Muôn kiếp nhân sinh

MUÔN KIẾP NHÂN SINH
 

MUÔN KIẾP NHÂN SINH

 

Đặng Công Hanh

Kiếp sau xin chớ làm người

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.

(Nguyễn Công Trứ)

Thuở còn học ở nhà trường phổ thông đệ nhị cấp, nay gọi là cấp 3, chúng ta được học thơ của Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858). Ông là tác giả những bài thơ nổi tiếng khẳng định chân giá trị con người ông – một kẻ sĩ chân chính.

Xu thế thời đại lúc bấy giờ, hàng lớp sĩ phu xác định lấy công danh làm con đường nhập thể tích cực thông qua cửa ải thi cử để ra làm quan.

“Chí làm trai nam bắc đông tây

Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể”

Thế nhưng, ông đã vô cùng lận đận trong khoa cử, mãi đến 42 tuổi mới đổ cử nhân. Ông được bổ nhiệm làm quan dưới triều Minh Mạng và Thiệu Trị, đã trải qua bao lần thăng trầm, nếm mùi bi kịch của xã hội chuyên chế khắc nghiệt, đầy rẫy những tệ nạn xã hội của cường hào ác bá, quan lại hèn nhát, ông cảm cảnh đau khổ của dân tình mà than thở.

Kiếp sau xin chớ làm người

Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.

*

*        *

Lúc bấy giờ, ở lứa tuổi học trò, đầu óc còn non trẻ nên việc học văn chương, triết học chỉ dừng lại ở hiểu biết qua lời giảng trên mức độ phổ thông đáp ứng thi cử, chứ chưa thật sự thấu hiểu. Từ biết đến thấu hiểu còn một khoảng cách rất xa, cho đến khi trở thành niềm tin còn tùy thuộc vào độ trải nghiệm thực tế và căn duyên của mỗi người. Tuy vậy, ở trên đời còn có những chuyện xin “đừng đợi thấy mới tin”.

Kiếp sau (tái sinh), luân hồi, nhận quả nghiệp báo, đã được người xưa suy tư về cái chết, chính là kỹ cương trong mục đích cứu vớt, không phải là một hình phạt. Dù không tin vào kiếp sau đi nữa, nhưng nếu biết nhìn thẳng vào thực tế cũng là điều tốt, hữu ích và khoa học.

Con người, tâm thức và mọi hiện tượng đều dính liền với một nguyên nhân nào đó và chúng biến đổi trong từng giây phút, từng khoảnh khắc và cũng nhờ đó sự thăng tiến mới có thể xảy ra được. Tri thức có thể định nghĩa như luồng ánh sáng hàm chứa sự hiểu biết. Nó chiếu rọi vì bản chất của nó là sự trong sáng. Tri thức cảm nhận được vật thể theo phong cách mà nó đã quen thuộc từ trước.

Theo ngài Đạt Lai Lạt Ma, tri thức có nghĩa là sự nhận biết được cấu tạo bằng những đoạn nhỏ của khoảnh khắc thời gian, nhưng không phải bằng các tế bào hay những hạt cơ bản vật chất. Do đó bản chất của tri thức và vật chất hoàn toàn khác biệt từ căn bản. Như thế những nguyên nhân thực thể của chúng cũng khác biệt. Nhưng không phải vì vậy mà chúng không tương tác với nhau. Vật chất tạo điều kiện hiện hữu cho tâm thức. Như có lần nhà khoa học cũng vừa là Thiền sư Matthieu Ricard nói rằng phần thân xác của ta làm cơ sở chống đỡ hay nền tảng cho phần tri thức. Bất cứ một khoảnh khắc tri thức nào cũng đòi hỏi phải có một khoảnh khắc tri thức khác xảy ra trước đó làm nguyên nhân thực thể. Điều này có nghĩa là tâm thức hay tâm linh gồm cả xúc cảm, sự  suy nghĩ, tình cảm và những xung năng tiềm ẩn, hàm chứa một sự tiếp nối liên tục không khởi thủy. Vì vậy, chuỗi tiếp nối liên tục (continue) là những gì lưu lại trong kiếp sống về sau.

Tri thức còn gọi là thức thuộc vi phạm trù tinh thần (hay tâm thức). Nghiệp được tạo ra do Thức, vì nó sinh khởi các ý niệm phân biệt nên tạo ra nghiệp nhân. Khi nghiệp nhân xảy ra, nó có thể đem lại một hậu quả ngay lúc này hay có thể xảy ra lúc khác.

Nói cách khác, từ kiếp sống này qua kiếp sống khác, cái duy nhất được duy trì là nhân (hay hạt giống) được lưu trữ trong kho gọi là tàng thức (một thuật ngữ Phật học). Do đó tàng thức chứa đựng tất cả các hạt giống của nghiệp lực và chúng đi theo mỗi cá nhân như hình với bóng từ kiếp này qua kiếp khác.

Phật giáo quan niệm rằng sức sống con người được hình thành bằng ba yếu tố:

– Sinh lực giúp người ta sống, khi sinh lực cạn dần người ta sẽ già và chết.

– Hơi ấm hay khí là sự chuyển dòng sinh lực tạo ra năng lượng.

– Tàng thức sẽ ảnh hưởng đến đời sống của con người theo luật nhân quả. Khi chết là Tàng thức ra đi và dẫn dắt người ta đi vào đời sống ở kiếp khác dưới dạng thức khác tương ứng với nghiệp lực của họ. Kiếp sống con người thì có hạn, nhưng Tàng thức thì không bao giờ hết, kéo dài liên tục và đó chính là vòng luân hồi vô tận.

Sự chết, tái sinh, nghiệp lực là những khái niệm hết sức quan trọng. Đó là những biên giới mà hiện nay khoa học chưa đạt đến, không thể giải thích được. Chúng ta xem đó là niềm tin, không phải niềm tin đơn thuần, mà phải trực tiếp trải nghiệm quan sát, kiểm chứng một giai đoạn dài và thấy nó hợp lý và giải thích được vì sao nó trở thành một chân lý.

Nếu không tin tưởng vào sự tái sinh, vào vòng luân hồi thì làm sao hiểu và giải thích về những trường hợp các đứa trẻ gọi là thần đồng với năng khiếu bẩm sinh đặc biệt, chẳng hạn.

– Mozart đã biết soạn nhạc từ lúc bốn tuổi. Đến lúc tám tuổi, ông đã chủ trì các buổi hòa tấu và cũng đã bắt đầu soạn nhạc cho các loại nhạc khí khác nhau mà ông chưa bao giờ kinh qua một lớp nhạc lý nào cả.

– Beethovei cũng đã bắt đầu soạn nhạc từ thuở lên ba và sử dụng thành thạo nhiều nhạc cụ khác nhau.

– Thiên tài Galileo vừa là nhà Toán học vừa là nhà thiên văn. Ông đã đưa ra lý lẽ bằng chứng về quỹ đạo của các hành tinh từ khi còn rất nhỏ.

– Văn hào Stuart Mill có thể nói và viết thông thạo tiếng Hy Lạp và tiếng La Tinh từ lúc lên bốn, mặc dù thân sinh của ông ở tại Anh và chỉ biết tiếng Anh.

Còn rất nhiều hiện tượng tương tự như vậy xảy ra trên khắp thế giới. Khoa học giải thích các trường hợp đó như thế nào nếu chúng ta không tin rằng con người đã trải qua nhiều kiếp sống và đã từng được dạy dỗ, học hỏi trong quá khứ.

Theo quan niệm của Phật giáo thì tất cả những gì mình làm hay suy nghĩ (tạo nghiệp) đều lưu giữ trong Tàng thức (A – lại – da thức). Thức này chứa đựng mọi kinh nghiệm của đời sống con người và là nguồn gốc tất cả hiện tượng tinh thần, dưới hình thức là những chủng tử (hạt giống, thông tin). Khi những chủng tử này phát động đều do những nhân duyên thích hợp vượt ngoài sự hiểu biết của chúng ta. Cũng từ đó, phải chăng tính tình, nhân cách con người đều chịu ảnh hưởng từ cá nhân của chủng tử đã gieo trồng trong quá khứ.?

Theo con đường này thì con người phải trải qua rất nhiều kiếp sống với những thăng trầm và học hỏi  qua sự đau khổ cho đến khi nó trở nên tốt đẹp hơn. Nhưng đã mấy ai đã tin như thế và câu hỏi ngược lại, tạo sao con người sinh ra để  rồi sống duy nhất một lần và chết là hết? Tại sao có người được sanh ra đã sung sướng, trong khi có người lại sinh ra lại gặp cảnh bần cùng? Không ai có thể trả lời những câu hỏi này nếu người ta không tin vào luật Luân hồi và Nhân quả.

Luật Luân hồi nói rằng, khi sinh lực chuyển hóa thành cá nhân đơn lẻ, nó sẽ tái sinh nhiều lần qua những kiếp sống khác nhau để học hỏi. Từ đó, nó sẽ biết cách thanh lọc các yếu tố ô nhiễm qua kinh nghiệm của những kiếp sống.

Luật Nhân quả rất đơn giản cho rằng tư tưởng, lời nói hay hành động phải xuất phát từ con người đều tạo ra kết quả tương ứng. Kết quả này có thể tức thì hay qua một thời gian sau hay kiếp sau.

Tin hay không tin là quyền của mỗi người, nhưng quan niệm rằng có nhiều kiếp sống khác nhau hay luân hồi là niềm tin đã có từ ngàn xưa. Các tôn giáo như Phật giáo, Ấn giáo, Thiên chúa giáo đều dạy như thế. Các nhà thông thái, các triết gia như Plato, Pythagoras hay Aristoteles đều tin rằng sau khi chết sẽ có đời sống kế tiếp.

Gần đây, trong một lần phỏng vấn của nhà báo Pháp là ông Jean – Claude Carirère, ngài Đạt – Lai – Lạt – Ma nói rằng: “Tái sinh và hóa thân là hiện thực, y như các nguyên tử là hiện thực vậy. Nếu một số người không tin tái sinh là hiện thực, tôi cho rằng họ vô minh”. Ông nói tiếp tục: “Đó không phải là tín ngưỡng mà là hiện tượng vật lý”.

Nếu con người phải trải qua rất nhiều kiếp sống để học hỏi, vậy con người đến từ đâu? Quan điểm của vật lý hiện đại, con người thật ra chỉ là năng lượng trong vũ trụ và dạng năng lượng uyên nguyên này hiện diện khắp nơi trong vũ trị. Dạng năng lượng này tạm gọi tên là “thực thể”. Thực thể này còn có tên tương đồng là Chân như, Tâm thức vi tế… Năng lượng này khi tiếp xúc với những yếu tố bản địa ở những địa phương hành tinh khác nhau thì thay đổi thành loại năng lượng mới tùy thuộc yếu tố vật lý hóa học nơi đó. Sự biến đổi này thích hợp với hoàn cảnh địa phương hành tinh nào đó và trở thành một sinh lực thích hợp, những sinh lực hóa hiện trên thân xác cụ thể thành những thực thể có sự sống.

Đây là một lý thuyết khoa học, nhưng chưa có thể chứng minh. Tuy nhiên, nó được nhiều nhà khoa học lỗi lạc tiền bối như N-Bohr, E-Schrodinger;
W-Heisenberg đều cho rằng có giá trị.

Theo lý thuyết này, sự sống hay sinh lực vốn là nội dung năng lượng, nên sau khi chết thì năng lượng sẽ chuyển hóa qua một dạng thức khác. Vì theo các định luật khoa học thì năng lượng không thể được sinh ra hay mất đi (định luật bảo toàn và chuyển hóa). Năng lượng là một cái gì đó bất biến theo không – thời gian và chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác. Cũng vì thế, chết chỉ là chuyển hóa sinh lực con người qua một hình thức mới dựa theo quy luật Nhân quả.

Trong hình thể mới, nó vẫn tiếp tục thanh lọc những yếu tố ô trọc và cũng có thể trong hoàn cảnh mới nó lại tiếp thu thêm những ô nhiễm khác trong tiến trình thanh lọc để quay về nguồn cội, quay về đời sống thiêng liêng. Con người trong mỗi kiếp sống thường tìm mọi cách loại bỏ những khổ đau bên ngoài bằng những sinh hoạt phù phiếm, thúc đẩy bởi sự thèm khát và rồi ta sẵn sàng đánh mất sự thăng bằng của chính ta nghiêng về giá trị vật chất, sống trong đam mê và đi đến chỗ tạo ra những hành động xấu.

Theo các bậc đại trí, các bậc hiền triết, xưa và nay cho rằng có thứ kỹ thuật nhằm vào sự loại bỏ khổ đau trong kiếp nhân sinh trên một bình diện sâu xa hơn cho đến mãi kiếp sau. Đó là việc tu tập tinh thần. Tu tập tinh thần là tổ chức lại tư tưởng từ căn bản, đòi hỏi phải thay đổi thái độ, loại bỏ những hành vi vô bổ, lấy tình thương là bước đầu cho việc phát triển trí thông minh. Trí thông minh là bước đầu cho việc phát triển trí tuệ và trí tuệ là yếu tố quan trọng nhất để thanh lọc những yếu tố ô trọc trên bước đường quay trở về với cội nguồn uyên nguyên. Họ là những người luôn luôn học hỏi, thay đổi và biết làm chủ mọi hành động để chuyển hóa các thói quen tiêu cực để trở thành hiền triết, thánh nhân.

Tình thương ở đây có nghĩa là thương yêu  vô điều kiện hoàn toàn đối với các sinh linh không phân biệt hay thiên vị. Tình thương yêu là sự bổ túc cho từ bi. Lòng từ bi không thể tồn tại hoặc sẽ không phát triển nếu không có lòng yêu thương.

Từ bi trong đạo Phật là nỗi mong muốn chữa trị tất cả các hình thức đau khổ và đặc biệt giải quyết tận gốc của sự vô minh là gốc của mọi bất thiện trong thế gian, là một đặc tính của đau khổ do tình trạng tâm thức không thấy sự vật hiện tượng như nó là.

Do đó lòng từ bi, phần thì dành cho kẻ đau khổ, phần thì cho tâm trí nơi sinh ra đau khổ. Thế ta mới hiểu được cái sâu sắc trong trật tự ca từ mà người nhạc sĩ tài hoa đã cảm xúc; ông Trịnh Công Sơn viết: Yêu em yêu thêm tình phụ / Yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ.

Đây là cơ hội, là điều kiện rất quan trọng trong sự phát triển thăng tiến của con người, vì từ lúc này họ cần trở nên hữu dụng, có giá trị cho gia đình và cho xã hội. Nếu không như thế, sự theo đuổi những mục tiêu của trần thế suốt kiếp nhân sinh bằng sự ham muốn, quyến luyến, kiêu hãnh, ghen ghét, hận thù… tất cả những trạng thái tâm trí ấy gọi là vô minh. Chúng ta không còn cơ hội để chuyển hóa, thanh lọc những ô trọc chuẩn bị cho kiếp sau.

 

Đặng Công Hanh

Chia sẻ: facebooktwittergoogle