai vị có gặp
nhau, nhưng đối thoại có y
như kể lại trong Thiền sử như thế cũng là khả vấn (đáng nghi
ngờ) “
-Chương Hai: Lắng Nghe Bờ Kia
Tác giả dựa
vào Kinh
Lăng Nghiêm để nói về chương này qua hai đề
mục nỗi khổ của con
người và niềm
tin kiên
cố, không dao
động vào Tam
Bảo và lời dạy của Đức
Phật. Tác
giả viết, “Phải có kinh
nghiệm sâu thẳm về khổ, không phải là chữ
nghĩa trừu
tượng, không phải là suy
luận mơ
hồ, mà là cái gì rất thực, y hệt như khắp trời sương mù đang ngấm
ướt toàn
thân, mới biết sợ để tinh
tấn lo tu.”
Tu mà còn thấy đời này vui vui, đời này có nhiều cái hấp
dẫn, hấp
dẫn nhất là tiền bạc, sắc đẹp, lời ca tiếng hát, lời
khen ngợi, danh
vọng, chỗ đông người…thì tu
pháp môn gì cũng hỏng.
-Chương Ba: Vô
Tướng Tam Muội
Tác giả nói rằng, “Đức Phật đã dạy đường vào giải
thoát có nhiều cửa, không phải chỉ một. Học
nhân thời nay, đặc
biệt là tại Tây
Phương, không chú ý nhiều về Vô
Tướng Tam Muội. Vậy Vô
Tướng Tam Muội là gì? Đó là, “Không hề có một pháp nào để làm.”
Bởi vì phải thấy ngay rằng không hề có một chỗ nào trong tâm để bấu
víu.” Nói khác đi, tâm rỗng rang chính là Vô
Tướng Tam Muội.
-Chương Bốn: Từ Nhà Thơ Chí Hiên Tới Nhà Thơ Nguyễn Du
Cụ Nguyễn Du sinh ra và lớn lên “Trong thời đất nước điêu
linh, gia
tộc Nguyễn và bằng hữu chia nhiều phe – một phần theo phò nhà Lê,
một phần theo nhà Tây Sơn dựng nghiệp, một phần theo Nguyễn Ánh, người
sau này thống nhất đất nước và trở
thành Vua Gia Long (sử ghi: năm 1796, Nguyễn Du trốn vào Gia Định
theo chúa Nguyễn Ánh nhưng bị Quận Công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở
Nghệ An, sau án tù được tha về quê sống ở Tiên Điền.” Nguyễn Du đã có
thời phải vào chùa xuất
gia với pháp
danh Chí Hiên và lưu
vong nhiều năm trên đất Trung Hoa. Khi Tây Sơn bị tận diệt,
Nguyễn Du ra làm quan cho Vua Gia Long, nhưng thơ ông cho thấy một tấm
lòng muốn lui
về ẩn
cư nơi quê
nhà Hồng Lĩnh. Nỗi
buồn sâu thẳm tới mức khi bệnh nặng, Nguyễn Du không uống thuốc,
nói người nhà sờ vào tay chân xem. Khi người thân nói lạnh rồi, Nguyễn
Du chỉ nói, “Được” – và từ trần, không lời nào trăn trối để lại. Trong gia
tài thi
ca lỗi
lạc để lại cho đời, các nhà nghiên
cứu nhận
thấy Nguyễn Du có mối tình lãng
mạn với Hồ Xuân Hương khoảng ba năm, Nguyễn Du từng làm hai bài
thơ tặng nữ sĩ họ Hồ với bút hiệu Chí Hiên (và như thế, Nguyễn Du từng
làm thơ tặng cô với một hay nhiều bút hiệu khác)… Tại sao làm thơ tặng
nữ sĩ lại ký bút hiệu bằng pháp
hiệu Chí Hiên thời còn là một tăng sĩ? Hay là, có ai trùng tên
Chí Hiên? Hay là, Nguyễn Du làm thơ tặng nàng họ Hồ nhưng không muốn
nhiều người biết, nên dùng pháp
danh khi còn là tăng sĩ Chí Hiên trong thời lưu
lạc bên Trung Hoa?
-Chương Năm: Thành
Tựu Niết
Bàn
Trong chương này tác
giả biện
luận rằng các danh từ như “thành tựu Niết Bàn“ (To achieve
Nirvana/Nibbana) nói theo Tây
Phương. Còn nói “nhập Niết Bàn” theo theo Nam
Tông và Bắc
Tông cũng không ổn vì cho thấy Niết
Bàn là một nơi chốn để vào. Ngay cả khi nói là “chứng ngộ Niết
Bàn” thì cũng chỉ là một cách nói. Nếu hiểu có cái gì được chứng
ngộ thì hiển
nhiên không phải là Niết
Bàn. Kinh
Na Tiên Tỳ Kheo), nơi Phẩm Vessantara, tóm lược ý như sau: Niết
Bàn không ở hướng nào hết, dù là hướng đông, nam, tây, bắc, hướng
trên, hướng dưới, hay hướng ngang; Niết
Bàn không là quá
khứ, hiện
tại, vị
lai, không phải được sanh lên, không phải không được sanh lên,
không phải sẽ được làm cho sanh lên; Niết
Bàn là không có vật đối
chiếu, không thể bằng ví dụ, hoặc bằng lý lẽ, hoặc bằng nguyên
nhân, hoặc bằng suy
luận để chỉ ra hình thể, hay vị
trí, hay tuổi thọ, hay kích thước của Niết
Bàn; Niết
Bàn là thuần lạc, không bị xen
lẫn khổ… “
Như vậy ngôn
ngữ nào cũng có giới
hạn. Ngắn gọn lại tác
giả viết, “Đức Phật nói rằng Niết
Bàn không phải là chuyện trên mây, hay chuyện bên kia núi. Niết
Bàn là phi
thời gian (không hạn lượng trong thời
gian), là cái thiết
thực, là cái thấy trực tiếp ngay ở khoảnh khắc khải nghiệm. Kinh
AN 3.55 ghi lời Đức
Phật, qua bản dịch Thầy Minh
Châu, cho thấy Niết
Bàn hiển
lộ ngay khi tham
sân si biến mất.”
-Chương Sáu: Đọc sách “Phật Điển Phổ
Thông: Dẫn Vào Tuệ
Giác Phật”
Đây là tuyển tập Kinh và Luận ghi từ ba truyền
thống: Thượng
Tọa Bộ, Đại
Thừa, Kim
Cang Thừa. Sách dày 850 trang,chữ in rất nhỏ thực
hiện với chủ biên
bản dịch Việt là Lê Mạnh Thát và Tuệ Sỹ, ấn
hành do Hương
Tích và NXB Hồng Đức. Sách này là một dự
án của Hội
Đồng Vesak Quốc Tế, đặt tại Đại
Học MCU của Thái Lan. Kết
tập và soạn tập sách này gồm nhiều biên
tập viên và dịch giả quốc tế. Trong đó, phía người Việt có Hòa
Thượng Thích Tuệ Sỹ, GS. TS Lê Mạnh Thát, và TS. Thích Nhật Từ. Biên
tập viên và dịch giả tiếng Việt. Tổng biên
tập là Thầy Thích Tuệ Sỹ, và các vị phiên
dịch là: Thích Hạnh Viên, Thích
Nữ Khánh Năng, Thích Thanh Hòa, Pháp
Hiền Cư sỹ, Nguyễn Quốc Bình.
-Chương Bảy: Ngừa Hoạnh
Tử, Tăng Thọ, Niệm
Tử
Đại dịch Corona hay Covid-19 tính tới ngày 18/5/2021 đã lấy
đi 3,406,805 mạng người trên toàn thế
giới, nặng nhất là Hoa Kỳ và nay tới Ấn
Độ. Theo tác
giả, vào lúc cao điểm, một vài thành phố ở Texas và Arizona phải
mua hay thuê xe thùng đông lạnh (container)
để giữ xác, vì nhiều nhà quàn hết chỗ, không chôn kịp. Còn Nữu Ước thì
phải chôn người tập thể. Còn tại Ấn
Độ thì thả xác trôi trên Sông
Hằng. Trước thảm họa lớn lao như thế người ta lại không biết
thương nhau và biến nó thành vũ khí chính trị để tranh
đoạt ảnh
hưởng, quyền
lực và thế
lực. Cho
đến bây giờ không ít người Mỹ kể cả một số giáo
sĩ vẫn cho rằng đại dịch Covid-19 chỉ là “hoax” tức trò chơi
khăm, trò lừa
đảo, không có thực và con số người chết bị thổi phồng lên để triệt
hạ uy
tín người lãnh
đạo. Thế nhưng là người học Phật chúng
ta phải nhìn bằng trí
tuệ và phát
khởi lòng
từ bi, từ đó chung
sức để giải nghiệp. Tác
giả đã dùng Kinh Milinda Vấn Đạo thuộc hệ
Nam Tông nói về chết hoạnh
tử tức chết
oan, chết không đáng
chết hay chết không đúng thời mà tiếng Anh gọi là “untimely
death” Tác
phẩm “Abhidhamma in Daily Life” (A
Tỳ Đạt Ma Trong
Đời Thường) của Ashin Janakabhivamsa giải
thích về các trường
hợp hoạnh
tử. Những trường
hợp “uppachedaka
death” là chết không đúng thời, chết không tự
nhiên, vì một số chúng
sinh lẽ ra còn tuổi thọ và nghiệp
lực còn cho
phép họ sống. Nhưng vì một vài nghiệp
ác đã làm trong quá
khứ đột ngột trổ quả, gây ra cái chết không đúng thời. Bộ luận A
Tỳ Đạt Ma giải
thích rằng cái chết đó y hệt như một ngọn lửa đột ngột tắt vì
trận gió bất ngờ, trong khi bấc và dầu vẫn còn.
Để tránh chết
oan, ngoài nghiệp
báo trong quá
khứ, Đức
Phật, trong một bài viết có nhan đề “Khảo Biện về Kinh Dược Sư”
của Thầy Chúc Phú, nói rằng người trí
tuệ cần tránh nhân
duyên gặp
nạn, và cần
phải thực
hành lời
Phật dạy, chớ đừng nghĩ rằng tụng
kinh hàng ngày là đủ. “Trong kinh Phật
thuyết cửu
hoạnh, Phật dạy rằng, nếu như gặp phải voi say, ngựa chứng, bò
điên, xe cộ, rắn
độc, hầm hố, nước, lửa, chiến loạn, người say, kẻ xấu cũng như
bao điều tệ ác khác… nếu bậc có trí
tuệ thì sẽ biết và tránh các nhân
duyên đó để bảo toàn tính
mạng...”.
Đúng vậy, ăn
chay, đi
chùa lễ
Phật, cúng
dường nhiều tiền mà lái xe vong
mạng trên đường phố, giữa cơn đại dịch mà tụ
họp ăn
uống, nghe nhạc ở phòng trà, quán nhậu, thậm chí đi lễ đông đảo,
không đeo khẩu trang vị tự ái…nếu có lây bệnh mà chết thì đừng nói tại
số hay tại Trời. Nếu nói oan thì cũng không oan mà vì tự mình giết
mình.
-Chương Tám: Suy
Nghĩ Về Ngài Tuệ
Trung Thượng Sĩ
“Bài viết này nhằm bổ túc thêm cho một băng thu hình chủ
đề “Tuệ Trung Thượng Sỹ” trên YouTube do nhóm Wisdom Today thực
hiện, trong đó Tiến
Sĩ Phật học Nguyễn Thúy Loan đã phỏng
vấn Hòa
Thượng Thích Phước Tịnh và bản
thân người viết là Cư
sĩ Nguyên Giác. Lý
do bổ túc vì lời
nói của người viết vốn vụng
về, không có khả năng diễn ý minh
bạch như bài viết.”
Ở đây thấy cũng cần nhắc lại Tuệ
Trung Thượng Sĩ tên
thật là Trần Tung - con trưởng của An Sinh Vương Trần
Liễu (nguyên tác chép An
Ninh vương), anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn và Hoàng hậu Nguyên
Thánh Thiên Cảm húy Thiều, vợ vua Trần
Thánh Tông[3] và
là thầy dạy đạo của Vua Trần
Nhân Tông.
Có một phần mà tác
giả thêm vào để bổ túc đó là về bài thơ của Trần
Nhân Tông nói về Thiền của Tuệ Trung Thượng Sỹ trong bài Tán Tuệ
Trung Thượng Sỹ:
“Vọng chí di cao
Toàn chi di kiên
Hốt
nhiên tại hậu
Chiêm chi tại tiền
Phu thị chi vị
Thượng sĩ chi thiền.”
Bản dịch của Lý Việt Dũng: “Càng
nhắm càng cao. Càng dùi càng cứng. Bỗng nhiên vừa phía hậu. Nhìn lại đã mặt
tiền. Ôi đó mới thật là. Thiền của Thượng
Sĩ!”
Đó là bài thơ ca
ngợi ngài Tuệ Trung Thượng Sỹ. Chúng
ta không có nhiều tài
liệu để biết hoạt
động thường ngày của các vị trong thời
kỳ chỉ
huy quân Việt ba đợt ra trận đánh bại quân phương Bắc xâm lăng.
Tuệ Trung và Trần
Nhân Tông đều là võ tướng, hiển
nhiên hàng ngày là luyện quân, phải thể
dục, chạy nhảy, phi ngựa, lội sông, vân
vân. Nhưng bài ca
ngợi này có lẽ chỉ nói về Thiền.”
Đúng là trong con
người ta có cả trăm hình
tướng. Khi là tướng quân, khi là thiền
sư ôn tĩnh như một tảng đá hay cội tùng cheo leo trên vách núi
giống như Ngài Quán
Thế Âm thị
hiện rất nhiều hình
tướng - từ tể tướng tới trẻ con, thương
gia để “Thân nhi vị thuyết pháp”. Cho nên nhận
xét về một con
người chớ chấp vào hình
tướng như lời
Phật dạy Ngài Tu
Bồ Đề, “Phàm chấp vào hình
tướng đều là hư vọng”.
-Chương Chín: Hạnh Bồ
Tát và Kinh Kim
Cương
Theo sự nghiên
cứu của tác
giả, “Hạnh Bồ
Tát là gì? Trong nghĩa đơn
giản nhất, tu Hạnh Bồ
Tát là những người ra sức hoằng
pháp và không muốn Chánh
Pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ
giới Bồ
Tát hay không. Theo nghĩa đơn
giản này, Hòa
Thượng Thích Minh
Châu (người đã dịch Tam
Tạng Pali sang tiếng Việt) và tất cả quý tăng
ni, cư
sĩ đã thiết
lập Đại
Học Vạn
Hạnh đều là các vị Bồ
Tát. Trong nghĩa đầy đủ, Bồ
Tát là người giữ hạnh cứu
độ chúng
sanh, hồi
hướng phước
đức mình có cho tất cả hữu
tình, luyện tâm Bồ
Đề, tu Sáu
Ba La Mật, giữ Bồ
Tát hạnh nguyện, và là vị Phật tương lai. Điểm ghi nhớ, tu hạnh Bồ
Tát cũng như tất cả các pháp tu đều phải giữ lấy pháp
ấn vô
ngã, không bao giờ để cho tâm vướng chút nào vào “tôi, của tôi” (ngã, ngã
sở). Nghĩa là tu mà vẫn thấy là vô tu. Do vậy, truyền
thống Thiền
Tông nói rằng trong khi tu hạnh Bồ
Tát cần
phải ngộ
nhập Tánh
Không, để không còn chấp vào có người tu và có pháp được chứng,
không vướng vào tướng có người độ và có người được độ. Hai kinh quan
trọng của Thiền
Tông chỉ
thẳng vào Tánh
Không, tức Bản
Tâm, là Kinh
Kim Cang, còn gọi là Kinh Kim
Cương, hay Kim
Cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh, ”
-Chương Mười: Niệm, Vô
Niệm, Thoại
Đầu và Huệ
Khả
“Chương này khảo sát một số khái niệm về các hiện
tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức
Phật và chư Tổ. Chữ “không có tư niệm” chỉ có nghĩa là “ngay nơi
niệm sẽ không để thức an
trú (trụ) vào đâu cả”. Tức là, không ý
định mưu tính, không lên kế
hoạch, không xuôi theo khuynh hướng thầm kín nào. Đó là giải
thoát.
Trong Tạp
A Hàm, có ba Kinh SA 359, 360, 361 đều có đoạn sau, theo bản dịch
của hai Thầy Tuệ Sỹ & Đức Thắng: “Nếu không suy lường, không vọng
tưởng thì sẽ không bị sai sử khiến thức duyên níu mà tồn
tại. Vì không có chỗ duyên níu cho thức tồn
tại nên nó không nhập vào danh
sắc. Vì không nhập vào danh
sắc nên không qua lại. Vì không qua lại nên không sanh
tử. Vì không sanh
tử nên sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não ở đời vị
lai đều bị diệt và thuần một khối khổ lớn như vậy cũng bị diệt.”
Ngài Trần
Nhân Tông còn gọi đó là “đối cảnh vô tâm” và đó là một tông
chỉ của Thiền Trúc
Lâm.
Trong Pháp
Bảo Đàn Kinh, Ngài Huệ
Năng nói trong Phẩm Bát
Nhã, bản dịch của Thầy Duy Lực rằng, "Bản tánh là Phật, lià tánh
chẳng có Phật. Sao gọi Ba
La Mật? Ba
La Mật là tiếng Ấn
Độ, dịch là đến
bờ bên kia, nghĩa là lìa sanh
diệt. Chấp cảnh thì sanh
diệt dấy lên như nước nổi làn sóng, tức gọi bờ bên này, lìa cảnh
thì chẳng sanh
diệt như nước chảy im lìm, tức là bờ
bên kia, nên gọi Ba
La Mật... Thiện
tri thức, phàm
phu tức Phật, phiền
não tức Bồ Đề; niệm
trước mê tức phàm
phu, niệm sau ngộ tức Phật. Niệm
trước chấp cảnh tức phiền
não, niệm sau lià cảnh tức Bồ
Đề.” Trong tác
phẩm Trung
Luận (Madhyamaka Sastra) của ngài Long
Thọ, bản dịch của Thầy Thiện Siêu, phẩm XVIII Quán Về Pháp, trích
như sau: Chư Phật hoặc dạy về ngã, hoặc dạy về vô
ngã, trong thật
tướng các pháp, không có ngã, không có phi
ngã. Thật
tướng của các pháp thì tuyệt dứt đường ngôn
ngữ và tâm
duyên, không
sinh cũng không diệt, tịch
diệt như Niết-bàn. Hết thảy pháp đều thật, đều phi thật, cũng
thật cũng phi thật, chẳng phải thật chẳng phải phi thật. Đó chính là giáo
pháp của chư Phật.
Tự mình chứng biết, không theo cái biết của người khác, tịch
diệt không có hý
luận, không sai khác không phân
biệt. Đó chính là thật
tướng.”
Như thế, chúng
ta đã khảo sát về niệm, về vô
niệm, về đương niệm, về thoại
đầu và kết
luận rằng khi nhìn các pháp trong Đệ
nhất nghĩa đế, sẽ thấy sinh
tử với Niết
Bàn hệt như hoa
đốm hư
không. Có lẽ, đó cũng là sự tịch lặng của ngài Huệ
Khả và nhìn hoa mỉm
cười không nói của Ngài Ca
Diếp.
Chương Mười Một: Thấy Biết Như
Thật và Thấy Tánh
Tác giả cho
biết chữ “thấy” (kiến) trong nhà Phật không hoàn
toàn có nghĩa là thấy bằng mắt, và Đức
Phật thường
dùng chữ “thấy” cho nghĩa các chữ: quán
sát, quán
tưởng, nhận rõ từ
trí tuệ. Nghĩa là, chữ “thấy” còn có nghĩa là “nhận rõ bằng trí
tuệ” (insight). Nhưng muốn quán
sát như
thật cần tập thiền. Trong Tạp
A Hàm, Kinh SA 65, Đức
Phật dạy rằng muốn quán
sát như
thật cần
phải tĩnh lặng trong tâm, lúc đó mới quán
sát được. Khi thấy biết “như thật” có nghĩa là thấy các pháp
ấn Vô
Ngã, Vô
Thường, Khổ. Và như thế, cũng có nghĩa là thấy Tứ
Thánh Đế.
-Chương Mười Hai: Mùa Đại Dịch, Hộ
Trì Sáu Phương
Trong hoàn
cảnh này, hạnh
nguyện hộ
trì và bố
thí cần được thực
hiện theo lời Đức
Phật dạy để bảo
vệ sáu phương: Bố
thí tài vật (giúp dân vượt khó, cúng
dường chư
tăng, ba mẹ, thầy cô giáo…), bố
thí sinh mạng (liều thân vào nơi hiểm nạn để cứu người, như lính
cứu hỏa thời
bình, như nhân viên y tế thời
đại dịch vì chăm sóc bệnh nhân cũng là chăm sóc Đức
Phật), và rồi tận cùng của hạnh bố
thí là giải
thoát.
-Chương Mười Ba: Phật
Tử Đối
Trị Dịch Bệnh
Sau khi trích dẫn lời dạy của Đức
Phật trong nhiều bộ
kinh, tác
giả kết
luận, “Tóm lại, trong thời dịch bệnh đang có cơ nguy sẽ lấy
đi 2/3 nhân
loại, người Phật
tử nên khẩn cấp khuyến tấn cả gia
đình Quy
y, Thọ
giới, Nghe kinh, Làm việc
thiện, Tu niệm
xứ, Tu hạnh Từ
Bi, Niệm
Pháp Ấn Vô
Thường. Chúng
ta không thể biết rằng nghiệp
lực sẽ dẫn chúng
ta, gia
đình và dân tộc tới đâu, nhưng nên thấy rằng nếu dịch bệnh này
làm kiệt
sức toàn dân là có thể gặp cơ nguy mất nước và cả cơ nguy Đạo
Phật bị xóa sổ tại quê
nhà.”
-Chương Mười Bốn: Bài Pháp Khẩn Cấp Bahiya Sutta
“Trong Tam
Tạng Pali, thuộc nhóm các Kinh Phật
Tự Thuyết (còn gọi
là Cảm
Hứng Ngữ, Udana). Bản
kinh kể chuyện Đức
Phật dạy pháp một cách khẩn cấp
cho ngài Bahiya, trong lúc rất bận rộn và đang cùng chư
tăng đi trên đường khất
thực. Ngài Bahiya đã tới giữa đường, quỳ lạy
Phật để xin dạy pháp. Đức
Phật hai lần từ chối, nhưng ngài Bahiya liên
tục nài
nỉ vì lo sợ đời
sống vô
thường, vì sợ chưa hiểu pháp mà có thể sớm qua đời khác. Đức
Phật mới dạy cho cách tu
tập. Ngài Bahiya tức khắc chứng thánh
quả A
La Hán, vui
mừng nhận pháp ra đi. Khi Đức
Phật khất
thực và thọ thực xong, thì được tin ngài Bahiya bị bò húc chết. Đức
Phật ra lệnh hỏa
thiêu, xây tháp như đối với một vị tỳ
kheo, và nói rằng ngài Bahiya đã vào Niết
Bàn tối
hậu.”
Nhưng, làm cách nào ngài Bahiya - một người đời thường, chưa từng quy
y hay thọ
giới gì cả, sau khi nghe bài pháp
yếu vài câu lại có thể “hốt nhiên đốn ngộ” và xóa sạch ác
nghiệp muôn đời ngàn kiếp để vừa khi bị bò húc chết là nhập
Niết Bàn vô
dư ngay? Thực
ra, ngài Bahiya đã tu từ
vô lượng kiếp rồi, đã là một tỳ
kheo từ thời Phật Ca
Diếp. Không có gì là tự
nhiên cả, và ngài Bahiya sau này được Đức
Phật nói là trường
hợp chứng
đạo mau nhất, xuất sắc nhất. Trường
hợp ngài Bahiya cũng là nhân
duyên cho bài
kệ thứ 101 trong Phẩm Ngàn, Kinh
Pháp Cú.
-Chương Mười Lăm: Sông Hằng- Lời Dạy Tâm
Yếu Về Đại
Thủ Ấn
Bên bờ
Sông Hằng, những lời giảng này được Ngài Tilopa dạy cho Naropa.
Bản Sanskrit có tên: Mahamudra Upadesham. Bản Tạng Ngữ: Chaggya Chenpo
Menngag. Bản tiếng Anh do Ari Kiev chuyển
ngữ: Essential Instructions on Mahamudra. Bản tiếng Việt do tác
giả chuyển
ngữ. Bài
kinh khá dài cho nên tôi chỉ
trích một đoạn toát
yếu:
Thân này mong
manh, hệt như lau sậy;
và tâm, như giữa bầu hư
không, siêu vượt cảnh
giới của niệm.
Hãy an nghỉ [thân
tâm] trong trạng
thái đó,
không rời ra hay đặt để
vào, không xả không thủ.
Khi tâm
không còn chỗ trụ nào [vô
sở trụ],
thì đó là Đại
Thủ Ấn.
Chương Mười Sáu: Hai Phong Cách Thiền Chánh
Niệm
Chương này là bản dịch từ bài viết năm 2005 nhan đề “Two
Styles of Insight Meditation” của Đại
sư Bodhi, người đã dịch hầu hết Kinh
Tạng Pali sang tiếng Anh. Bài này nêu ra hai kiểu Thiền của hai
nhóm: Nhóm thứ nhất dùng thiền chánh
niệm cho các mục
tiêu thế
gian và nhóm thứ nhì, những người có niềm
tin Phật
Giáo, dùng thiền chánh
niệm cho lộ trình tu
học giải
thoát. Thiền chánh
niệm hiện đang dùng cho nhiều mục
tiêu trần gian, ở bệnh viện, trường học, quân đội… Thiền đưa
tới nhiều lợi
ích tới nổi nhiều tu
sĩ các tôn
giáo khác cũng Thiền
tập và ứng
dụng theo kiểu riêng của họ. Trong hàng ngàn sách viết về Thiền
tại Hoa Kỳ, có nhiều sách đồng
hóa Phật
Giáo với các tôn
giáo khác, xem
như kinh
nghiệm Thiền chánh
niệm chủ yếu là để “hạnh phúc với cái bây giờ và ở đây” và nơi
tâm an
lạc đó thì “đạo nào cũng như nhau, và các giáo
chủ đều ngang
hàng nhau.” Và cũng có sách nói rằng nhờ Thiền cho nên các tác
giả trải
qua các kinh
nghiệm sâu sắc hơn về Thiên
Chúa Giáo, Hồi
Giáo, Do
Thái Giáo.
Điều ghi
nhận rằng ngài Bodhi hai lần nói về khuynh hướng Phật
tử chủ trương hiện
đại hóa [Buddhist modernists], những vị khi truyền dạy thiền chánh
niệm thường không nói gì về
khổ, về nghiệp
quả và về tái
sinh. Trong khi qua bài viết này, ngài Bhikkhu Bodhi hai lần
nói tới chữ “suffering” (khổ), hai lần nói tới chữ “kamma” (nghiệp), và
ba lần nói tới chữ “rebirth” (tái
sinh).
Trong Thiền Luận, Đại
Sư Suzuki phân
biệt các
loại thiền: Ngoại
đạo thiền, phàm
phu thiền, tiểu
thừa thiền và Như
Lai tối
thượng thừa thiền. Thiền chánh
niệm đang lan tràn khắp nơi như một kiểu cách ngồi nhắm mắt, hiu
hiu tìm khoái cảm của cuộc sống nên gọi đó là “ngụy thiền”. Nó là
“giả thiền” giống như một người du lịch hoàng
cung, mặc áo hoàng bào, ngồi trên ngai sơn son thếp vàng, chụp
hình cho khoái, nhưng không phải là ông vua thật. Chư Tổ dạy rằng chưa
ngộ “Tông Chỉ Phật”. chưa quán được Khổ, Vô
Ngã, Vô
Thường, chưa ngộ được Phật
tánh thì ngồi
thiền chỉ là một kiểu ngồi để mơ
mộng, kiến trúc tự ngã cho sướng mà thôi. Hết buổi “tọa thiền”
rồi thì khổ đau, tham
sân si vẫn còn nguyên đó, vô
minh vẫn dày đặc và trôi lăn trong ngũ
dục và sinh
tử luân hồi. Thời buổi nào cũng vậy, vàng thau thường lẫn
lộn. Vàng giả có thể qua mắt được người thường nhưng làm sao qua
mắt được thợ vàng? Xin nhớ “tu
thiền” và “tọa
thiền” hoàn
toàn khác nhau. Ai cũng có thể nói mình tọa
thiền nhưng xin đừng nói “Tôi tọa
thiền cho nên tôi là người tu
thiền.” Tất cả các tôn
giáo trên thế
gian này họ đều có thể nói rằng họ “tọa thiền”. Nhưng “tu thiền”
hay tu theo các thiền phái Trúc
Lâm, Lâm
Tế, Tào
Động là một đặc trưng của Phật
Giáo, đó là Như
Lai Tối
Thượng Thừa Thiền không thể lẫn
lộn với phàm
phu thiền và ngoại
đạo thiền.
Chương Mười Bảy: Chìa Khóa Vào Thiền
Có lẽ để bổ túc cho chương nói trên, tác
giả đã trích dẫn bài viết “The Key to Zen” của Đại
sư Sekkei Harada, in trên tạp chí Lion's Roar vào tháng 4/2018.
Ngài Sekkei Harada Trụ
trì của Hosshin-ji, một Thiền
viện Tào
Động (Soto Zen) tại tỉnh Fukui, ven biển miền trung Nhật
Bản.
Theo Đại
Sư Harada, có ba yếu
tố của tọa
thiền.
Về yếu
tố đầu tiên, Thiền
sư Dogen có lời
khuyên cho những người không biết làm gì nếu họ không gặp một vị
thầy chân
thực. Dogen cảnh
giác họ nghiêm túc, “Trong trường
hợp như thế, tốt nhất là tạm thời ngưng tu
tập. Bỏ tập sẽ ít nguy hiểm hơn là tập sai.” Lý
do là vì tu
tập như thế
y hệt như vượt biển mà không bản đồ-luôn luôn có cơ nguy gặp các
đá ngầm chưa biết.
Về yếu
tố thứ nhì, việc tu
tập tọa
thiền, sẽ ít nguy hiểm hơn cho những ai không có thầy để tự họ
tập, thay vì tập tọa
thiền hướng dẫn một cách sai
lầm.
Yếu tố cuối
cùng là giữ các giới
luật.
Sau hết, tọa
thiền của thân là tư thế ngồi thẳng, tréo chân và đặt hai
bàn tay vào nhau. Tọa
thiền của khẩu là những lời
nói chúng
ta dùng trong ngày, lời chào hỏi buổi sáng, lời Bát
Nhã Tâm Kinh chúng
ta tụng trong thời kinh sáng và các bài
kệ chúng
ta đọc trước khi ăn, cũng như những chữ dùng khác trọn ngày. Sau
cùng, tọa
thiền của ý là chức
năng của tâm, cái mà chúng
ta không thể thấy. Những ý
nghĩa khác nhau, tính toán, biện
biệt và vân
vân, tất cả chuyển động của tâm đều là tọa
thiền.
-Chương Mười Tám: Tưởng Nhớ Sư Ông Nhẫn Tế
Sư Ông Nhẫn Tế được dạy ở Tây
Tạng bằng phương
pháp tiếp điển. Vị La
Hán hiện
ra trong thiền
định nói tiếng Ấn
Độ với Sư Ông. Có thể hiểu rằng, Sư Ông chỉ giỏi tiếng Hán, tiếng
Pháp khi rời Việt
Nam sang Ấn
Độ năm 1935, và nơi đây học tiếng Ấn
Độ và tiếng Anh để đủ giao tiếp. Sư Ông bắt đầu học tiếng Tây
Tạng từ tháng 2-1936, và tới Lhassa, thủ đô Tây
Tạng, ngày 28-6-1936. Khi tác
giả còn bé và tới Chùa Tây
Tạng tu
học thì sư ông đã viên
tịch và chỉ biết về sư ông qua bổn sư là Hòa
Thượng Tịch
Chiếu và tập Nhật
Ký của sư ông. Sư Ông viết về ngày 16-9-1936 như sau: “Tiếp
điển: Lời căn dặn: Cư-sĩ đệ
tử sẽ tấn phát nhờ đức lực, ngươi sẽ thấy tự
nhiên. Nhiều đêm sau, Sư Ông vẫn được tiếp điển dặn dò. Cũng có
đêm dạy thần
chú qua tiếp điển. Ngày 12-10-1936, vị La
Hán tiếp điển dặn Sư Ông là sẽ có ba đại
đệ tử từ Miền Trung tới (sau này, tôi được cho
biết đó là 3 Thầy: Tịch
Chiếu, Thường
Chiếu, Viên
Chiếu)…
Ngày 13-10-1936, vị La
Hán tiếp điển, dạy Sư Ông cách vào Tứ
Thiền, rồi chuyển sang quán
niệm để ngộ vô
sanh. Ngày 20-10-1936, vị La
Hán tiếp điển, Sư Ông ghi lại: “Tiếp
điển: 2 giờ khuya. Tự đến chỉ pháp quán Vô
sanh rồi dặn rằng: Ba năm sau khi về xứ, hết dư
nghiệp. Ngươi sẽ lập Tây-trước-chánh-tông. Y
theo bài
kệ đã thấy. Đó
là những cơ
duyên tuyệt
vời của Sư Ông Nhẫn Tế. Tu trong mấy kiếp, đoạt lý một giờ.”
Câu
chuyện giống như một huyền thoại vậy.
-Chương 19: Thơ
Thực ra trước đây tôi không biết gì về thơ của Nguyên Giác nhưng
theo cư
sĩ Nguyên Toàn- một người rất uyên
thâm về Phật học- thì thơ của Nguyên Giác rất tuyệt
vời. Trong chương này có tất cả 7 bài thơ như: Thêm Một Ngày-Học Vô
Cùng, Mừng Anh Ngọc Tám Mươi, Đọc Sách Thầy Phước An, Dòng Thơ
Tiễn Bạn, Lắng Nghe Hơi
Thở, Hoa Bay Khắp Trời (bài
thơ này được nhạc sĩ Trần Chí
Phúc phổ nhạc). Tôi xin trích ra bài Dòng Thơ Tiễn Bạn để
xem thơ Nguyên Giác tuyệt
vời tới mức nào.
Dòng Thơ Tiễn Bạn (Nhà thơ
Nguyễn Lương Vỵ 1952-2021)
Đêm lặng
lẽ, chờ năm
uẩn
tan theo nghiệp, bạn về đâu
kêu giữa trời nghiêng cánh
nhạn
nguyện qua bờ dứt thảm
sầu.
Mở trang kinh, đọc lời Phật
vô lượng khổ ngàn kiếp xưa
chờ nến tàn theo lửa tắt
nguyện chúng
sinh khắp qua bờ
Đêm chia ly, ngày sẽ tới
tôi trọn
đời, ngồi chép kinh
làm thơ nhìn lửa ba
cõi
thấy vô
ngã, ngộ vô
sinh
Mở trang kinh, nghe
tin bạn
rơi tay bút, mực loang dòng
bọt sóng trôi vô
cùng tận
như tia chớp, như hạt
sương
Đêm rất lạnh, rừng ký ức
nghiệp trùng
trùng mấy trận văn
bạn xông xáo đời giấy mực
bây giờ nằm, ai niệm
tâm
hãy lặng
lẽ, nghe hơi
thở
thấy vô
ngã, chớ suy tầm
hãy buông sạch ngàn muôn chữ
hãy buông hết trọn thân
tâm.
Đêm trừ tịch, đêm lưu
lạc
lời từ biệt muôn kiếp xưa
hướng tâm về tạ
ơn Phật
tắm mặt
trời nắng ban trưa
nhớ lời kinh, mời bạn đọc
tạ ơn Pháp, lệ vui
mừng
từng dòng chữ như chuỗi
ngọc
trang nghiêm tâm sáng vô
cùng
Đêm không ngủ, đêm tu
học
như lửa cháy khăn trên đầu
mắt tỉnh
thức nhìn gió ngược
tâm tịch lặng dứt muôn sầu
Đêm vô
tận rồi sẽ dứt
lìa hữu
vô, ngộ Niết
Bàn
tánh trong gương ai thấy
được
rơi tất cả bụi ngàn năm
tâm vô
ngã lìa giông bão
không cao hơn, không kém hơn
vui tịch lặng tâm
hải đảo
không lay động giữa đại
dương.
California, 17/2/2021
Bài thơ siêu
thoát, sâu thẳm của kiếp nhân
sinh. Trong cái chết mà nhìn thấy Pháp Vô
Sanh. Lời thơ “Trong
như tiếng hạc bay qua”, ý thơ như chim bay lượn trên
trời, như mây vần
vũ không ai lường trước được nhưng liền lạc, ăn
ý và xúc
động lòng người. Cư
sĩ Nguyên Toàn thật có lý.
Tạm Kết
Luận:
Nguyên Giác thuở nhỏ đã nương
nhờ cửa
Phật tại Chùa Tây
Tạng, Bình Dương được chân
truyền về Thiền cho nên chuyên khảo về Thiền. Nguyên Giác viết
rất cẩn
trọng. Những kinh sách viết bằng Việt Ngữ của chư Tổ phần lớn
dịch từ kinh
điển Trung Hoa, sau này từ Pali. Nhờ thông
thạo Anh Ngữ cho nên Nguyên Giác đã đọc được rất nhiều kinh, luận
của các bậc đại
sư, cư
sĩ viết bằng Anh Ngữ khắp nơi trên thế
giới như Anh, Hoa Kỳ, Nhật
Bản, Ấn
Độ, Tích
Lan, Thái Lan, Miến Điện. Các tác
phẩm viết bằng tiếng Anh phần lớn dịch từ kinh
tạng Pali và Sanskrit, khi đối
chiếu với kinh
tạng dịch từ Hán Tự, chắc
chắn sẽ làm sáng
tỏ nghĩa của kinh viết bằng Hán tự - dù dịch qua Việt Ngữ vẫn
có khi khó hiểu. Đó là ưu
điểm của những bài viết của Nguyên Giác. Từ
Huyền Thoại Tới Tâm Kinh là một tác
phẩm rất giá
trị, không “hợp khẩu vị” của những Phật
tử sơ
cơ nhưng rất thích
thú cho những vị đang tu
Thiền và nó cũng là một tài
liệu tham
khảo. Với tinh
thần tinh
tấn tu
học và hoằng
dương chánh pháp, tôi xin trân
trọng giới
thiệu tác
phẩm này.
Thiện Quả Đào Văn Bình
(California ngày 19/5/2021)