Hạnh Bồ-tát và kinh Kim cang
hanh bo tat
Hạnh Bồ-tát và kinh Kim cang
Nguyên Giác
Bài này sẽ trình bày về đề tài hạnh Bồ-tát và kinh Kim cương. Người viết
không có thẩm quyền nào, do vậy phần chính sẽ dựa vào kinh luận.
Bài này cũng được viết với tinh thần không nắm giữ một kiến chấp nào, như lời
dạy trong Kinh Tập (Sn 4.3), nằm trong nhóm kinh nhật tụng của chư Tăng
trong các năm đầu khi Đức Phật hoằng pháp: “Bài kệ 787: Làm sao, và về những
gì, những kẻ dính vào tranh cãi về các giáo thuyết có thể tranh cãi với người
không dính mắc gì? Không nắm giữ bất cứ gì, và không bác bỏ bất cứ gì, người ấy
rũ bỏ bất kỳ cái nhìn nào nơi đây.”(1)
Đức Phật dạy hạnh Bồ-tát
Hạnh Bồ-tát là gì? Ở nghĩa đơn giản nhất, tu hạnh Bồ-tát là những người ra sức
hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới
Bồ-tát hay không. Theo nghĩa đơn giản này, Hòa thượng Thích Minh Châu (người đã
dịch Tam tạng Pāli sang tiếng Việt) và tất cả quý Tăng Ni, cư sĩ đã thiết lập
Đại học Vạn Hạnh đều là các vị Bồ-tát. Ở nghĩa đầy đủ, Bồ-tát là người giữ hạnh
cứu độ chúng sinh, hồi hướng phước đức mình có cho tất cả hữu tình, luyện tâm
Bồ-đề, tu sáu Ba-la-mật, giữ Bồ-tát hạnh nguyện, và là vị Phật tương lai.
Nhìn qua sử Việt, hạnh Bồ-tát đã gắn liền với đời sống dân tộc Việt từ khi Phật
giáo vào Việt Nam thời Hùng Vương, và đã đào tạo nhiều thế hệ Phật tử tu theo
châm ngôn "bi trí song tu." Theo nghiên cứu của GS Lê Mạnh Thát, tác phẩm Lục
độ tập kinh bản gốc từ tiếng Việt cổ, về sau được Khương Tăng Hội (?--280)
dịch sang tiếng Hán.
Đó cũng là lý do cho thấy ảnh hưởng rộng lớn của Phật giáo đối với dân tộc: Cuộc
khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (năm 39- 43) đã có nhiều sư cô trở thành các nữ
tướng chiêu mộ dân làng gia nhập nghĩa quân chống quân nhà Hán, và sau đó nhiều
làng Bắc Việt đã lập đền thờ các sư cô như Thiều Hoa, Phương Dung, Thục Nương,
Bát Nàn, Vĩnh Huy, Nguyệt Thai, Nguyệt Độ, Chiêu Dung, Hương Thảo... Như thế,
hẳn là đạo Phật đã vào Việt Nam nhiều thập niên (hay nhiều thế kỷ?) trước Tây
Lịch mới đào tạo được các sư cô có tiếng nói thuyết phục được dân làng cùng nổi
dậy thời Bắc thuộc lần đầu.
Trong kinh Trung bộ (MN 83), Đức Phật dạy ngài Anan rằng Chánh pháp cần
duy trì, chớ nên đứt đoạn Chánh pháp. Lời dạy này có thể hiểu là hãy bước vào
cõi nhân gian để hoằng pháp khi có thể, và khi thấy Chánh pháp có cơ nguy bị đứt
đoạn thì đừng vào riêng một góc núi ngồi an hưởng thiền định. Không rõ có thể
hiểu lời dạy này là nên giữ hạnh tái sinh đời đời kiếp kiếp như các vị tulku
Phật giáo Tây Tạng để duy trì Chánh pháp hay không? Bản dịch của Thầy Minh Châu
trích như sau:
“Chính là Thánh đạo Tám ngành này, tức là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh
ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Này
Ānanda, đây là truyền thống tốt đẹp được Ta thiết lập, và truyền thống ấy đưa
đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, tịch tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Này
Ānanda, về vấn đề này, Ta nói như sau: ‘Truyền thống tốt đẹp này do Ta thiết
lập, hãy tiếp tục duy trì. Các Ông chớ có thành người tối hậu sau Ta’. Này
Ānanda, khi hai người còn tồn tại, và có sự đứt đoạn của truyền thống này, thời
người nào làm cho đứt đoạn, người ấy là người tối hậu. Vậy này Ānanda, Ta nói
với Ông: ‘Truyền thống tốt đẹp này do Ta thiết lập, các Ông hãy tiếp tục duy
trì. Các Ông chớ có thành người tối hậu sau Ta…’”(2)
Trong kinh Trung A-hàm (MA 67), bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ có văn phong rất
minh bạch là chớ để “Phật chủng đứt đoạn.” Hình như văn phong này về sau được
hình thành rõ hơn qua các luận sư Đại thừa và Kim cang thừa, vì hàm nghĩa là sẽ
thành Phật. Kinh này viết, trích:
“Này A-nan, thế nào là pháp kế thừa mà nay Ta chuyển trao cho ông và bảo ông
cũng phải chuyển trao lại pháp kế thừa ấy, chớ để cho Phật pháp đứt đoạn? Đó
chính là Thánh đạo tám chi, từ chánh kiến cho đến chánh định là tám. Này A-nan,
đó chính là pháp kế thừa mà nay Ta đã chuyển trao cho ông, và ông cũng phải
chuyển trao lại pháp kế thừa ấy, chớ để cho Phật chủng đứt đoạn.”(3)
Một kinh khác trong Tăng nhất A-hàm (EA 35.2), ghi lời Đức Phật nói rằng
Ngài muốn làm cho người chưa phát ý Bồ-tát khởi được tâm Bồ-tát và Ngài cũng sẽ
thọ ký cho Phật tương lai. Có nghĩa là Đức Phật khuyến tấn tu hạnh Bồ-tát. Kinh
này do hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng dịch:
“Một thời, Đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy
giờ, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo: Như Lai xuất hiện ở đời tất sẽ vì năm việc. Sao
gọi là năm? Một sẽ chuyển Pháp luân, hai sẽ độ cha mẹ, ba người không tin kiến
lập lòng tin, bốn là người chưa phát ý Bồ-tát khiến phát tâm Bồ-tát, năm sẽ thọ
ký cho Phật tương lai. Nếu Như Lai xuất hiện ở đời thì sẽ làm năm việc này. Cho
nên, các Tỷ-kheo hãy khởi tâm từ đối với Như Lai. Các Tỷ-kheo, hãy học điều này
như vậy.”(4)
Tương tự, kinh Tăng nhất A-hàm (EA 24.5) trong
bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức Thắng cũng ghi lời dạy đó:
“Thế Tôn bảo: Như Lai ở đời cần làm năm việc. Sao gọi là năm? Một là chuyển
pháp luân; hai là thuyết pháp cho cha; ba là thuyết pháp cho mẹ; bốn là dẫn dắt
phàm phu lập hạnh Bồ-tát; năm là thọ ký riêng cho Bồ-tát. Này Ca-diếp, đó gọi là
Như Lai xuất hiện ở đời cần làm năm việc như vậy.”(5)
Vị vua trời cũng nhắc tới năm nhân duyên trên, trong đó có lời Đức Phật khuyến
tấn tu hạnh Bồ-tát. Kinh Tăng nhất A-hàm (EA 36.5) bản dịch của hai Thầy
Tuệ Sỹ, Đức Thắng viết:
“Thích Đề-hoàn Nhân bạch Thế Tôn: Như Lai cũng nói, phàm Như Lai xuất thế tất
sẽ vì năm việc. Những gì là năm? Chuyển Pháp luân; độ cha mẹ; người không tin
dựng lòng tin; chưa phát tâm Bồ-tát khiến phát ý Bồ-tát; thọ ký thành Phật trong
khoảng thời gian đó. Như Lai xuất hiện tất sẽ vì năm nhân duyên này. Nay mẹ của
Như Lai tại trời Tam thập tam muốn được nghe Pháp. Như Lai đang ở giữa chúng bốn
bộ trong cõi Diêm-phù-lý, vua và nhân dân đều tập hợp lại. Lành thay, Thế Tôn,
mong Ngài đến trời Tam thập tam mà thuyết Pháp cho mẹ.”(6)
Trong khi nói về hạnh bố thí, Đức Phật dạy cụ thể rằng Bồ-tát phải bố thí như
thế nào, qua kinh Tăng nhất A-hàm (EA 10.5), bản dịch hai Thầy Tuệ Sỹ,
Đức Thắng:
“Thế Tôn bảo: Lành thay, lành thay, Gia chủ. Ông đã bằng tâm Bồ-tát,
chuyên tinh nhất ý mà huệ thí rộng rãi. Thật vậy, chúng sinh nhờ ăn
uống mà được cứu sống, không ăn uống thì liền chết. Này Gia chủ, Ông
sẽ được quả lớn, được tiếng tăm nhiều; được quả báo lớn mà tiếng
đồn thấu mười phương; được pháp vị cam lồ. Vì sao vậy? Vì hàng
Bồ-tát thường đem tâm bình đẳng để bố thí, lúc nào cũng một lòng
mà nhớ nghĩ đến các loài chúng sinh, nhờ ăn uống mà tồn tại, có ăn
uống tức được cứu sống, không ăn uống tức chết. Này Gia chủ, đó là
tâm Bồ-tát ở tại chỗ yên ổn mà bố thí rộng rãi.”(7)
Trong khi đó, cũng nên nhắc tới kinh Trung bộ (MN 34) bản dịch của Thầy
Minh Châu nói về hạnh Bồ-tát, dạy về những cách để làm sao lùa được tất cả bò
qua sông, kể cả “con bò còn nhỏ mới sinh, con bò này nhờ chạy theo con bò mẹ,
vừa chạy, vừa kêu, sau khi lội cắt ngang dòng sông Hằng, cũng qua bờ bên kia một
cách an toàn”… Nghe như lời Đức Phật dạy Phật Tử không nên bỏ rơi bò con, bò
yếu nào cả, mà phải suy tính sao cho lùa hết qua sông. (8)
Ly nhất thiết tướng
Điểm ghi nhớ, tu hạnh Bồ-tát cũng như tất cả các pháp tu đều phải giữ lấy pháp
ấn vô ngã, không bao giờ để cho tâm vướng chút nào vào “tôi, của tôi” (ngã, ngã
sở). Nghĩa là tu mà vẫn thấy là vô tu. Do vậy, truyền thống Thiền tông nói rằng
trong khi tu hạnh Bồ-tát cần phải ngộ nhập Tánh không, để không còn chấp vào có
người tu và có pháp được chứng, không vướng vào tướng có người độ và có người
được độ. Hai kinh quan trọng của Thiền tông chỉ thẳng vào Tánh không, tức bản
yâm, là kinh Kim cang (còn gọi là kinh Kim cương, hay Kim cương
bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh, hay Phật thuyết năng đoạn kim cương
bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh) và Tâm kinh (hay Bát-nhã tâm kinh,
hay Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh). Nội dung là ly tất cả các tướng, tức
là hiển lộ đại định của Tánh không, còn gọi là Vô tướng tam muội.
Chúng ta có thể giải thích về nghĩa Không bằng một số hình ảnh trong Thiền sử.
Thí dụ, một vị thiền sư chỉ vào cái bình, và bảo học trò trả lời. Chỉ vào cái
bình, tức là chỉ vào cái hữu thể (existence), tức là sắc đang hiển lộ. Có
người học trò bước tới, cầm cái bình để qua một bên. Có học trò bước tới, lấy
chân khều ngã cái bình rớt sang chỗ khác. Có học trò lấy cây gậy đập bể cái
bình. Cả ba nhà sư đều có ý trả lời (như Tâm kinh) rằng sắc tức là không (cái
bình dời đi, hay bị bể), nghĩa là có bình hay không-bình vẫn nằm trong ngôi nhà
trống rỗng bao trùm cả sắc-không. Khi cái bình dời đi là cái không (non-existence)
hiển lộ. Nghĩa là, hữu và vô là đối nhau. Nhưng cả hai pháp đó (có, không; hữu,
vô; existence, non-existence) đều nằm trong Tánh không (emptiness) vô
cùng vô tận.
Có thể lấy thí dụ khác: khi một tiếng chim kêu khởi lên và biến mất, được nghe
trong bầu trời tâm, thì cả tiếng và không-tiếng đều nằm trong tánh nghe chưa
từng dao động và chưa từng biến mất. Tương tự, khi một niệm khởi (a thought
appears) và rồi niệm này biến mất (disappears) thì cái niệm và cái
không-niệm đó đều nằm trong bản tâm vốn rỗng lặng chưa từng dao động. Do vậy,
chữ không đối với có vẫn là cái không của nhị nguyên - chứ chưa thực sự là
cái không bao trùm rỗng lặng, vốn xa lìa mọi nhị biên và xa tất cả
các biên nào có thể có.
Trong Thiền sử Việt Nam, có ngài Tông Diễn (1640-1711) từng dạy: “Hữu vô câu bất
lập, nhật cảnh bổn đương bô” (có và không đều không lập, mặt trời trí tuệ sẽ lên
cao). Vì các pháp duyên vào nhau để hiện ra nên gọi là có, nhưng cũng vì duyên
vào nhau nên cũng gọi là không. Với người thấy rõ tánh duyên khởi hiển lộ trong
các pháp, sẽ thấy không cần tranh cãi có/không, đúng/sai nữa.
Cũng như khi mình ngồi trong hý viện xem ca nhạc kịch, lúc đó có khoảng 500
người khách. Tất cả hình ảnh, màu sắc trên sân khấu hiện ra (và liên tục biến
đi) trước mắt tất cả mọi người, tiếng đàn và tiếng ca hiển lộ qua tai (và liên
tục trôi vào vô thường) của tất cả quan khách. Tức là hữu (có hình, có tiếng) và
vô (hình, tiếng liên tục trôi đi) hiển lộ qua thấy nghe hay biết của tất cả mọi
người, và cái tánh thấy nghe hay biết đó là cái Tánh không bao trùm không phải
riêng của khách nào, cũng không gọi được là chung của tất cả vì nhân duyên hiển
lộ với mỗi người khác nhau (và cùng lúc là hiển lộ với bốn tỷ người ngoài sân
khấu). Cũng như mặt trăng (Tánh không, thường hằng, rỗng lặng, giúp thấy nghe
hay biết) chỉ một, nhưng hiện ra cả bốn tỷ mặt trăng khác trên ao, hồ, sông,
rạch, biển, thau chậu… Cho nên mới nói, người ngộ được Tánh không này sẽ không
còn chấp có ta hay chấp có người nữa, vì tất cả là như huyễn. Một thí dụ khác để
chỉ bản tánh hay bản tâm là tánh sáng của gương, hiển lộ tất cả y hệt như mộng,
như huyễn.
Khi nói về Tánh không vĩnh hằng bao trùm cả hữu và vô, có thể chúng ta liên hệ
(phần nào) tới kinh Tạp A-hàm (SA 273), bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ, Đức
Thắng:
“Này Tỷ-kheo, các hành như huyễn, như sóng nắng, trong khoảnh sát-na, tàn
lụi, không thật đến không thật đi. Cho nên Tỷ-kheo, đối với các hành vốn không,
nên biết, nên hoan hỷ, nên suy niệm rằng, trống không là các hành thường tồn,
vĩnh hằng, ổn trụ, pháp không biến dịch; trống không không có ngã, không có ngã
sở. Ví như người mắt sáng tay cầm đèn sáng vào trong nhà trống, xem xét cái nhà
trống ấy. Cũng vậy, Tỷ-kheo, đối với tất cả hành trống không, tâm quán sát, hoan
hỷ, rằng trống không là các hành. Trống không, không ngã và ngã sở, là các pháp
(được coi là) thường tồn, vĩnh hằng, ổn trụ, pháp không biến dịch. Cũng vậy,
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và pháp làm nhân duyên sanh ra ý thức, ba sự hòa
hợp thành xúc, xúc sanh ra thọ, tưởng, tư. Các pháp này vô ngã, vô thường, chi
tiết cho đến không, vô ngã và ngã sở.”(9)
Và từ nơi đây, chúng ta sẽ khảo sát về lời Đức Phật dạy Bồ-tát trong kinh Kim
cang. Bản dùng trích dẫn nơi đây là tác phẩm Kinh Kim cang giảng giải
của Hòa thượng Thích Thanh Từ.(10)
Kinh Kim Cang dạy người tu hạnh Bồ-tát khi độ tất cả chúng sinh phải thấy
được tất cả pháp đều là vô tướng, phải lìa tất cả các tướng có thể được thấy
nghe hay biết như là có ta thật, như là có người thật, như là có chúng sinh
thật, như là có tương tục thọ mạng. (Trích: Phật bảo Tu-bồ-đề: Các vị Bồ-tát lớn
nên như thế mà hàng phục tâm kia. Có tất cả các loài chúng sinh hoặc loài sinh
bằng trứng, hoặc loài sinh bằng thai, hoặc sinh chỗ ẩm ướt, hoặc hóa sinh, hoặc
có hình sắc, hoặc không hình sắc, hoặc có tưởng, hoặc không tưởng, hoặc chẳng có
tưởng chẳng không tưởng, ta đều khiến vào vô dư Niết-bàn mà được diệt độ đó.
Diệt độ như thế vô lượng, vô số, vô biên chúng sinh mà thật không có chúng sinh
được diệt độ. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát còn có tướng ngã, tướng nhân,
tướng chúng sinh, tướng thọ giả tức chẳng phải là Bồ-tát).
Cụ thể vô tướng có nghĩa là, không trụ vào sắc thanh hương vị xúc pháp (Trích:
Lại nữa Tu-bồ-đề, Bồ-tát đối với pháp nên không có chỗ trụ mà làm việc bố thí,
gọi là chẳng trụ nơi sắc để bố thí, chẳng trụ thanh hương vị xúc pháp để bố thí.
Này Tu-bồ-đề, Bồ-tát nên như thế mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng).
Bởi vì, như trường hợp cái bình, muốn thấy pháp vô trụ tướng thì phải lìa cả hai
tướng “có bình” và “không bình” mới thấy ngôi nhà trống bao trùm hai tướng này
(Trích: Phật bảo Tu-bồ-đề: Phàm những gì có tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các
tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai).
Tương tự, như trường hợp niệm khởi và diệt, phải lìa cả hai tướng “niệm khởi” và
“niệm diệt” mới nhận ra bầu trời bản tâm (vốn là vô tướng) bao trùm cả hai tướng
niệm khởi và niệm diệt (Trích: Nếu còn chấp tướng pháp tức còn chấp ngã nhân
chúng sinh thọ giả. Vì cớ sao? Nếu còn chấp tướng phi pháp tức còn chấp ngã nhân
chúng sinh thọ giả. Thế nên không nên chấp pháp, không nên chấp phi pháp. Bởi do
nghĩa ấy, Như Lai thường nói: Tỷ-kheo các ông nên biết, ta nói pháp ví dụ như
chiếc bè, pháp còn nên bỏ, huống là phi pháp).
Pháp này cũng có thể gọi là vô niệm, hay tâm vô trụ. Khi thấy bản tâm vốn rỗng
lặng như thế mới thấy là không có gì để tu, vì không nương vào tướng niệm để tu,
như thế mới đúng là trang nghiêm cõi Phật (Trích: Trang nghiêm cõi Phật tức
không phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm… Các Bồ-tát lớn nên như thế mà
sinh tâm thanh tịnh, không nên trụ nơi sắc sinh tâm, không nên trụ thanh, hương,
vị, xúc, pháp sinh tâm, nên không có chỗ trụ mà sinh tâm kia).
Do vậy, khi Bồ-tát ra sức độ tất cả chúng sinh vẫn không thấy có người độ và
người được độ (Trích: Phật bảo Tu-bồ-đề: Người thiện nam, người thiện nữ phát
tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên sinh tâm như thế này: Ta nên diệt độ tất
cả chúng sinh, diệt độ tất cả chúng sinh rồi mà không có một chúng sinh thật
diệt độ. Vì cớ sao? Tu-bồ-đề, nếu Bồ-tát còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng
sinh, tướng thọ giả ắt không phải là Bồ-tát. Vì cớ sao? Tu-bồ-đề, thật không có
pháp phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác).
Tới đây Đức Phật chỉ vào bản tâm, nơi không hề có một tướng nào để tâm ba thời
vin vào, vì thực tướng vốn vô tướng, và vì đó là cái không bất động bao trùm cả
hữu và vô (Trích: Phật bảo Tu-bồ-đề: Trong các cõi nước đầy dẫy như thế, có tất
cả chúng sinh có bao nhiêu thứ tâm, Như Lai thảy đều biết. Vì cớ sao? Như Lai
nói các tâm đều không phải tâm, ấy gọi là tâm. Vì cớ sao? Này Tu-bồ-đề, tâm quá
khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai không thể được).
Câu hỏi có thể nêu lên, rằng nên quán các pháp thế nào? Đức Phật trong kinh
Kim cang nói lên bài kệ:
“Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng, huyễn, bọt, bóng,
Như sương cũng như điện,
Nên khởi quán như thế.”
Đó là tóm lược vài ý từ kinh Kim cang. Và khi tóm lược, hiển nhiên là
không đầy đủ. Chúng ta có thể nhắc rằng nhà thơ Nguyễn Du đã từng tụng cả ngàn
lần kinh Kim Cang, vẫn thấy lời dạy của Đức Phật ảo diệu khó hiểu, cho
tới khi tới thăm Phân Kinh Thạch Đài mới đột nhiên hiểu ý “kinh không chữ mới là
kinh chân thật…”
Cần ghi nhận rằng, kinh Kim cang và Tâm kinh không chỉ là cốt tủy
của Thiền tông mà còn là của Phật giáo Bắc tông. Truyền thống Phật giáo Nam tông
không thọ trì hai kinh này, vì là kinh hậu tác (sau thời Đức Phật vài trăm năm).
Nhưng thực ra, tinh thần nội dung hai kinh này là thuần túy nằm trong các lời
Đức Phật dạy trong các năm đầu tiên Ngài hoằng pháp.
Nhà sư Nam Tông Bhikkhu Sujato, trưởng ban biên tập SuttaCentral (trang web Phật
học nhiều ngôn ngữ nhất và lớn nhất hiện nay) và cũng là một vị sư dịch Tam tạng
Pāli sang tiếng Anh, nhận định rằng hai kinh này do một số vị sư soạn ra cho
tạng Sanskrit để phá một số kiến chấp của các vị sư A-tỳ-đàm. Chúng ta có thể
đoán rằng trong thời phân chia bộ phái, vài trăm năm sau thời truyền khẩu mới
chép vào chữ Pāli, Sanskrit, Kharosthi (dùng cho tạng Gandhari), và rồi tạng
Sankrit được dịch sang tiếng Tây Tạng, tiếng Trung Hoa… Tinh thần bộ phái có thể
làm các sư gạt bỏ một số kinh này, kinh kia.
Ngài Sujato nói rằng kinh Kim cang và Tâm kinh tuy hậu tác nhưng
mang đúng tinh thần lời Phật dạy trong các năm đầu hoằng pháp, đó là vô-ngã, là
như huyễn, là không có gì để nắm giữ hay trụ vào, và pháp chỉ là chiếc bè qua
sông. Nơi đây, xin phép trích dịch một vài câu từ bài nhận định dài của Bhikkhu
Sujato:
“Kinh Kim cang là một phần trong hệ văn học
Bát-nhã ba-la-mật, một thể loại kinh Đại thừa sáng tác khoảng 500 năm sau
Đức Phật. Trong khi phần nhiều Bát-nhã ba-la-mật rất dài và rườm rà, kinh
Kim cang và Tâm kinh lại ngắn, chiếu sáng cốt tủy triết lý Bát-nhã
ba-la-mật vào một hình thức ngắn và dễ đón nhận, do vậy được ưa chuộng. Về
phương diện lịch sử, hệ Bát-nhã ba-la-mật khởi dậy như đáp ứng đối với và phê
bình đối với hệ A-tỳ-đàm (Abhidharma). Theo nhận định này, các luận sư A-tỳ-đàm
(phần chủ yếu là phái Sarvastivada, tức Nhất thiết hữu bộ) đã lạc mất Chánh
pháp, tự mạn đưa vào kiến thức phân tích và nông cạn của họ, trong khi bỏ mất
đạo vị chân thực của giải thoát và trí tuệ sâu thẳm. Chủ đề chính của Bát-nhã
ba-la-mật là vô ngã. Họ lý luận rằng các luận sư A-tỳ-đàm đã biến Chánh pháp
thành cái được chấp giữ và có cái gì để tự thấy mình đồng hóa vào, chứ không
nhìn như chiếc bè để qua bờ kia.” (The Vajracchedika (Diamond Sutra) is part
of the Parjnaparamita literature, a class of Mahayana Sutra that was composed
around 500 years after the Buddha. While much of the Prajnaparamita is extremely
long and verbose, the Diamond and Heart Sutras are quite short, crystallizing
the essence of the Prajnaparamita philosophy into a brief and palatable form,
hence their popularity. Historically, the Prajnaparamita arose as response to
and critique of the Abhidharma. According to this critique, the Abhidharma
theorists (primarily of the Sarvastivada school) had lost the point of the
Dhamma, priding themselves on their shallow and analytical knowledge, while
missing the true taste of deep wisdom and freedom. The key theme of the
Prajnaparamita is not-self. They argued that the Abhidharma theorists had turned
the Dharma itself into something to be attached to and identified with, rather
than as a raft for crossing over.)(11)
Nơi đây, chúng ta thảo luận về hạnh Bồ-tát nhưng không mang tinh thần bộ phái.
Chủ yếu chỉ khảo sát từ kho tàng Phật học mênh mông để tìm một số lời dạy thực
dụng để tu học cho đúng Chánh pháp. Trong đó, tận cùng vẫn là lời Đức Phật dạy
rằng chớ nên nắm giữ một quan kiến nào, như trong Kinh Tập (Sn 4.3) đã
dẫn ở đầu bài, nằm trong nhóm kinh nhật tụng của chư Tăng trong các năm đầu khi
Đức Phật hoằng pháp: “Bài kệ 787: Làm sao, và về những gì, những kẻ dính vào
tranh cãi về các giáo thuyết có thể tranh cãi với người không dính mắc gì? Không
nắm giữ bất cứ gì, và không bác bỏ bất cứ gì, người ấy rũ bỏ bất kỳ cái nhìn nào
nơi đây.” Cũng có nghĩa là hoàn toàn không thấy một tướng nào khởi lên trong
tâm để nắm giữ lấy.
GHI CHÚ:
(1) Kinh Tập Sn 4.3:
https://thuvienhoasen.org/p15a30596/sn-4-3-dutthatthaka-sutta-kinh-ve-ta-kien
(2) Kinh MN 83:
https://suttacentral.net/mn83/vi/minh_chau
(3) Kinh MA 67:
https://suttacentral.net/ma67/vi/tue_sy
(4) Kinh EA 35.2:
https://suttacentral.net/ea35.2/vi/tue_sy-thang
(5) Kinh EA 24.5:
https://suttacentral.net/ea24.5/vi/tue_sy-thang
(6) Kinh EA 36.5:
https://suttacentral.net/ea36.5/vi/tue_sy-thang
(7) Kinh EA 10.5:
https://suttacentral.net/ea10.5/vi/tue_sy-thang
(8) Kinh MN 34:
https://suttacentral.net/mn34/vi/minh_chau
(9) Kinh SA 273:
https://suttacentral.net/sa273/vi/tue_sy-thang
(10) Kinh Kim cang:
https://thuvienhoasen.org/p17a1843/4/03-dai-thua-chanh-tong
(11) Bhikkhu Sujato: https://discourse.suttacentral.net/t/the-diamond-cutter-sutra/7144/12