Thơ thiền của Nhất Hạnh sau 1975
THƠ THIỀN CỦA NHẤT HẠNH SAU 1975
THƠ THIỀN CỦA NHẤT HẠNH SAU 1975
Dương Phú Quý
Nhất Hạnh là một thiền sư, nhà văn, học giả, nhà văn hóa, nhà cải cách Phật giáo
hiện đại. Hơn bảy mươi năm phụng sự đạo pháp, dân tộc và con người cũng là ngần
ấy thời gian ông có mặt trong đời sống văn học. Trên bình diện một nhà thơ, Nhất
Hạnh đã xuất bản trên mười tập thơ với hàng chục bản dịch ra nhiều thứ tiếng.
“Con đường thoát khổ” (Lòng hung bạo ôi gây bao tai ác/ Trên cõi đời nhục nhã
tới vô biên) là bài thơ đầu tay của tác giả vào năm 12 tuổi.
Nửa cuối thập niên 70 của thế kỷ
hai mươi, thơ Nhất Hạnh đã chuyển từ các khuynh hướng phản kháng và tái hiện
thân phận con người sang khuynh hướng thiền Phật. Sau ngày trung tâm thiền tập
Làng Mai được thành lập (1982), sự chuyển biến ấy càng trở nên rõ rệt. Thơ Nhất
Hạnh sau 1975 có thể coi là một phần của “sự thực hiện đạo Phật đi vào cuộc đời”
mà truyền thống tu học Làng Mai do ông sáng lập hướng đến.
Hai mươi lăm năm sau ngày đất nước thống nhất, ông xuất bản vỏn vẹn một tuyển
tập thơ, song dày dặn với 10 tập thơ. Đó là Tuyển tập thơ Nhất Hạnh
-
Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt
do nhà xuất bản Lá Bối, California, Hoa Kỳ ấn hành năm 1996. Năm trong số mười
tập nêu trên là các sáng tác của ông đã xuất bản trước năm 1975, nay được tái
bản. Các tập còn lại là Dấu chân trên cát, Thơ từng ôm và mặt trời
từng hạt, Tích môn, Bản môn, Nến ngọc và Truyền đăng tục
diệm. Năm 2015,
tuyển
tập này được xuất bản chính thức tại Việt Nam bởi Công ty Sách Phương Nam và
Nhà
xuất bản Hội Nhà
Văn,
Hà Nội.
1. Thơ Nhất Hạnh và sự thực hiện đạo Phật đi vào cuộc đời
Tập thơ Dấu chân trên cát
Dấu chân trên cát
là tập thơ được sáng tác trước nhất trong tuyển tập nêu trên. Ta cũng biết thêm,
Dấu chân trên cát đã đến với bạn đọc ngay khi chưa xuất bản qua tác phẩm
Thử tìm dấu chân trên cát
-
Ghi chép về thơ thầy Nhất Hạnh
của Chơn Không Cao Ngọc Phượng do
Nhà
xuất bản Lá Bối, Châu Âu ấn hành năm 1980.
Phần lớn các sáng tác trong tập này được tác giả viết trong thời gian làm việc
cho Phái đoàn Hòa bình của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
Nhất
(1968
-
1975), điều hành chương trình “Máu chảy ruột mềm” của Hội đồng Tôn giáo Thế giới
(1976 - 1977) và sinh sống tại Phương Vân am.
Hai cảm hứng lớn trong tập thơ là cảm hứng thiền Phật giáo và cảm hứng thế sự.
Nói cách khác, tập thơ có sự hòa quyện giữa chất Đạo và chất Đời. Khuynh hướng
tái hiện thân phận con người vẫn chiếm vị trí quan trọng trong tập thơ. Nhất là
trong các bài viết về thuyền nhân Việt Nam trong thời gian tác giả điều hành
Chương trình “Máu chảy ruột mềm”. Bên cạnh đó, Dấu chân trên cát cũng có
nhiều bài thơ “chỉ là thơ”. Hơn một lần, khi được hỏi về thông điệp trong một
bài thơ của mình, Nhất Hạnh trả lời: “Bài thơ này có nói gì đâu”.
Dấu
chân trên cát
rất thành công với những bài thơ có cảm hứng
thiền
-
Phật. Thơ Phật giáo của Nhất Hạnh sâu sắc nhờ có chiều sâu về tư tưởng. Duy thức
học và tư tưởng Bát-nhã
là những triết thuyết Phật giáo quan trọng mà ta cần trang bị trước khi đi sâu
vào tìm hiểu thơ thiền của Nhất Hạnh.
Theo tinh thần Bát-nhã,
năm yếu tố kết hợp nên con người (năm uẩn), mười tám lĩnh vực của hiện hữu (mười
tám giới), mười hai điều kiện liên hệ với nhau (mười hai nhân duyên), bốn sự
thật (tứ đế)… đều “sắc tức thị không”, không có tự tánh riêng biệt. Không có tự
tánh riêng biệt được hiểu là cái này nương vào cái khác mà có. Do đó, không có
hiện tượng nào tự mình có thể phát sinh và tồn tại, mà phải nhờ những hiện tượng
khác mới có thể hiện hữu.
Sự vật hiện tượng nương vào nhau mà hiện hữu nên được gọi là tương tức
-
có trong nhau, là nhau. Nhiều lần trong tập thơ, Nhất Hạnh nói tới tính tương
tức của các sự vật hiện tượng: “Nắng
là lá cây xanh/
Lá
cây xanh là nắng/
Nắng
chẳng khác lá xanh/
Lá
xanh chẳng khác nắng/
Bao
nhiêu hình sắc kia/
Cũng
đều như vậy cả” (Bát-nhã);
“Tôi
là tôi của đất/
Đất
là đất của tôi/
Tôi
gửi tôi cho đất/
Đất
gửi đất cho tôi” (Những hàng đậu mới).
Dấu chân trên cát
cũng có nhiều bài thơ nói về sự thực tập chánh niệm trong đời sống hàng ngày.
Chánh niệm là ý thức những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại. Chánh niệm là
một phương pháp thiền tập, cũng là một phương pháp trị liệu tâm lý. Qua thơ
mình, Nhất Hạnh hướng dẫn sự thực tập chánh niệm gắn với bước chân và hơi thở: “Qua
ngõ vắng/
Lá
rụng đầy/
Tôi
theo con đường nhỏ/
Đất
hồng như môi son bé thơ/
Bỗng
nhiên/
Tôi
cẩn trọng/
Từng
bước chân đi” (Cẩn trọng); “Cành
lá thì thào/
Rồi
cành lá lặng yên/
Thuyền
tôi cặp bến trăng sao/
Hơi
thở là giây neo/
Tôi
duy trì vũ trụ” (Giây neo). Bước chân và hơi thở là “giây neo”, nối kết “thuyền
tôi” (ý thức) với “bến trăng sao” (thực tại). Khi đó “vũ trụ” (chánh niệm) được
duy trì. Thiền
chánh
niệm là phương pháp thực tập đơn giản nhưng đem lại nhiều kết quả sâu sắc, giúp
mỗi người tự chuyển hóa những khổ đau trong nội tâm.
Sự thực tập
chánh
niệm đưa tới
định.
Nói cách khác,
định
là sự nối dài của
niệm.
Niệm và
định
đưa tới
tuệ
- sự giác ngộ: “Vạn
kiếp xoay quanh vòng mộng mị/
Đêm
nay chợt thấy chân hình” (Ảo hóa), “Sông
xưa thuận nẻo dương trần/
Gió
theo tám hướng, lòng không bận về” (Lòng không bận về).
Trong bài phê bình “Lời Bụt cất lên từ vùng đất đau thương”,
Morgan Gibson cũng đã mượn hai câu thơ mà Nhất Hạnh phác họa chân dung Bồ-tát
Padmani trên vách động Ajanta (Ấn Độ) để mô tả chân dung tác giả: “Bồ-tát
cầm đóa sen/
Dáng
nghiêng trời nghệ thuật” (Padmapani). Thơ cũng là phương tiện Nhất Hạnh dùng bày
tỏ lòng tôn kính Phật: “Dấu
chân của Phật vẫn chưa mòn” (Lanka); “Tịnh
thủy trong bình/
Từ
trên tay
Bồ-tát/
Rót
trên sa mạc/
Thành
biển xanh/
Mông
mênh” (Từ bi quán).
Tập thơ Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt
Thơ từng ôm
và mặt trời từng hạt là những hình ảnh rất đẹp trong thơ Nhất Hạnh. Không
có nhà thơ nào dùng lượng từ “ôm” để định lượng “thơ” và lượng từ “hạt” để định
lượng “mặt trời” như Nhất Hạnh cả. Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt là
tên chung của tuyển tập thơ, tên riêng của tập thơ và cũng là tên của của
một bài thơ trong tập. Bài thơ này đã được Nhất Hạnh chọn bình giảng
trong đêm giao thừa Bính Tuất (2006) tại Làng Mai, Pháp. Mở đầu buổi bình giảng,
ông nói tới giá trị sự có mặt thơ ca:
Thơ đối với tôi là một cái gì rất đẹp, không phải chỉ để tiêu khiển mà còn là
chất liệu nuôi dưỡng. Thơ là không khí cho mình thở, thơ là nắng cho hoa nở, thơ
là trái đào tiên tháng Tám, thơ là những bước chân mình đang đi. Thơ rất cụ thể
và liên đới tương quan với mọi sự, mọi vật.
Là một nhà Phật học, thấy được sự thật Diệt (cũng gọi Lạc: hạnh phúc) trong bốn
sự thật của cuộc đời mà Phật dạy, Nhất Hạnh là nhà thơ biết thưởng thức những gì
mầu nhiệm, thiện, lành và đẹp của cuộc đời. Bằng ngôn ngữ thơ ca, ông đã tái
dựng cái nhìn về cuộc đời đó của mình vào các tác phẩm. Nhiều nhận thức Phật học
khác cũng được ông chuyển tải vào thơ, như giáo lý tương tức trong bài “Hãy gọi
đúng tên tôi”.
Bài “Hãy gọi đúng tên tôi” ban đầu có trong tập Dấu chân trên cát (bản
thảo), được Chơn Không Cao Ngọc Phượng biên tập và viết lời bình trong sách
Thử tìm dấu chân trên cát (California, Lá Bối, 1980). Trên lập trường Bát-nhã,
tác giả thấy mình tương tức với những chúng sinh đang chịu khổ đau và đang gây
khổ đau: “Tôi
là em bé nghèo Ouganda, bao nhiêu xương sườn đều lộ ra, hai bàn chân bằng hai
ống sậy/
Tôi cũng là người chế tạo bom đạn/
Để cung cấp kịp thời cho các dân tộc Á Phi/
Tôi là em bé mười hai bị làm nhục nhảy xuống biển sâu/
Tôi cũng là người hải tặc sinh ra với một trái tim chưa biết nhìn biết cảm.”
Chơn Không Cao Ngọc Phượng nói rõ hơn về lập trường này của tác giả:
Chia ra hai phía thù và bạn để mà tranh đấu, đó chưa phải thực sự là hành động
phát xuất từ đại bi tâm.
[…]
Hành động như thế nào để “không ghét cả những kẻ ác” như kinh
Bát đại nhân giác dạy mới thật là hành động của người Bồ-tát. Kẻ ác kia cũng
cần được cứu độ, cũng nằm trong lĩnh vực hoá độ của Bồ-tát.
Mỗi một cái tên chỉ nhốt được một mảnh vụn của sự sống. Gọi đúng tên tôi thì tất
cả đều lên tiếng một lần. Chỉ có sự thức tỉnh mới mở được cánh cửa của đại bi
tâm.
Tinh
thần tương tức
-
thấy các sự vật hiện tượng có trong nhau, là nhau cũng thể hiện rõ nét trong bài
“Phổ nhập”: “Trước
khi mặt trời đi vào trong tôi/
Tôi đã có mặt trời/
Tôi đã có đám mây và dòng suối/
Trước khi tôi đi vào dòng suối/
Dòng suối đã có sẵn tôi/
Chúng ta không lúc nào không tương tức”.
Ở
bài thơ này, tác giả thấy mình và các sự vật hiện tượng như mặt trời, đám mây,
dòng suối… có trong nhau. Vì mọi sự vật hiện tượng đều tương tức nên “Chừng
nào em còn thở/
Thì em đừng bảo là tôi không có trong em”.
Áp dụng triết lý này vào cuộc sống, tác giả chiêm nghiệm: “Anh
nuôi dưỡng đóa hoa trong tim anh/
Để cho tôi xinh đẹp/
Tôi chuyển hóa rác phiền não trong tôi/
Để cho anh không phải nhọc nhằn.”
Có thể thấy, cái hay của thơ Nhất Hạnh là chuyển tải được những giáo
lý Phật học bằng một ngôn ngữ thơ ca bình dị, dễ hiểu, thiết thực trong đời sống
hàng ngày. Hai từ ngữ xuất hiện với mật độ lớn trong Thơ từng ôm và mặt trời
từng hạt là các từ “thương yêu” và “mầu nhiệm”: “Chắp tay em cám ơn đời mầu
nhiệm”, “Tía tô rau húng rau ngò mầu nhiệm” (Ý thức em mặt trời tỏ rạng), “Em
là hành tinh xanh/
Hiển nhiên và mầu nhiệm/
Nhưng rất đỗi mong manh”
(An tịnh tâm hành).
Ý thức mầu nhiệm trong thơ Nhất Hạnh đánh vỡ quan niệm sai lầm của
một bộ phận quần chúng về đạo Phật. Phật giáo không phải là một tôn giáo nhấn
mạnh đến những nỗi khổ niềm đau mà trái lại, chú trọng đến những mầu nhiệm
-
Cái Đẹp của cuộc đời. Mở đầu tác phẩm Muốn an được an, xác định lập
trường ấy, Nhất Hạnh viết:
Cuộc sống có rất nhiều khổ đau nhưng cuộc sống cũng tràn đầy những mầu nhiệm như
trời xanh, mây trắng, nắng ấm, ánh mắt trẻ thơ... Cuộc sống không chỉ có khổ
đau, do đó, chúng ta phải biết tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống. Bất cứ
lúc nào, những mầu nhiệm ấy cũng có mặt khắp nơi trong ta và chung quanh ta.
Thương
yêu là một biểu hiện mầu nhiệm của sự sống. Thấy đời mầu nhiệm khiến ta mở lòng
ra để thương yêu. Với trái tim thương yêu, ta một lần nữa nhận thức sâu sắc
những mầu nhiệm của cuộc đời. Bên cạnh những câu thơ “cám ơn đời mầu nhiệm”, thơ
Nhất Hạnh nhiều lần ca ngợi tình thương yêu: “Tình thương không bao giờ nói rằng
đây là lần cuối” (Địa xúc), “Thơ nơi từng nắp hộp kín đáo nuôi tình thương” (Thơ
từng ôm và mặt trời từng hạt), “Thế
Tôn là tình yêu đầu/
Thế Tôn là tình yêu tinh khôi/
Nghĩa là không bao giờ/
Sẽ cần tình yêu cuối”
(Tìm nhau).
Nhất Hạnh cũng kêu gọi “hãy đi tìm người thương” trong bài “Đi vòng quanh”. Với
Nhất Hạnh: “Tình
thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con trẻ
thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình thương thì cũng
không lớn lên được. Cằn cỗi, héo mòn.”
Thơ ông xuất phát từ tình thương, kêu gọi tình thương. Thương yêu trong thơ Nhất
Hạnh là biểu hiện của giá trị nhân văn sâu sắc.
Các quan niệm Phật học khác cũng được Nhất Hạnh đưa vào thơ là vô thường, vô ngã
và luân hồi.
Trên lập trường Bát-nhã
và tinh thần tương tức, ông nhận định “Khổ
đau là chất liệu/ Làm ra hạnh phúc” (Chấm dứt luân hồi). Nhà thơ không có ý niệm
phân biệt “luân hồi” và “chấm dứt luân hồi”, bởi vì “Chấm dứt luân hồi, luân hồi
sẽ xảy ra./ -Vậy thì chấm dứt làm gì?” (Chấm dứt luân hồi). Theo Nhất Hạnh, đạt
đạo không có nghĩa là chấm dứt luân hồi mà là sự luân hồi của hạnh phúc. Theo
đó, chấm dứt luân hồi là chuyển hóa khổ đau, làm ra hạnh phúc: “-
Nếu khổ đau hết luân hồi/
Thì hạnh phúc sẽ lên đường đi luân hồi”
“Tại
sao anh muốn chấm dứt luân hồi/
Khi kẻ đi luân hồi là hạnh phúc?”
(Chấm dứt luân hồi)
Có luân hồi, phải chăng cần có chủ thể của sự luân hồi? Không chấp
nhận điều đó, Nhất Hạnh nhiều lần khẳng định “Không có ngã nhưng có luân hồi”.
Trước câu hỏi “Nếu không có ngã/ Thì ai sẽ đi luân hồi?” (Ngắm trăng), Nhất Hạnh
trả lời “Ngã
tuy rằng không có/
Nhưng ngã chấp còn kia/
Luân hồi tuy không/
Nhưng ý niệm luân hồi vẫn có.”
Đám mây không có ngã, nhưng vẫn luân hồi thành mưa, suối, sông… là ví dụ Nhất
Hạnh thường lấy để chứng minh cho quan điểm “không có ngã nhưng có luân hồi”.
Vô ngã và vô thường là hai sự thật của cuộc đời, như lời dạy của Đức
Phật. Vô thường là tính chất luôn thay đổi của các sự vật hiện tượng. Vì vô
thường và vô ngã: “Mắt em không thể thực sự còn là mắt em”, “Tôi
thấy mắt em quả thực được làm bằng sáu đại,/
Này địa, này thủy/
Này hỏa, này phong/
Này không, này thức/
Sáu đại ấy cũng vô cùng mầu nhiệm như đôi mắt em”
(Chân tình). Trong thơ Nhất Hạnh, ý thức về vô thường và vô ngã trở thành động
lực của thương yêu đích thực: “Biết
mắt em vô thường/
Tôi chiêm ngưỡng mà không cần muốn nó là của tôi”
(Chân tình).
Dấu chân trên cát và Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt
đều là những tập thơ có sự kết hợp hài hòa giữa chất Đạo và chất Đời, như để
chứng minh rằng “sự thực tập chánh niệm” (đạo) chỉ có thể được thực hiện trong
“đời sống hàng ngày” (đời). Nhiều bài trong hai tập thơ đã được phổ nhạc thành
những bài thiền ca, làm phương tiện cho sự thực tập và tu học đạo Phật thiền
chánh niệm.
2. Tinh thần
thiền
chánh
niệm trong ba tập thơ thiền của Nhất Hạnh
Nhất Hạnh có ba tập thơ thiền thuần túy là Tích môn, Bản môn,
Truyền đăng tục diệm và Nến ngọc. Cả ba tập thơ là sự kế thừa của các
thể loại văn học Phật giáo trung đại như thi kệ, thơ thiền, kệ truyền đăng, sám
và tán.
Tập thơ Tích môn, Bản môn
Tích môn và Bản môn là hai hình tượng lý thuyết Phật giáo. Từ
điển Làng Mai 2009 định nghĩa về khái niệm Bản môn trong mối tương quan với
Tích môn:
Bản môn (thuật ngữ):
Thế giới bản thể, không sinh, không diệt, không đến, không đi, không còn, không
mất, không một, không khác, vượt thoát giới hạn thời gian và không gian. Đồng
nghĩa với vô sinh. Bản môn được dịch ra tiếng Anh là The Ultimate Dimension, đối
lại với tích môn là The Historical Dimension. Thế giới tích môn là thế giới hiện
tượng được nhận thức qua khung thời gian và không gian. Tích môn được ví dụ với
sóng, bản môn được ví dụ với nước. Sóng là sóng nhưng sóng đồng thời cũng là
nước. Sóng có lên, có xuống, có sinh, có diệt, có có, có không, có cao, có thấp,
nhưng nước thì không. Vì sóng cũng là nước cho nên tiếp xúc sâu sắc với sóng là
tiếp xúc được với nước. Tiếp xúc sâu sắc với tích môn thì cũng tiếp xúc được với
bản môn. Thực tập thiền là thực tập sống sâu sắc để có thể tiếp xúc sâu sắc với
thế giới tích môn, để có cơ duyên tiếp xúc với thế giới bản môn.
Ví dụ về sóng như là Tích môn, nước như là Bản môn trong định nghĩa nêu trên
cũng có mặt trong tác phẩm Đường xưa mây trắng:
Sóng dường như có còn mất sinh diệt mà nước không hề có còn mất sinh diệt, và
nếu sóng tự biết mình là nước thì sóng có thể vượt ra ngoài sự sinh diệt còn
mất, đạt tới tâm trạng an ổn và đập tan mọi niềm sợ hãi.
Về bản chất thể loại, các bài trong tập Tích môn, Bản môn đều là những
bài thi kệ - một thể loại cổ điển của văn học Phật giáo. Đó là các bài thơ ngắn,
năm chữ, thường là bốn câu. Cần phân biệt hai thể loại văn học Phật giáo thi kệ
và kệ. Kệ là những bài kinh/ câu kinh ngắn, không vần (Kinh Pháp cú
-
Dhammapada là một tác phẩm của thể
loại kệ điển hình). Thi kệ là kệ được thi hóa.
Giáo lý Tích môn
-
Bản môn được tác giả thi hóa thành các bài thực tập chánh niệm trong đời sống
hàng ngày. Tinh thần thực dụng đó của tập thơ được thể hiện qua tên gọi của các
bài thi kệ, vốn là những lao tác thường nhật: “Nhổ cỏ”, “Quét lá”, “Rửa bát”,
“Ăn cơm”, “Đổ rác”, “Đốt lò”, “Mặc áo”, “Đi tiểu”, “Tưới cây”, “Khâu áo”…
Thực tập chánh niệm cũng có vai trò như một phương pháp trị liệu tâm lý. Trong
tập thơ, tinh thần đó thể
hiện
qua các bài “Giận nhau” và “Cô đơn”:
Giận nhau trong tích môn/
Thở nhìn bản môn cười/
Trò ghét thương đắp đổi/
Sông nước cứ đầy vơi”
(Giận nhau), “Cô
đơn trong tích môn/
Hãy ôm niềm hờn tủi/
Ru nhẹ lời ca dao/
Tuyết hoa rơi đầy núi
(Cô đơn).
Xuyên suốt tập thơ, tinh thần tương tức được thể hiện sâu sắc. Tích môn và Bản
môn tương tức cũng như sự tương tức của các cặp đối lập: ta và người, bát dơ và
bát sạch, nghe và nói, rác và hoa…
Tập thơ Nến ngọc
Trong hai ấn bản 1996 và 2015 của tuyển tập Thơ từng ôm và mặt
trời từng hạt, tập thơ Nến ngọc có sự chênh lệch dung lượng lớn. Ở ấn
bản đầu, tập thơ có 83 bài. Sau lần tái bản, tập thơ được biên tập chỉ còn lại
11 bài. 68/72 bài được lược
bỏ qua lần biên tập thứ hai vốn dĩ là các “thi kệ thực tập chánh niệm”, được in
lần đầu trong tác phẩm Từng bước nở hoa sen
-
thi kệ nhật dụng của
Nhất Hạnh (Lá Bối, Châu Âu, 1985). Những thi kệ ấy cũng được sửa chữa, bổ sung
và in lại trong các tác phẩm của Nhất Hạnh và
đạo
tràng Làng Mai như: Thiền tập cho người bận rộn, Bước tới thảnh thơi,
Nhật tụng thiền môn…
Những thi kệ nêu trên là các bài thực tập có giá trị thiết yếu trong
đời sống và trong sự thực tập Phật giáo. Các bài thi kệ này được tác giả biên
tập lại từ tác phẩm Tỳ-ni
nhật
dụng
thiết
yếu
của
Thiền
sư Độc Thể. Văn bản của tác phẩm có thể tìm thấy trong các kinh điển Phật giáo
truyền thống như Kinh Nhật tụng. Phần sáng tạo của Nhất Hạnh trong sự
biên tập lại tác phẩm là rất lớn. Ông nói tới giá trị của của tác phẩm Tỳ-ni
nhật
dụng
thiết
yếu
“hiện đại” này:
Các bài thi kệ mới đã thừa hưởng được tinh thần và đường hướng của các bài kệ
cũ. Thêm vào đó, những thi kệ dưới tay bạn có tính cách thực dụng hơn, cụ thể
hơn, hiện đại hơn và đem lại cho ta nhiều niềm vui khi ta thực tập. Những bài
thi kệ mới vừa là chánh niệm vừa là thi ca, rất thích hợp với truyền thống
Thiền.
Sách này có thể vừa được dùng trong thiền môn để thay thế cuốn Tỳ-ni nhật dụng
thiết yếu vừa được dùng trong cuộc sống hàng ngày ngoài xã hội.
Các bài thơ khác tuy không phải là “thi kệ thực tập chánh niệm” cũng được lược
bỏ trong lần tái bản (2015) là: “Quy nguyện”, “Sám nguyện”, “Chuyển hóa”, “Quay
về nương tựa”, “Đã về, đã tới” và “Kinh cầu nguyện hòa bình”. Đây là những bài
thơ gần với thể loại sám của văn học Phật giáo Việt Nam và Trung Quốc. Sám là
thể loại văn học Phật giáo được sáng tác bởi các Phật tử, sử dụng trong đọc
tụng, thường được đặt trước hay sau phần Chánh kinh (kinh do Phật nói) để ca
ngợi bản kinh hoặc truyền tải các thông điệp Phật giáo. Trong lịch sử văn học
Phật giáo Việt Nam và Trung Quốc, “thi kệ nhật dụng” và các bài sám thường không
được đề tên tác giả. Nó được coi như là sản phẩm của trí tuệ tập thể. Vì lý do
đó, sự biên tập loại bỏ các bài nêu trên của tập Nến ngọc là điều dễ
hiểu.
Trong Nến ngọc, “Viên ngọc kinh Pháp hoa” là bài thơ lấy cảm hứng từ
“Phẩm 4. Tín giải” của
kinh
Diệu pháp
liên
hoa,
nói về câu chuyện của Cùng Tử: “Này
người giàu sang bậc nhất/
Tha phương cầu thực xưa nay/
Hãy thôi làm thân cùng tử/
Về đi, tiếp nhận gia tài”.
“Tự do” (bài thơ tự do duy nhất trong tập) nói về tâm trạng của người đạt đạo:
“Tôi
là sự sống thênh thang/
Tôi chưa bao giờ từng sinh mà cũng chưa bao giờ từng diệt”.
Bên cạnh đó, các bài “Hương quỳnh”, “Bảo tích”, “Chân ý”, “Uy nghi”, “Đầu núi”,
“Cánh từ bi” có thể xem là những bài thơ thiền theo khuynh hướng cổ điển đích
thực: “Trời
khuya còn tịch tĩnh/
Vũ trụ ngát hương quỳnh/
Sao Mai vừa mới hiện/
Anh Vũ gọi bình minh”
(Hương quỳnh), “Tìm
ra được lối cũ/
Trong rừng thiêng vắng người/
Dẫn về kho Bảo Tích/
Thỏa tình ta rong chơi”
(Bảo tích), “Bụt
hiện hoa hàm tiếu/
Pháp ca dòng suối trong/
Ta-bà thành tịnh độ/
Đầu núi áng mây hồng”
(Đầu núi).
Tập thơ Truyền đăng tục diệm
“Truyền đăng” là một nghi thức truyền thống của Phật giáo Việt Nam và Trung
Quốc. Truyền đăng (trao đèn) được hiểu là trao truyền ngọn đèn mang ánh sáng của
Chánh
pháp. Truyền đăng là để tục diệm (giữ lửa)
-
tiếp nối và giữ gìn mạng mạch của
Chánh
pháp. Trong một buổi lễ truyền đăng, người nhận đèn cũng được nhận từ vị trao
đèn một bài kệ, gọi là “phú pháp truyền đăng”. Các bài “phú pháp truyền đăng”
cũng được văn học sử Phật giáo Việt Nam và Trung Quốc ghi nhận qua các tác phẩm:
Truyền đăng lục, Cảnh Đức
truyền
đăng lục
và Đại Nam Thiền uyển Truyền đăng lục.
Các bài thi kệ “phú pháp truyền đăng” của Nhất Hạnh có thể coi là tiếp nối của
lịch sử truyền thừa môn phái Tổ đình Từ Hiếu, nơi ông xuất gia. Dưới đây là bài
kệ “phú pháp truyền đăng” mà Nhất Hạnh (Phùng Xuân) đã nhận từ vị thầy của mình
(Thiền
sư Thanh Quý Chân Thật): “Nhất
hướng Phùng Xuân đắc kiện hành/
Hành đương vô niệm diệc vô tranh/
Tâm đăng nhược chiếu kỳ nguyên thể/
Diệu pháp Đông Tây khả tự thành.”
Nhất
Hạnh dịch như sau: “Đi
gặp mùa xuân, bước kiện hành/
Đi trong vô niệm với vô tranh/
Đèn tâm soi chiếu vào nguyên thể/
Diệu pháp Đông Tây ắt tự thành.”
Pháp danh khi còn là một chú tiểu của tác giả - Phùng Xuân (gặp mùa xuân) có mặt
trong câu đầu của bài kệ phú pháp trên.
Trong
giới hạn của bài viết, chúng tôi chỉ xin nêu vài nét về tập Truyền đăng tục
diệm như trên chứ không dành thời gian trích dẫn và phân tích gần 450 bài
thi kệ trong tác phẩm.
KẾT
LUẬN
Sau 1975, thơ Nhất Hạnh có thể coi là một hiện tượng đặc biệt của văn học Việt
Nam. Hình thành ở hải ngoại song hiện tượng này độc lập tương đối với cả văn học
trong nước và văn học người Việt Nam ở nước ngoài. Sau ngày đất nước thống nhất
và nhất là từ khi Trung tâm Thiền tập Làng Mai được thành lập, Nhất Hạnh dành
nhiều thời gian cho việc hướng dẫn khóa tu, đào tạo xuất sĩ và cư sĩ, kiến thiết
các cơ sở Phật giáo và tổ chức các chương trình tu học, bên cạnh việc sáng tác.
Chiến tranh chấm dứt, không còn dành thời gian vận động cho hòa bình Việt Nam
như trước năm 1975, Nhất Hạnh trở về tu viện, hướng dẫn mọi người tìm kiếm hòa
bình trong chính nội tâm mình. Sáng tác Phật học và văn học của Nhất Hạnh sau
1975 cũng không ngoài sứ mệnh “đem đạo Phật đi vào cuộc đời” ấy.
Triết lý Phật giáo có nhiều lĩnh vực phức tạp và khó hiểu, đòi hỏi một sự học
hỏi kiên trì và sâu sắc. Nhất Hạnh là một thiền sư, cũng là một thi sĩ. Trong
các sáng tác Phật học và văn học của mình, ông đã diễn ngôn các lý thuyết ấy một
cách đơn giản, dễ hiểu bằng những hình tượng và ngôn ngữ đời thường. Qua các tập
thơ: Dấu chân trên cát và Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt,
nhiều
học thuyết
Phật giáo như vô thường, vô ngã, luân hồi, tương tức, tứ đế, chánh niệm... đã
được ông trình bày bằng một ngôn ngữ thơ ca vừa sinh động, vừa gần gũi. Chất Đạo
và chất Đời hòa quyện, triết lý Phật giáo trong thơ Nhất Hạnh không chỉ là những
lý thuyết sách vở. Trái lại, đó là những kim chỉ nam cho sự thực tập chánh niệm
trong đời sống hàng ngày, nền tảng của sự xây dựng hạnh phúc và thương yêu đích
thực. Các tập Tích môn, Bản môn, Nến ngọc, Truyền đăng tục diệm
cũng đã kế thừa những thể loại văn học Phật giáo cổ điển, cùng với những
sáng tạo và hiện đại hóa của tác giả, trở thành những tập thơ thiền đích thực.