Lắng nghe bờ bên kia
lang nghe
LẮNG NGHE BỜ
BÊN KIA
Nguyên Giác
Nhan
đề bài viết -- Lắng Nghe Bờ
Bên Kia -- là một cách viết thơ mộng, dựa theo Kinh
Lăng Nghiêm, và cũng mượn ẩn
dụ Đức
Phật thường nói, rằng hãy nương vào bè pháp để vượt
qua dòng sông sinh
tử. Bè pháp là Bát
Chánh Đạo, dòng sông sinh
tử còn gọi là bể khổ. Thấy khổ nơi cõi này là dễ, nhưng thấy thân
tâm mình đang bị khổ tan hoại thường
trực gặm
nhấm là khó. Sinh già bệnh chết là khổ. Chiến tranh, nghèo
khó, đại dịch, bão lụt là khổ. Phải có kinh
nghiệm sâu thẳm về khổ, không phải là chữ
nghĩa trừu
tượng, không phải là suy
luận mơ
hồ, mà là cái gì rất thực y hệt như khắp trời sương mù đang ngấm ướt toàn
thân, mới biết sợ để tinh
tấn lo tu. Bài viết này, phần lớn, sẽ nhìn từ Kinh
Lăng Nghiêm, tập trung vào pháp viên
thông; viên là tròn đầy, thông là không ngăn ngại. Người viết không có thẩm
quyền nào; sai sót tất nhiên sẽ có, xin được sám
hối với Tam
Bảo.
Thực tế, không dễ có duyên lành tu
học, vì cõi này quá nhiều ràng
buộc. Cứ nhìn quanh là cũng thấy. Nhiều người trong ngày phải làm hai
việc ở hai nơi, hết việc này xong là chạy sang việc kia, tới cuối tháng là phải
lo tiền gửi về cho ba mẹ, anh em ở quê
nhà; do vậy, cũng không còn bao nhiêu thì
giờ đi
chùa, dự khóa tu, hay đọc
kinh sách. Giới trẻ cũng bận theo cách khác, mất 1/3 cuộc
đời để học ngày học đêm, ra trường
lại ganh
đua tìm sự
nghiệp, trong khi tiếng Việt thì kém, không mấy cơ
duyên thân cận với tăng
ni để học pháp. Nhưng không lo tu
học thì biết tới bao giờ giải
thoát. Thấy vậy, phải luôn luôn nhớ lời
Phật dạy là phải tinh
tấn y hệt như lửa cháy trên đầu.
Thêm nữa, tu giải
thoát là khó, không dễ. Nhưng đã có duyên lành tin Phật, tin Pháp, tin
Tăng, nếu kiếp này không tinh
tấn tu
học thì kiếp
sau đã chắc gì được thân người. Đức
Phật đã cảnh
giác trong Kinh MN 41 rằng chúng
sinh sau khi từ trần sẽ có người đọa xuống cõi dữ, và có người sinh lên
cõi lành, trích bản dịch của Thầy Minh
Châu: “...một số loài hữu
tình, sau khi thân hoại mạng
chung phải sanh vào cõi dữ, ác
thú, đọa xứ, địa
ngục... một số loài hữu
tình sau khi thân hoại mạng
chung được sanh vào thiện
thú, Thiên
giới, đời này...” (1)
Câu hỏi là, có thể tìm một pháp tu nào đơn
giản, thích
hợp với những người rất mực bận rộn, hoàn
toàn không có thì
giờ để hàng ngày tụng
kinh hay ngồi thiền? Đức
Phật có dạy pháp tu nào thích
nghi cho những người hàng ngày làm việc không nghỉ, về nhà là mệt tới mức
lăn ra ngủ? Không thể trả
lời đơn
giản là có hay không. Vì bước
đầu tiên tu là cần
phải học nhiều, phải đọc nhiều, và phải có một số kinh
nghiệm thực
chứng mới có được niềm
tin bất
động vào Đức
Phật.
Trong Kinh AN 10.64, qua bản dịch Thầy Minh
Châu, Đức
Phật dạy rằng chỉ cần niềm
tin kiên
cố, niềm
tin bất
động vào Đức
Phật là được vào dòng Pháp, ít
nhất là chứng
quả Nhập
lưu, tức là 7 lần trở
về cõi này tu
học nữa là hoàn
toàn giải
thoát, trích:
"Này các Tỷ-kheo, những
ai có lòng tịnh
tín bất
động ở nơi Ta, tất cả những vị ấy là những bậc Dự
lưu. Với những bậc Dự
lưu ấy, năm hạng người đạt
được cứu
cánh ngay ở nơi đây. Năm hạng người, sau khi từ
bỏ đời này, đạt
được cứu
cánh. Và năm hạng người nào, đạt
được cứu
cánh, ngay ở nơi đây? Hạng trở lui nhiều nhất là bảy lần (Thất lai)..." (2)
Bản kinh vừa dẫn nên hiểu
ngầm rằng, những vị đó là đã quy
y và thọ ngũ
giới, và niềm
tin dẫn tới thánh
quả Thất Lai (còn gọi là: Tư Đà Hoàn, Nhập
Lưu) phải là niềm
tin bất
động vào Phật, Pháp, Tăng. Nghĩa là, song song niềm
tin là giữ ngũ
giới (không giết, không tà
hạnh, không trộm, không nói
dối, không rượu hay chất gây nghiện). Có vài chục kinh nói rõ 4 chi
phần như thế: chỉ cần kiên
cố tin Phật, tin Pháp, tin Tăng và giữ
giới là đắc
quả Thất Lai. Xin đọc lời giới
thiệu tiếng Anh nơi nhóm 10 kinh SN 55.1-55.10 ở link số (3).
Làm thế nào để tin Phật, tin Pháp, tin Tăng? Phải tin bất
động, tin kiên
cố, tin
chắc thật, chứ không phải tin sơ
sơ, tin lờ
mờ. Muốn tin như thế, phải đọc
kinh nhiều, phải lên mạng YouTube nghe giảng
kinh sách (dù vậy, không phải thầy nào cũng giảng đúng ý Phật). Còn giữ
giới nữa, làm sao giữ cho toàn
vẹn thật là khó. Trong thân
khẩu ý, chúng
ta có thể giữ thân và lời
nói cho trong
sạch tương
đối dễ, nhưng các ý
niệm đột
khởi trong tâm sẽ cần nhiều năm mới thuần
thục. Bởi vì, mở TV lên xem phim, hay vào YouTube nghe nhạc hay xem đủ
thứ chuyện trên thế
giới, dễ có cơ nguy bị cuốn trôi theo vui
buồn hờn
giận từ các nhân vật và tình tiết trong thế
giới ảo.
Như thế, nghĩa là, đối với hai thánh
quả đầu tiên, không cần
phải hàng ngày tụng
kinh hay ngồi
Thiền: để đắc
quả Tu
Đà Hoàn, cần tịnh
tín bất
động với Tam
Bảo và giữ ngũ
giới; để đắc
quả Tư
Đà Hàm, cũng như thế, thêm một điều là cần làm mỏng bớt tham, sân. Đặc
biệt có Kinh SN 55.53 kể rằng cư
sĩ Dhammadinna cùng với 500 cư
sĩ tới gặp Đức
Phật tại vườn
nai gần Benares, khi nhóm cư
sĩ này nói rằng họ có niềm
tin bất
động và Phật, Pháp, Tăng và có giữ ngũ
giới, Đức
Phật nói rằng cư
sĩ Dhammadinna cùng với 500 cư
sĩ đó đều đã đắc
quả Tu
Đà Hoàn. Do vậy, niềm
tin và giới
hạnh có sức
mạnh như thế.
Thoạt nghe
tin Phật, tin Pháp, tin Tăng là đơn
giản, nhưng nghĩ kỹ thì rất mực gian
nan. Cũng cần
phải nắm vững giáo
lý. Nếu tin rằng Đức
Phật là một dạng ông Trời, ông Tiên hay như ông Bụt kiểu truyện cổ
tích Việt
Nam thì sẽ hỏng. Còn tin Pháp cho đúng cũng cần
phải có chánh
kiến. Vì Pháp
không phải là chuyện trên
trời hay dưới
đất, không phải chuyện hôm qua hay ngày sau, mà Pháp là ngay trước
mắt, ngay bên tai, và ngay trong những gì chúng
ta hít thở và thâm cảm. Do vậy, muốn tin Pháp kiên
cố cũng cần trải
qua một số kinh
nghiệm thực
chứng, nếu
không thì chỉ là tin lờ
mờ, tin qua loa thì chỉ được phước hữu
lậu và sẽ chẳng đi xa tới đâu.
__ () __
Kinh MN 7 giải
thích về lòng
tin kiên
cố với Pháp: "Vị ấy thành
tựu lòng
tin tuyệt
đối đối với Pháp: Pháp được Thế
Tôn khéo thuyết
giảng, thiết
thực hiện
tại, không có thời
gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng
thượng, được người có trí
chứng hiểu." (4)
Trong lòng
tin vào Pháp, nhóm chữ "thiết
thực hiện
tại, không có thời
gian" nơi các bản dịch tiếng Anh như sau:
-- Horner dịch: self-realised, it is timeless (tự thực
chứng, phi
thời gian).
-- Bodhi dịch: visible here and now,
immediately effective (thấy ngay ở đây và bây giờ, hiệu
quả tức khắc).
-- Sujato dịch: visible in this very
life, immediately effective (thấy ngay lúc này, hiệu
quả tức khắc).
-- Nyanaponika dịch: realizable here
and now, possessed of immediate result (thực
chứng nơi đây và bây giờ, có kết quả tức khắc).
Chúng ta thấy 2 cách dịch khác nhau: hai ngài Minh
Châu và Horner dịch là “phi
thời gian” trong khi ba ngài Bodhi, Sujato, Nyanaponika dịch là “ngay
đây, tức là còn trong thời
gian”… Như thế, các vị đã dịch bất đồng nhau. Chính ngay chữ “không
có thời gian” (timeless) cho một ý
nghĩa khác hơn chữ “hiệu quả tức khắc” (immediately
effective) vì cái phi
thời gian là cốt tủy của Kinh Kim
Cương, rằng Kinh Kim
Cương viết: "...không nên trụ
nơi sắc sanh tâm, không nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không
có chỗ trụ mà sanh tâm kia..." Phi
thời gian là pháp viên
thông, vì không còn có thể dựa
vào đâu để suy lường.
Tại sao nói câu vừa dẫn của Kinh Kim
Cương là
cốt tủy của Pháp, của cái phi
thời gian? Bởi vì tất cả những gì được thấy (sắc), được nghe
(thanh), được ngửi (hương), được nếm (vị), được sờ chạm (xúc), được ý
thức tư lường (pháp) đều nằm trong thời
gian. Nhưng Pháp là phi
thời gian, vì Pháp
chính là giải
thoát, là Niết
Bàn. Vì chúng
ta đang sống trong cõi của thời
gian, sẽ rất gian
nan để thực
chứng, dù trong khoảnh khắc, được cái phi
thời gian của Pháp.
Có thể thí
dụ thế này: chúng
ta lấy tờ giấy ra làm toán cộng, đó là chú
tâm vào hiện
tại với những cái được thấy (bài toán trên giấy) và những gì được tư
lường (gợi nhớ lại ký ức về toán cộng, tư lường về kết quả, phân
biệt đúng/sai, sợ không đủ điểm để thi đậu…). Đó là tâm của hiện
tại, ngay cả khi chánh
niệm tỉnh
giác với hiện
tại như thế cũng là còn trong
vòng thời
gian (của cái sợ, cái lo
lắng, cái ước muốn), chưa chạm tới cái phi
thời gian. Vậy
thì, làm sao sống được với tâm vượt thời
gian, lìa cả ba thời quá, hiện, vị lai? Trong khi đó, hễ còn nghĩ
ngợi tư lường là còn trong
vòng ký ức, còn trong thời
gian. Nhưng không nghĩ
ngợi tư lường là mất một công cụ của trạch
pháp, của nhận
biết đúng với sai.
Trong khi đó, cái tâm vượt ngoài thời
gian đó (tức là xa
lìa cả sắc
thanh hương vị xúc pháp, trong cả ba thời) từng được Đức
Phật nói trong Kinh Sn 5.11 rằng: “1099.
Hãy để khô héo tất cả những gì của quá
khứ, và chớ hề có chút gì dính tới tương lai. Nếu con không nắm giữ gì
trong chặng giữa (hiện
tại), con sẽ sống trong bình
an." (5)
Thiền Trúc
Lâm của ngài Trần
Nhân Tông dạy cách
sống với tâm vô
tâm (vô
tâm đối cảnh hỏi chi Thiền), và đây là tâm vượt thời
gian vì không dính gì với cảnh (cả nội xứ và ngoại xứ -- tức xa
lìa sắc
thanh hương vị xúc pháp). Cũng ngài Trần
Nhân Tông nói kệ: “Tất cả pháp
chẳng sanh / Tất cả pháp chẳng diệt / Nếu hay hiểu như thế / Chư Phật thường hiện
tiền.” Đó là đi đứng nằm ngồi trong tánh
Không chiếu diệu, tức là bản
tánh của gương tâm, lúc đó thấy nghe hay biết sẽ không vướng chút gì nơi
tất cả ảnh
hiện. Nơi đó, ảnh
hiện (sắc
thanh hương vị xúc pháp) nhưng tánh của gương tâm (rỗng rang và chiếu
sáng) vẫn lìa sanh
diệt, tức là phi
thời gian, là timeless. Tức là, phải ngộ trước, rồi mới tiệm
tu.
Do vậy, muốn tin Pháp kiên
cố, tin bất
động, tin tuyệt
đối là phải có một vài kinh
nghiệm thực
chứng. Ngài Hoàng
Bá có thơ rằng, "Nếu chẳng một
phen sương thấm lạnh / Hoa mai đâu dễ tỏa mùi hương."
Thực tế, tất cả, hay gần như tất cả, các kinh Bắc
Tông đều nhìn và lý giải
Pháp theo phẩm tính “phi thời gian” và đây là Chân
Đế nằm hòa hài trong Tục
Đế, cũng như gương không lìa ảnh và nước không lìa sóng. Chỉ khi nhìn
Pháp trong phẩm tính phi
thời gian, và vì thời
gian chỉ có thể hiển
lộ trong không
gian (sắc
thanh hương vị xúc pháp) nên mới có thể hiểu được vì sao
Kinh Pháp
Hoa nói rằng Đức
Phật Thích
Ca đã thành
Phật từ
vô lượng kiếp, và có thể hiểu được vì sao Bắc
Tông nói rằng Bồ
Tát Quán
Tự Tại (trí
viên thông, tròn đầy và không ngăn ngại) có một hiện thể khác có tên là Bồ
Tát Quán Thế Âm với nghìn mắt và nghìn tay, tức là từ
Trí hiển
lộ Bi. Và chỉ nhìn Pháp trong phẩm tính phi
thời gian mới hiểu được vì sao Đức
Phật nói trong Tương
Ưng Bộ của Tạng Pali, nơi Kinh SN 12.64 về tánh viên
thông của một thức phi
thời gian và cũng là phi
không gian (xa
lìa sắc
thanh hương vị xúc pháp), rằng "Chỗ
nào không có thức an
trú, chỗ ấy không có danh
sắc sanh. Chỗ nào không có danh
sắc sanh, chỗ ấy không có các hành tăng
trưởng. Chỗ nào không có các hành tăng
trưởng, chỗ ấy không có hữu tái
sanh trong tương lai…" và như thế là giải
thoát.
Không hề dính gì tới
đất nước gió lửa, có phải là phi
thời gian và phi
không gian? Chúng
ta đọc thấy trong Kinh DN 11, bản dịch Thầy Minh
Châu: “Thức là không thể
thấy, vô
biên, biến thông hết thảy xứ. Ở đây, địa
đại, thủy
đại, hỏa
đại, phong
đại không có chân đứng. Ở đây, cũng vậy dài, ngắn, tế, thô, tịnh và bất
tịnh. Ở đây danh và sắc tiêu
diệt hoàn
toàn. Khi thức diệt, ở đây mọi thứ đều diệt tận." Nói thức diệt, là
cái thức còn sinh
diệt trong tứ
đại và ngũ
uẩn. Nói thức không thể thấy và vô
biên phải
chăng là pháp vô
sinh diệt, và là một pháp viên thông?
Có thể đối
chiếu lời của ngài Hoàng
Bá về “đạo
nhân vô
tâm” với Kinh MN 7, Kinh Sn 5.11, Kinh SN 12.64 và Kinh DN 11 vừa dẫn
trên. Trong sách Luận Tối
Thượng Thừa, bản dịch của Thầy Thích Thanh Từ về lời của Thiền
sư Hoàng
Bá, trích: "Chỉ một tâm này,
trọn không có pháp bằng hạt
bụi nhỏ có thể được, tức
tâm là Phật. Như nay người học
đạo không ngộ tâm thể này bèn ở trên tâm sanh tâm, hướng ra ngoài cầu
Phật, chấp
tướng tu
hành đều là pháp ác, chẳng phải đạo Bồ
đề. Cúng
dường chư
Phật mười phương không bằng cúng
dường một đạo
nhân vô
tâm. Tại sao ? Vì người vô
tâm là không tất cả tâm, thể như
như, trong như cây đá không động không lay, ngoài như hư
không chẳng bít chẳng ngại, không năng
sở, không chỗ nơi, không
tướng mạo, không được mất, người thú hướng mà không dám vào pháp này, sợ
lạc vào không, không có chỗ nơi
nương tựa, trông thấy mé rồi thối lui."
Nhưng khi dịch rằng Pháp có một phẩm tính là “phi thời gian” (timeless) có phải
là phản khoa học hay không? Bây giờ, khoa học đã đồng
ý với Phật
Giáo. Chỉ riêng Phật
Giáo mới nhấn
mạnh yếu
tố Pháp là phi
thời gian. Nhà khoa học vĩ đại Albert Einstein từng viết: Những người
như chúng
ta, những người tin vào vật
lý biết rằng sự phân
biệt giữa quá
khứ, hiện
tại và tương lai chỉ là một ảo
giác thường
trực khó đổi. Thời
gian, nói cách khác, Einstein viết rằng, là một ảo
giác. Nhiều nhà vật
lý từ đó chia sẻ quan
điểm này, rằng thực
tại chân
thực là phi
thời gian. (Albert
Einstein once wrote: People like us who believe in physics know that the
distinction between past, present and future is only a stubbornly persistent
illusion. Time, in other words, he said, is an illusion. Many physicists since
have shared this view, that true
reality is timeless.) --- có thể đọc theo nhiều nguồn: xin vào
Google.com và gõ các chữ "einstein
time illusion".
Trong khi đó, khoa học lại chứng
minh quan
điểm “nhất thiết pháp vô ngã” của Phật
Giáo là một chân
lý. Chúng
ta Thiền
tập, sẽ tới một lúc nhìn thấy thân
tâm mình y hệt như các khối lung linh di
động, không hề có cái gì là ngã. Khoa học bây giờ đã công
nhận “vô ngã” rồi. Nhà khoa học vĩ đại Stephen Hawking đưa ra lý
thuyết cuối
cùng trong
đời ông: vũ
trụ chính là một hình hologram lung linh, và tất cả chúng
ta đang sống trong cái hologram rỗng rang, chiếu diệu, lung linh này.
(xin vào Google, gõ chữ "hawking
hologram" sẽ thấy nhiều bài về lý
thuyết này.)
Không có nghĩa rằng nhờ khoa học mà Phật
pháp đúng. Chỉ muốn nói rằng, các bài toán tuyệt
vời của vật
lý đã dẫn tới các pháp
ấn nhà Phật, trong khi nhiều khoa học gia có thể chưa từng đọc gì về Kinh
Phật. Đây cũng là một phương
tiện để chúng
ta nói chuyện với giới trẻ có quan
tâm về Phật
pháp và khoa học. Nghĩa là, chúng
ta chỉ là những hình phóng chiếu hologram từ các ánh sáng năng
lượng nào đó (theo Kinh Phật, là từ ngũ
uẩn; và theo Bắc
Tông, ngũ
uẩn vẫn không rời Tánh
Không chiếu diệu, rỗng sáng và tịch lặng). Để hiểu thêm về khái niệm
hologram, có thể xem video này -- https://youtu.be/IuNj_rqx04o --
khi ban nhạc đứng ở London (Anh quốc) và tia
sáng phóng hologram làm cho khán giả ở Florida (Hoa Kỳ) nhìn cứ tưởng trước
mắt là thật. So
sánh nơi đây, không có nghĩa là dám khẳng định chúng
sanh cõi này chỉ là ánh sáng hologram. Chỉ là nêu một đối
chiếu để các bạn trẻ dễ hình
dung và khảo sát thêm (trong khi bản
thân người viết rất lờ
mờ về khoa học).
Như thế, Einstein và Hawking sau một
đời làm toán đã khám
phá rằng thế
giới này như
huyễn, như mộng, như hoa
đốm hư
không lung linh trước
mắt, không hề sanh
diệt (vì là thực
tướng phi
thời gian) và trong
sạch vô
tướng – đó là 2 vị đã lặp lại, đúng từng câu từng chữ, y hệt lời Đức
Phật nói trong Quyển I Kinh
Lăng Già, theo bản dịch của Thầy Duy Lực: “Thế
gian lìa sanh
diệt / Như hoa
đốm trên không. / Trí chẳng trụ hữu, vô, / Mà khởi
tâm đại
bi./ Tất cả pháp
như huyễn,/ Xa
lìa nơi tâm
thức./ Trí chẳng trụ hữu, vô,/ Mà khởi
tâm đại
bi./ Xa
lìa chấp đoạn
thường,/ Pháp thế
gian như mộng./ Trí chẳng trụ hữu, vô,/ Mà khởi
tâm đại
bi./ Biết nhơn pháp
Vô ngã / Phiền
não và nhĩ
diệm / Thường trong
sạch vô
tướng,/ Mà khởi
tâm đại
bi."
Thấy thế, mới thực là tin Pháp. Một mặt khác, muốn giữ
giới cho kiên
cố, cần
phải tin vào luật
nhân quả. Bất kỳ hành động nào của chúng
ta, qua thân
khẩu ý, đều gây nghiệp
lực, sẽ dẫn tới quả lành hay dữ, tùy
theo việc
làm đó, lời
nói đó, hay suy
nghĩ đó là thiện
nghiệp hay ác
nghiệp. Nếu
không tin vào nghiệp
quả, sẽ không kiên
trì giữ
giới được. Làm thế nào để tin sâu nhân quả? Cũng cần
phải thường
xuyên đọc nhiều sách, hay vào YouTube nghe các truyện nhà Phật về nhân
quả báo ứng. Phải sợ nghiệp mới lo tinh
tấn tu
học. Không thường
trực tự khuyến tấn tu giải
thoát, thế nào rồi cũng sẽ lui sụt, trễ nãi.
__ () __
Một nỗi lo lớn: làm thế nào có thể giải bớt nghiệp? Vì nếu nặng
nghiệp, sẽ khó tu. Làm thế nào để hóa giải, làm nghiệp
nặng trở
thành nghiệp nhẹ hay là xóa sổ nghiệp luôn? Nếu
không tin sâu nhân
quả, không hiểu giáo
lý nghiệp, e là có lúc sẽ chệch hướng.
Nơi đây, chúng
ta tóm lược một số ý chánh về nghiệp từ bài viết nhan đề “Nghiệp
và Giải Nghiệp theo Chánh
Pháp” (6) để
sẽ thảo
luận thêm:
-- Kinh AN 6.63 viết: Tác
ý, ta nói với chư tỳ
kheo, chính là nghiệp. Khi tác
ý, là gây nghiệp cho thân, khẩu và ý.
-- Kinh AN 5.43 viết: Nghiệp
lành, phước
đức không thể tới từ kinh cầu
nguyện hay ước muốn.
-- Kinh SN 12.46 viết về câu hỏi rằng, người gây ra nghiệp và người thừa tự
nghiệp có phải là một người, hay hai người khác nhau? Đức
Phật bác
bỏ cả hai trường
hợp, nói rằng hễ đáp thế nào cũng sẽ là cực
đoan; và ngài chủ trương trung
đạo.
-- Kinh SN 35.142 viết: Thế nào là nghiệp cũ? Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều
là nghiệp cũ. Thế nào là nghiệp mới? Việc mình làm bây giờ với thân, khẩu, ý là
nghiệp mới. Thế nào là nghiệp đoạn diệt? Sự đoạn
diệt thân
nghiệp, ngữ
nghiệp, ý
nghiệp, nhờ vậy cảm
thấy giải
thoát. Bát
Thánh Đạo là con
đường đưa đến nghiệp đoạn
diệt.
-- Kinh AN 3.99 viết: Cũng như hạt muối bỏ vào ly nước sẽ làm người uống thấy
mặn, nhưng hạt muối bỏ vào Sông
Hằng sẽ không tác
dụng mặn được. Do vậy, Đức
Phật nói rằng một nghiệp
ác nhỏ có thể đẩy chúng
ta xuống địa
ngục, trong khi với người biết tu, nghiệp nhỏ như thế sẽ gần như
không tác
dụng, “này các Tỷ-kheo, có làm nghiệp
ác nhỏ mọn tương tợ, và nghiệp
ác ấy đưa người ấy đến cảm
thọ ngay trong hiện
tại, cho
đến chút ít cũng không thấy được (trong
đời sau), nói gì là nhiều.”
-- Kinh AN 9.20 viết: cách giải nghiệp tốt nhất là tu hạnh từ
bi, và quán
niệm vô
thường; dù chỉ trong một khoảnh khắc cũng có công
đức hơn cúng
dường vô
lượng chư Phật.
__ () __
Tâm chúng
ta sẽ dẫn chúng
ta về thế
giới tương
ưng. Đức
Phật nói trong Kinh MN 57 rằng những người tu hạnh con chó hay hạnh loài
bò, khi thân hoại mạng
chung sẽ tái
sanh trong loài chó hay loài bò, trở
thành quyến
thuộc loài chó hay loài bò. Thêm nữa, Đức
Phật trong Kinh này cũng nói rằng có nghiệp trắng (chúng
ta thường nói là thiện
nghiệp, sẽ dẫn chúng
ta tới cõi lành sau khi mạng
chung), có nghiệp đen (chúng
ta thường nói là ác
nghiệp, sẽ kéo chúng
ta xuống cõi dữ sau khi mạng
chung), có nghiệp không trắng và không đen (sẽ dứt nghiệp, tới giải
thoát). Như thế, nghiệp không đen và không trắng chính lá pháp viên
thông.
Trong Kinh MN 57, Đức
Phật nói: "Và này Puñña, thế
nào là nghiệp không đen trắng, đưa đến quả
báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp? Ở đây, này
Puñña chỗ nào có ý
chí (Cetana: Tư
tâm sở) đoạn trừ nghiệp đen đưa đến quả
báo đen, chỗ nào có ý
chí đoạn trừ nghiệp trắng đưa đến quả
báo trắng, chỗ nào có ý
chí đoạn trừ nghiệp đen trắng đưa đến quả
báo đen trắng. Ở đây, này Puñña, chỗ nào có ý
chí như vậy, này Puñña, được gọi là nghiệp
không đen trắng đưa đến quả
báo không đen trắng, nghiệp đưa đến sự đoạn tận các nghiệp." (7)
Như thế, Kinh vừa dẫn cho chúng
ta hiểu
rõ thêm về các bài
kệ trong Kinh
Pháp Cú nói rằng người trí sẽ vượt
qua thiện
ác. Người làm thiện
nghiệp sẽ lên trời, làm ác sẽ xuống địa
ngục, nhưng người bất nhiễm thiện
ác sẽ vào Niết
Bàn. Như thế, nghiệp không đen trắng chính là pháp viên
thông. Sau đây là trích từ
Pháp Cú, bản dịch HT Thích Minh
Châu, về tâm lìa thiện
ác.
Pháp Cú bài
kệ 39: Tâm
không đầy tràn dục, Tâm
không (hận) công phá, Đoạn
tuyệt mọi thiện
ác, Kẻ tỉnh không sợ
hãi.
Pháp Cú bài
kệ 126: Một số sinh bào
thai, Kẻ ác sinh địa
ngục, Người thiện lên cõi
trời, Vô
lậu chứng Niết
Bàn.
Pháp Cú bài
kệ 267: Ai vượt
qua thiện
ác, Chuyên sống đời Phạm
Hạnh, Sống thẩm sát ở đời, Mới xứng danh tỷ
kheo.
Pháp Cú bài
kệ 412: Người sống ở đời này,
Không nhiễm cả thiện
ác, Không sầu, sạch không bụi, Ta gọi Bà-la-môn.
Tại sao như thế? Tại sao lìa thiện
ác là Niết Bàn? Bởi vì thiện và ác là ảnh
hiện của tâm
ba cõi sáu
đường, nhưng lìa thiện
ác là tương
ưng với bản
tánh của gương tâm vốn tịch lặng, rỗng chiếu. Bởi vì, tâm của người
trong ba
cõi sáu
đường là tâm của sắc/không, của Có/Không, của thiện/ác, của sanh/diệt.
Trong khi đó, tâm lìa sanh
diệt là giải
thoát. Y hệt như chúng
ta lấy bút chì, vẽ lên giấy hình cái bàn hay cái bình, tức là làm cho Có
hình; và lấy gôm tẩy xóa, thì dò theo đường lằn tẩy xóa là không bàn, không
bình, là Không (còn dựa theo Có mà hiển
lộ). Nhưng tờ giấy bao trùm cả có hình và cả không hình chính là tâm ban
sơ bất
động, cũng như tánh gương bao trùm cả có ảnh và cả không ảnh, mới thực sự
là Tánh
Không rốt
ráo.
Trong Kinh
Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông, Quyển 2, Chương Lựa Riêng Trần
Cảnh Để Nêu Ra Tánh
Thấy, trong phần Thông, có đoạn ghi lời Thiền
sư Vân
Cư Trí giải
thích về Thấy Tánh:
"Ngài Vân
Cư Trí nói rằng : “Cái Tánh Trong
Sạch xưa
nay trong lặng, chẳng có một chút động lay, không thuộc Hữu, Vô, lìa
ngoài Nắm, Bỏ, Tánh Thể làu làu, vốn tự
như nhiên. Thấy rõ
ràng như vậy, mới gọi là Thấy Tánh (Kiến
Tánh). Tánh tức Phật, Phật tức Tánh nên nói là “Kiến Tánh thành
Phật...
Tính toán hư
vọng mà cho là Có, liền có năng, sở: bèn mang
tiếng là mê. Theo cái Thấy hư
vọng đó sanh chuyện hiểu
biết, liền đọa sanh
tử. Người thấy biết rõ
ràng thì chẳng có vậy. Suốt ngày thấy mà chưa hề thấy. Tìm cầu
danh, xứ, thể, tướng bèn chẳng có được. Năng, sở đều dứt tuyệt, gọi là
Thấy Tánh”. (8)
.
Trong ba
nghiệp thân, khẩu và ý, Đức
Phật nói rằng nghiêm
trọng nhất là ý
nghiệp. Trong Kinh MN 56, Đức
Phật có đoạn vấn
đáp với Tapassi, theo bản dịch của Thầy Minh
Châu:
“Hiền giả Gotama, ba loại nghiệp này,
được chia chẻ như vậy, được phân
biệt như vậy, Hiền
giả chủ trương loại nghiệp nào tối trọng để tác
thành ác
nghiệp, để diễn
tiến ác nghiệp? Thân
nghiệp chăng, khẩu
nghiệp chăng, ý
nghiệp chăng?
—Này Tapassi, ba loại nghiệp này,
được chia chẻ như vậy, được phân
biệt như vậy, Ta chủ trương ý
nghiệp là tối trọng, để tác
thành ác
ý, để diễn
tiến ác
nghiệp, thân
nghiệp không bằng được, khẩu
nghiệp không bằng được.” (9)
Một điều có thể làm chúng
ta an
tâm là cho dù nghiệp
nặng thế nào, người có chánh
kiến có thể lãnh thiện
nghiệp ngay trong hiện
tại, theo Kinh MN 136: “...có chánh
kiến, người ấy phải lãnh
thọ quả
báo được khởi lên ngay hiện
tại hay trong một
đời khác.” (10)
Và không nên lo ngại, vì biết tu thì nghiệp cực nặng cũng chuyển thành nhẹ... vì
biết tu là có tài
sản vô
lượng, có trả nợ khi nghiệp tới thì chỉ nhẹ nhàng, không bị
bắt trói. Đức
Phật nói trong Kinh MA 11, bản dịch Thầy Minh
Châu:
“Lại nữa, có người tạo nghiệp
bất thiện tất phải thọ quả khổ là quả
báo trong
đời hiện
tại. Thế nào là có người tạo nghiệp
bất thiện tất phải thọ quả khổ là quả
báo trong
đời hiện tại? Ở đây, có một người tu
thân, tu giới, tu
tâm, tu tuệ, thọ
mạng rất dài; người ấy tạo nghiệp
bất thiện tất phải thọ quả khổ là quả
báo trong
đời hiện
tại.
“Cũng như có người dù mắc
nợ một trăm tiền nhưng không bị chủ nợ bắt trói; cho
đến nợ ngàn vạn tiền cũng không bị chủ nợ bắt trói? Nghĩa là người mắc
nợ có vô
lượng tài
sản và thế
lực rất lớn. Người ấy nhờ vậy dù mắc
nợ trăm ngàn tiền vẫn không bị chủ nợ bắt trói. Đó là người mặc dù mắc
nợ trăm tiền vẫn không bị chủ nợ bắt trói, cho
đến nợ ngàn vạn tiền cũng không bị chủ nợ bắt trói. Cũng vậy, có người
tạo nghiệp
bất thiện, tất phải thọ quả khổ là quả
báo trong
đời hiện
tại. Thế nào là có người tạo nghiệp
bất thiện tất phải thọ quả khổ là quả
báo trong
đời hiện tại? Nghĩa là, có một người tu
thân, tu giới, tu
tâm, tu tuệ, thọ
mạng rất dài; người ấy tạo nghiệp
bất thiện tất phải thọ quả khổ là quả
báo trong
đời hiện
tại. Người ấy ở trong
đời hiện
tại giả
sử có thọ
báo của thiện hay ác nhưng chỉ nhẹ nhàng, chút ít thôi”. (10)
Nhưng thế nào là biết tu? Thế nào là tu với tâm lìa cả ba thời, lìa cả ngũ
uẩn (sắc thọ
tưởng hành thức)? Có nhiều pháp, một trong đó là pháp niệm
vô thường. Trong Kinh AN 9.20, Đức
Phật ca
ngợi pháp quán
niệm vô
thường, chỉ trong khoảnh khắc là có oai lực gấp nhiều lần so với người bố
thí Đức
Phật và chúng Tỳ
kheo. Kinh này viết, bản dịch của Thầy Minh
Châu:
“…và có ai bố
thí chúng Tỷ-kheo với đức
Phật là vị cầm đầu, và có ai cho xây
dựng một tinh
xá cho chúng
Tăng trong bốn phương... và có ai với tâm tịnh
tín qui
y Phật, Pháp và chúng
Tăng... và có ai tâm tịnh
tín chấp
nhận học pháp, từ
bỏ sát
sanh... từ
bỏ đắm say rượu men, rượu nấu... và có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc
vắt sữa bò, tu
tập từ
tâm, và có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc búng ngón tay, tu
tập tưởng
vô thường, bố
thí này quả lớn hơn bố
thí kia.” (11)
Pháp quán
niệm vô
thường cũng là một pháp viên
thông. Vì trong khi niệm
vô thường, sẽ không thấy có bất kỳ pháp nào trong ba
cõi níu lại trong tâm, dù đó là sắc
thanh hương vị xúc pháp hay là bất cứ gì của đất nước gió lửa. Trong khi niệm
vô thường, cũng là niệm vô
sinh diệt, vì không có gì sanh và không có gì diệt trong người đang cảm
thọ dòng sông vô
thường chảy xiết trong toàn
thân tâm mình. Một cách khác, bất cứ pháp nào thấy là sinh, liền thấy
ngay là diệt. Đó cũng là một pháp niệm sự chết trên toàn
thân tâm mình.
Trong Kinh EA 2.10, bản dịch quý Thầy Tuệ Sỹ & Đức Thắng, Đức
Phật dạy: “Hãy tu
hành một pháp. Hãy quảng
bá một pháp. Các ngươi sẽ thành
tựu thần
thông, loại
bỏ các loạn
tưởng, đạt
được quả Sa-môn, tự thân đạt
đến Niết-bàn. Một pháp ấy là
gì? Đó là niệm sự chết. Hãy khéo tu
hành. Hãy quảng
bá. Các ngươi sẽ thành
tựu thần
thông, loại
bỏ các loạn
tưởng, đạt
được quả Sa-môn, tự thân đạt
đến Niết-bàn. Cho nên, các Tỳ-kheo, hãy tu
hành một pháp, hãy quảng
bá một pháp. Vì
vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này.” (11)
.
Trong khi đó, Kinh
Lăng Nghiêm Tông Thông (KLNTT), Quyển 6 [xin dò theo link (8) ở
trên], ghi rằng trong các pháp tu, nương vào Tánh Nghe là thù
thắng nhất: pháp lắng nghe của ngài Quán
Thế Âm là viên
thông nhất, là lìa thời
gian quá
hiện vị lại, là lìa cả sắc hương vị xúc pháp và lìa cả thanh (vì trong
cái nghe, các pháp đều bất
khả đắc).
Trước tiên, nói về giới. Trong cái nghe, chỉ thuần nghe, tự thân đã là
giới. Khi bạn nghe và không níu kéo bất kỳ cái được nghe nào, khi nghe đúng pháp
(không vướng bận quá, hiện, vị
lai) tự thân là đã Vô
Tâm, tự thân đã xa dục
ái. Thí
dụ, bạn ngồi trong hội trường nghe hòa tấu nhạc, các âm
thanh đàn, sáo, trống xen nhau, Bạn sẽ thấy dục
ái rất khó khởi lên khi nghe thực nghe, vì tánh nghe tự thân đã lìa thiên
vị, tự thân đã lìa năng
sở -- vả năng (người nghe) và sở (cái được nghe) chỉ hiện
lên nếu bạn lìa Vô
Tâm, nếu bạn khởi
tâm so đo về cái được nghe. Do vậy, trong cái nghe đã lìa dục
ái, vì dục
ái là cái so đo níu kéo của ký ức, của cảm
thọ quá
khứ. Thêm nữa, căn (tai) và cảnh (cái được nghe) không chướng
ngại, không cản nhau, nên tự các pháp khi lắng nghe đã tròn được giới (trừ
phi, khi ý
thức xen tạp so đo, chọn lựa…).
Trích KLNTT: "Thông rằng : Huân
tu theo Tánh Nghe ắt dục
ái khô khan. Bởi do nước về căn nguồn, nên lửa chẳng thể đốt vậy. Tiếng
trần đã tiêu
tan, các trần khác đều thoát. Căn và Cảnh chẳng cướp lẫn nhau, nên hình
sắc chẳng mê
hoặc được."
Tương tự, trong cái nghe, chỉ thuần nghe, tự thân đã là định. Khi bạn
nghe, và không níu kéo bất kỳ cái được nghe nào, khi nghe đúng pháp (không vướng
bận quá, hiện, vị
lai) tự thân là đã Vô
Tâm, tự thân đã là bất
động (không dao
động ưa/ghét, lành/dữ, thiện/ác, tham/sân…). Vì căn và cảnh đều viên
dung (tròn đầy, dung chứa nhau), nên định này là định của tự
tánh, không phải định do tu
tập hay do mài giũa. Bởi vì Tánh Nghe thường
trụ, không phải vì không tiếng là mất nghe (diệt), cũng không phải vì có
tiếng mà hiện
ra nghe (sinh). Dù có tiếng, hay không tiếng, thì cái nghe vẫn còn đó. Tự
thân nghe đã lìa sinh
diệt, thì đây là thường định.
Kinh KLNTT viết: “Không tiếng, đã
không diệt / Có tiếng, cũng chẳng sanh / Sanh
diệt đều trọn lìa / Đó là Thường
Chân Thật / Dầu cho trong mộng
tưởng / Không nghĩ nhưng chẳng không / Tánh Nghe ngoài suy
nghĩ / Thân
tâm không bằng được.”
Tương tự, trong cái nghe, chỉ thuần nghe, tự thân đã là huệ. Vì trong cái
nghe tự thân đã không rơi vào tâm của ba
cõi sáu
đường, khi toàn
thể thân
tâm ngộ
nhập cái rỗng rang, tịch lặng, chiếu sáng của nghe.
Kinh KLNTT viết: "Thông rằng: Ban
đầu, hết quán cái Âm
Thanh liền được
Giải Thoát là để tiếp bậc thượng thượng
căn, chỉ soi thấy năm
uẩn đều Không tức vượt hết thảy khổ
ách. Dùng cái quán Tự
Tánh, nếu chẳng phải là Quán
Hạnh vi
diệu thì không thể hành được vậy."
Như thế, chính ngay khi lắng nghe như thế, giới
định huệ đã tròn đầy, đã viên
thông. Cho nên, nói lắng nghe bờ
bên kia, chỉ là một cách thơ mộng để nói lắng nghe tự thân cái nghe. Đức
Phật và các vị bồ
tát trong Kinh
Lăng Nghiêm đều ca
ngợi rằng pháp lắng nghe của Bồ
Tát Quán Thế Âm là pháp
Đệ Nhất Nghĩa
Đế. Bởi vì không bận tâm
giới định
huệ mà vẫn tròn đầy giới
định huệ.
Do vậy, Kinh
Lăng Nghiêm Tông Thông viết:
"Thông rằng: Ở trước nói hai
nghĩa quyết
định. Một là xét cái Tâm Nhân
Địa. Hai là lựa
chọn Căn Viên
Thông, trở
lại cùng tột dòng căn, đến chỗ chẳng sanh
diệt; thẳng đến Vô
Thượng Bồ Đề, chẳng phải luận gì đến cái học
Giới Định
Huệ. Đây là một môn siêu xuất, con
đường Xa
Ma Tha nhiệm mầu của mười
phương Như
Lai để tiếp người thượng thượng
căn vậy. Trong đó nói “Căn và Trần chẳng sánh hợp”, chưa từng không có
Giới. “Như lóng nước dơ”, chưa từng không có Định. “Ở trong rực
rỡ phát sáng”, chưa từng không có Huệ. Chỉ chẳng dùng Giới
Định Huệ tự trói
buộc, nên là Đệ
Nhất Nghĩa Đế."
Đó là nghĩa của lắng nghe bờ bên kia…
GHI CHÚ:
(1) Kinh MN 41: https://suttacentral.net/mn41/vi/minh_chau
(2) Kinh AN 10.64: https://suttacentral.net/an10.64/vi/minh_chau
(3) Nhóm kinh SN 55.1-55.10: https://suttacentral.net/sn55-veludvaravagga
(4) Kinh MN 7: https://suttacentral.net/mn7/vi/minh_chau
(5) Kinh Sn 5.11: https://thuvienhoasen.org/p15a30622/sn-5-11-jatukanni-manava-puccha-cac-cau-hoi-cua-jatukanni
(6) Nghiệp và Giải Nghiệp theo Chánh
Pháp: https://thuvienhoasen.org/a31624/nghiep-va-giai-nghiep-theo-chanh-phap
(7) Kinh MN 57: https://suttacentral.net/mn57/vi/minh_chau
(8) Kinh
Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông, Q2: https://thuvienhoasen.org/p17a1223/quyen-ii
(9) Kinh MN 56: https://suttacentral.net/mn56/vi/minh_chau
(10) Kinh MN 136: https://suttacentral.net/mn136/vi/minh_chau
Kinh MA 11: https://suttacentral.net/ma11/vi/tue_sy
(11) Kinh AN 9.20: https://suttacentral.net/an9.20/vi/minh_chau
Kinh EA 2.10: https://suttacentral.net/ea2.10/vi/tue_sy-thang