Hai tấm vé trở về

Hai tấm vé trở về

Hai tấm vé trở về

Chân Hiền Tâm

 

Ngày đó…

Thời mới giải phóng, những gia đình có người thân “ngụy quyền” như tôi đều tìm cách ra khỏi đất nước này. Vượt biên là phương tiện phổ biến nhất. Gia đình tôi, anh chị em cũng lọt mấy đứa. Riêng hai vợ chồng thì trầy trật mãi. Tiền mất tật mang. Cho đến khi đủ để nhận định rằng, ở lại chưa chắc xấu, ra đi chưa chắc tốt. Bởi muốn tới được miền đất hứa, chưa có gì bảo đảm rằng mình còn sống để mà đến đó.

Tấm vé giá chính thức

Những ngày lênh đênh trên sóng nước là những ngày khá hãi hùng với tôi. Tàu chứa hằng trăm người mà chỉ một lỗ thông hơi bé xíu, vừa đủ để thòng người xuống và đu người lên. Không thở được, tôi vươn người ra khỏi lỗ gió, một mình ngồi trên boong tàu đối mặt với biển đêm. Một khoảng không đen ngòm mênh mông, không biết đâu là ranh giới giữa trời và biển. Tàu to thế, giờ như hạt cát giữa biển đêm, lặn hụp đắm chìm qua từng đợt sóng lớn. Một đợt sóng qua đi, nửa con tàu chìm sâu trong biển nước. Nhìn mũi tàu biến mất giữa biển đêm, thấy mạng mình sao mong manh. Tôi phải bám chặt vào bờ tàu để không phải trôi theo đó khi sóng ập tới. Câu niệm Phật là thứ giúp tôi định tĩnh với cơn thịnh nộ của biển trời. Một lần chứng kiến duy nhất đủ để thấy thân phận con người bé nhỏ ra sao giữa biển trời thiên nhiên, đủ để hiểu mức độ nguy hiểm trước khi thấy được miền đất hứa.

Kết quả của những đợt chìm nổi là tàu bể bình nhớt, quay về đậu ở Rạch Sỏi.

Mọi người hoảng loạn tìm cách tháo chạy. Ở miền đất người thưa xóm vắng, hàng loạt người nối bước nhanh chân là dấu hiệu của một sự vượt biển không thành công. Bị tóm là cái chắc. Tôi và chồng quyết định không theo đám tàn quân bươn chải mà ở lại con tàu, tìm cách thoát thân khác. Cái thai hai tháng bắt đầu ra huyết khi tôi nhảy từ mũi tàu xuống đất. Không thể đi tiếp cùng chồng trong tình trạng như thế, tôi đành ngồi chờ công an tới, chồng thì giấu người sâu dưới lớp lau sậy, chờ đêm tới tìm cách về lại Sài Gòn. Phải về cho kịp để nhà không mất tiền vượt biên. 

Tôi về trụ sở công an trên một chiếc honda. Viện cớ quần rách và người đang ra huyết, tôi không chịu đi và ngồi lỳ luôn ở đó. Những người tốt bụng đã cho xe tới chở tôi về. Tôi vẫn nghe Việt Cộng ác, nhưng những người tôi gặp, họ hiền lành và tốt bụng. Có lẽ, ở lại với họ sẽ đỡ hơn là phải đối diện với biển đêm một lần nữa.

Sợi dây chuyền năm chỉ lận trong lưng quần khá lớn, nhưng công an lục không thấy. Họ tịch thu sợi dây bằng vàng tây đeo ở cổ, có mặt hình Quán Thế Âm, món quà sinh nhật cuối cùng cha tặng tôi trước khi ông mất. Nhưng hôm sau họ trả lại. Nhờ đó, tôi mới có phương tiện trốn viện sau này.

Họ đưa tôi vào trại giam cùng với đám người vượt biên. Sau những hàng song sắt, huyết bắt đầu ra nhễ nhãi. Tôi được đưa xuống trạm y tế bằng xe bốn bánh, nơi có những phụ nữ khá lớn tuổi mà vẫn sinh con.

Bà trưởng trạm là người hiền lành. Bà hỏi chồng đâu mà đi có một mình. Tôi nói anh bỏ về Sài Gòn rồi. Bà nhăn mặt, “Sao đi có đôi mà về thì bỏ vợ lại một mình, sung sướng có nhau thì hoạn nạn phải có nhau”. Điều mà cả anh và tôi đều không muốn. Có nhau thì tiền mất. Có đôi mà trong tù thì ai là người đi thăm nuôi? Tuy vậy tôi không giải thích, cũng không muốn phân tranh với lòng tốt của bà. Cứ để nguyên chuyện như thế. Bà hiền hòa và tốt bụng, không hề coi tôi là phạm nhân. Với bà, chúng ta không cùng quan điểm thì người ở lại, người ra đi, chẳng ai là phạm nhân của ai. Một con người rất đáng kính.

Chỉ là trong thế giới duyên khởi này, khi bạn đã khởi tâm nhị biên, thấy vạn pháp là tốt… thì bạn sẽ có cơ hội chiêm nghiệm được cái gọi là xấu. Nó hiện lên đủ để bạn nhận ra rằng, những gì có tướng, không bao giờ mang tính phổ quát. Muốn phổ quát được thì nó phải không, không hình tướng, dù là hình tướng không. Trong những thành phần cán bộ tôi gặp đó, những con người khá hiền lành dù họ mặc sắc phục quân đội, hiện ra một con người khá đặc dị. Cô ta đặc biệt ghét những bệnh nhân có liên quan đến vượt biên. Ghét đến mức khó ở. Bà trưởng trạm bảo chích cầm máu cho tôi. Cô ta nghe và để đó, nhất quyết không chích cho đến khi có sự cố xảy ra.

Một phụ nữ sinh đã tám lần, vừa nhập trạm. Tám lần đều tự sinh trong chiếc ghe nhỏ, mà bà ta gọi là nhà. Lần thứ chín, uống thứ lá gì đó, không tiểu được nữa, phải rời ghe lên đất liền, vào đúng trạm xá tôi đang ở. Cũng chẳng có trạm thứ hai nào nơi cái xứ nhỏ bé này.

Chao qua chao lại, vẫn không thể nào làm bà tiểu được. Cô được lệnh đưa bà lên bệnh viện tỉnh. Trước khi đi, cô tặng tôi mũi thuốc cầm. Không hiểu vì còn sót chút lòng từ hay vì biết thương bản thân, không để mình rơi vào chỗ khó xử mà làm vậy. Không hiểu. Chỉ một điều chắc chắn rằng, do nghiệp đời của tôi chưa hết nên đã khiến cô hành xử như thế. Bởi với cái nhìn nhân quả, mọi tốt xấu trong đời đều từ mình mà ra. Việc tôi bị ghét kia cũng nằm loanh quanh đâu đó.   

Tôi bán sợi dây chuyền cho một người cùng phòng, bà cho tôi ăn cơm chung từ lúc mới vào. Món tiền không nhiều, nhưng đủ để tặng cho người phụ nữ bí tiểu một ít, phần còn lại đủ mua vé xe trở lại Sài Gòn và ăn uống dọc đường. Tôi chuẩn bị tinh thần cho một cuộc trốn viện khi nhân duyên hội đủ.

Rồi trời Phật cũng thương.

Ngay hôm sau, bà trạm trưởng bận công việc, đưa thằng cháu xuống canh trạm. Thằng nhóc bằng tuổi tôi hay ít hơn. Mặt khá thư sinh. Nhìn thấy nó, tôi nhớ lại lời của người cậu chồng, “Con có số nhờ đàn ông con trai, nhất là mấy tay nhỏ tuổi. Khi nào gặp nạn, tụi nó sẽ cứu con”. Bói toán không phải là thứ tôi thích. Không có việc đi coi bói. Chỉ là người cậu chồng tự phán, khi ông nhìn thấy tôi trong bữa tiệc từ giã gia đình. Lời nói bấy giờ trở thành chiếc phao cứu rỗi linh hồn tôi. Bám vào đó, tôi hy vong mọi thứ như lời người cậu đã nói.

Tôi lân la bắt chuyện. Rồi nói về tình cảnh sống dỡ chết dỡ của mình, nếu không về kịp Sài gòn trong nay mai, có thể tôi phải chết ở cái xứ khỉ ho gà gáy này. Nó động lòng bảo tôi trốn đi, nó sẽ canh cho tôi trốn. Thế là tôi trốn. Cứ lững thững thế mà đi, với chiếc quần rách, với thân thể gầy đuộc dơ bẩn và một khuôn mặt xám xanh.

Chiếc xe lam đưa tôi tới bến xe. Nhưng vé không còn bán. Xe chợ đen tôi không đu nổi. Chợ đen ngày đó không phải như bây giờ. Muốn lên xe phải đu theo một đoạn khá dài và phải đứng trong suốt hành trình đi. Đường Rạch Giá lại xốc vì đang làm đường. Dù có lên được xe, tôi cũng không đủ sức để đứng. Tôi đứng đó với tâm trạng dững dưng. Hoặc là chết tại bến xe này. Hoặc là người ta bắt tôi về lại trại giam. Vậy thôi.

Câu niệm Phật vẫn đều đều. Nó được niệm từ những ngày bắt đầu vượt biên. Mấy ngày ở trạm xá, còn trì thêm chú Bạch y và gọi cha suốt. Niệm và trì liên tục.      

Một người phụ nữ không quen biết ngoắc tôi lại. Trông bà có vẻ lam lũ. Hai đứa nhỏ thấy cũng nhếch nhác. Bà hỏi tôi đi đâu? Tôi nói về Sài Gòn nhưng hết vé rồi. Bà nói, “Tôi dư một vé đi Cần Thơ. Nếu em về Cần Thơ, tôi để lại cho giá chính thức”. Mô Phật, về Cần Thơ thì quá tốt rồi. Nhà dì tôi ở đó. Về đó vừa gần mà dì lại là nữ hộ sinh, thuận cho việc tôi đang cần. Tôi gật đầu mừng rỡ. Bà nói, “Nhưng lên xe, chịu khó bế bớt giùm tôi một đứa. Xe chạy rồi, tôi bế nó lui”. Tôi gật đầu, cầm tấm vé lên xe.

Trên xe, tôi ngủ thiếp đi hồi nào không hay. Không kịp suy nghĩ vì sao có một phụ nữ nghèo lại đứng đó chờ tôi, bán cho tôi tấm vé về đúng tuyến Cần Thơ với giá chính thức, trong khi có thể bán theo giá chợ đen v.v. Không kịp suy nghĩ gì hết. Chỉ biết ngủ vùi cho đến khi bị lơ xe gọi dậy. Người phụ nữ đã xuống xe tự bao giờ, không còn thấy tăm hơi.

Dì đón tôi với hai dòng nước mắt. Bác sĩ yêu cầu tôi bỏ cái thai. Tôi lắc đầu không chịu. Nói phải giữ cái thai cho tôi bằng bất cứ giá nào. Chỉ vì lý do khá đơn giản, huyết ra nhiều thế, tôi vẫn không đau bụng, cái thai vẫn không ra, cớ gì giờ yên ổn rồi lại móc nó ra? Bác sĩ gật đầu cho thuốc. Uống thuốc vào tôi nôn thốc nôn tháo. Một chút nước cũng nôn thốc ra. Chịu không nổi, tôi thều thào, “Gần đây có chùa nào không dì?” Dì như chợt tỉnh, “Có có, dì dẫn con đến đó uống thuốc”. Tôi gật đầu.

Thầy khoảng hai mươi, thanh tao, nhỏ nhẹ như con gái. Không cần khai bệnh, chỉ cần đưa tay cho thầy bắt mạch là mọi việc được giải quyết. Thầy nói, “Có thai mà yếu lắm. Uống mười thang để dưỡng thai. Khỏe rồi thì không cần uống nữa”. Uống thang đầu, tôi hết ói và nuôi con cho tới sau này.

Mọi việc đi vào quên lãng...

Cho đến khi tôi nhìn thấy hình Phật Bà Quán Âm với hai tiểu đồng bên cạnh, được chưng tại góc chánh điện chùa Đại Giác, bỗng dưng tôi nhớ đến hình người đàn bà nghèo khó và hai đứa bé. Một phụ nữ không giàu có nhưng lại bán cho tôi tấm vé giá chính thức. Bà lại là người chủ động gọi tôi và về đúng tuyến Cần Thơ. Một sự trùng hợp lạ lùng và khó hiểu, nhưng mọi việc đã xảy ra. Tôi tin Phật Bà đã hiện thân cứu tôi. Tin chắc như vậy. Càng tin vào việc niệm Phật và trì chú.

Cuộc đời cứ thế nổi trôi.

Khổ nhiều hơn vui.

Cho đến năm tôi 36 tuổi. Là lúc gặp được pháp của Hòa thượng Trúc Lâm. Nhờ thiền tập, bệnh suyển kinh niên biến mất. Mọi thứ thay đổi, từ tinh thần đến vật chất. Cuộc sống thấy an vui và khởi sắc nhiều hơn. Quan trọng nhất vẫn là sức khỏe. Thường con người yếu đi khi về già. Tôi thì ngược lại, sức khỏe thấy ngày một tốt hơn. Sáu mươi tuổi, không huyết áp, không đau nhức, không tiểu đường, cũng không có bệnh tật gì khác. Ăn ngon. Ngủ yên. Mấy ông Tây ở Canada cứ trầm trồ thán phục khi thấy tôi làm vườn, cưa cây, chẻ cũi, lát nền. Không phải phụ nữ dân ở đó không làm. Làm kinh lắm. Khỏe như đàn ông. Nhưng phụ nữ ở đó to, gân bắp, không nhỏ con như dân mình. Phụ nữ Việt Nam đi du lịch, chỉ thấy áo quần sum xoe, giày nọ, giày kia…, chẳng thấy ai cầm cưa đẩy đất như mình. Mình trở thành sinh vật lạ, họ thích. Hễ thấy cưa, họ lại ùa ra, nói cái gì đó, nhưng tuyệt đối không làm giùm. Cổ võ nhưng làm giùm thì không. Khổ là mình không hiểu chữ nào, chỉ nhăn răng cười cho qua chuyện. Họ cũng nhanh. Biết mình trung thành với ngôn ngữ mẹ đẻ rồi, thành ngôn từ nói ra chỉ còn tới lui trong hai chữ, nice hoặc good. Phấn khích nữa thì thêm chữ very đằng trước là xong. Mấy chữ đó thì hiểu, không khó.       

Khỏe quá, nên hai mươi mấy năm trời, chẳng khám định kỳ, chẳng kiểm tra sức khỏe. Chỉ một lần nhập viện vì cắm đầu ăn cho hết mớ đồ thiu.

Tu hành rồi, không thể quan trọng cái thân như người thường, hở chút là săn sóc. Nhưng bỏ mặc quá cũng là sai lầm, nhất là vào thời mà đồ ăn thức uống chứa đầy hóa chất. Mình lại là loài ăn tạp, có gì ăn nấy, ai cho gì cũng ăn. Thiu, nguội, nóng, lạnh, ngon, dỡ gì cũng ăn, trong khi một sự hiểu biết đúng đắn về ăn uống lại không có. Ăn ngon mà lại ăn khỏe thì ỷ y, không thèm chú trọng đến sức khỏe. Thành trong cái phước có cái họa là vậy. Thứ gì nuốt cũng thông, nên độc cho thân cũng nuốt. Khổ, thân là thân phàm nên cái quả liên quan với nhân liền xuất hiện.             

Tấm vé giá chợ đen

 Đi Canada về, thu xếp vài việc xong thì tôi nhập thất như dự định.

Ngày thứ hai, lúc nằm nhìn trời, tôi khám phá ra mình có một cục gì đó to như quả bưởi nằm ở bụng.

Đi siêu âm, ra một cục 12cm, với đầy đủ các yếu tố của một u ác tính.    

Bác sĩ hỏi, thấy cấn không? Không.

Tiêu, tiểu có bị gì không? Không.

Có ra huyết không? Không.

Có chướng bụng và ăn không tiêu không? Không. Tiêu tốt. Ăn nhiều. Ngủ bình thường.

Có sụt cân không? Không.

Vậy sao biết mà đi khám? Rờ thấy.

Ung thư thì thường vậy. Chẳng có triệu chứng gì!

Một kết luận khá đơn giản sau những câu hỏi đã đặt ra.

Tôi cũng nhận thấy điều đó ở những người cùng khám bệnh với mình. Người ra huyết, xỉu lên xỉu xuống, người chướng bụng ăn không tiêu, người cục bướu to đến 20 cm v.v., nhưng tất cả đều lành tính. Chỉ tôi là anh hùng. Cho đến lên tới bàn mổ, vẫn ăn được, ngủ được, chẳng hề chướng bụng, khó tiêu hay mệt mỏi, vẫn làm việc bình thường. Chỉ là … ác tính. Khổ, nhiều khi chỉ mong một cái bình thường như thiên hạ cũng không xong.

Nhiều người khuyên tôi nên ăn thực dưỡng bài số 7 và uống thuốc nam, đừng mổ.

Tôi thật tình không thích mổ. Thứ nhất vì tôi không biết gì về nó, chưa từng mổ bao giờ dù chỉ là một chút, lại là mổ hở, cắt bỏ quá nhiều thứ. Thứ hai, đọc tài liệu trên mạng, thấy khá khủng hoảng. Đau đớn và biến chứng là những thứ có thể phải đối mặt sau đó. Ông chú vừa mất do biến chứng sau khi mổ. Bà bạn cũng mất vài tháng trước đó, khi vừa ra khỏi phòng hồi sức. Rất nhiều thứ để thấy, mổ không phải là việc đơn giản với người già. Nhưng bảo ăn thực dưỡng và uống thuốc nam thì thôi, không theo. Bởi trong pháp giới của tôi (nói pháp giới của tôi, nghĩa là không hẳn nó đã có giá trị với pháp giới của người khác), chưa thấy ai dùng thuốc nam mà chống được ung thư, ngoại trừ những người đã điều trị ung thư mà bị trả về. Tức đã từng phải qua giai đoạn điều trị ung thư bằng hóa hay xạ trị. Không có các thứ đó, chưa chắc thuốc nam đã có hiệu nghiệm. Bản thân lại vừa chứng kiến thêm cái chết của hai người bạn. Một ung thư vú. Một ung thư hạch họng. Chỉ vì theo thuốc nam và ăn thực dưỡng. Người bạn ăn thực dưỡng bài số 7, sau đó suy kiệt và u vú xuất hiện. Con bé ung thư hạch, nhờ hóa và xạ trị, bệnh đã hết mười bảy năm. Đến khi tái phát, lại không vào bệnh viện mà theo thực dưỡng và uống thuốc nam. Khi trở lại bệnh viện thì cái u đã sần sùi và choán hết cả cổ. Bác sĩ chỉ biết lắc đầu, “Giá như khi tái phát, vào lại bệnh viện liền, hóa trị vài liều là xong”. Đó là những gì tôi chứng kiến trong pháp giới của mình.

Nếu tôi có thể thấy tận mắt, một người bị u nang ác tính được trị lành bởi một thầy thuốc nam hay bằng phương pháp thực dưỡng, tôi sẽ không chọn con đường mổ mà theo ngay vị lương y đó. Nhưng tôi chưa từng thấy được việc đó xảy ra trong pháp giới của mình. Chỉ thấy bất lợi và chết chóc vì đó. Không ai theo những bất lợi mà mình từng chứng kiến.    

Giáo pháp của Phật nói rằng, không tật thì không cần dùng pháp để đối trị, nhưng một khi đã có tật thì phải dùng pháp đối trị, tật mới hết. U nang đã hiện ra đó rồi, di căn và phát triển là việc khá dễ dàng vì tăng sinh mạch máu sinh phát mạnh. Giờ muốn trở lại bình thường, nhất định không thể để tự nhiên mà thành không, nên phải dùng thuốc đối trị. Mà thuốc làm tiêu cục u tức thì, y học chưa có, chỉ có phẩu thuật mới đưa nó về không, thành tôi phải chọn cách đó dù không thích. Trên đời này, rất nhiều thứ không thích mà vẫn phải làm. Thứ gì thích mà theo đó làm, chưa chắc đã tốt, có khi tai họa liền sau. 

Ngày mổ được bệnh viện ấn định, trước tết. Tôi nghĩ đến cái chết nhiều hơn là sống. Vì vọng tưởng, một khi có điều kiện xuất hiện thì chỉ loanh quanh với việc chết chóc. Lực hướng của vọng tưởng cứ thấy theo đà đó là mạnh. Đó là lý do tôi nghĩ mình tới số. Chỉ là, học trò, em út, con cái, tụi nó gõ mõ kêu Phật ngày đêm, ngay cả những đứa bình thường không nhìn tới Phật, giờ cũng chịu tụng kinh, niệm Phật, hy vọng bác hai lành bệnh, nên thấy thì thấy mà nói thì không dám nói. Sợ thiên hạ buồn, thiên hạ bỏ hết kinh kệ, chùa chiền. Chưa có gì hết mà khóc ôi là khóc. Mặt mày thấy thật thảm hại. Thành chỉ dặn chừng chừng vài chuyện và làm hết những gì cần làm nếu cái chết xảy ra, chẳng dám nói tới số rồi.

Ngày mổ bỗng dưng phải dời lại. Vì xuất hiện ông thầy dịch số. Cũng không phải bỗng dưng. Trên đời này mọi thứ đều có nhân duyên, không có chuyện bỗng dưng. Nhưng thôi, không cần nói đến nhân duyên ông xuất hiện. Chỉ biết ông đã xuất hiện và can thiệp vào ngày mổ của tôi. Thay vì mổ trước tết, ông bảo phải đợi qua tết mới mổ được. “Bệnh, khi cần mổ thì phải mổ, nhưng vào thời khắc nào lại là chuyện khác, không phải lúc nào cũng mổ được”, ông nói thế. Trước giờ, ông phán nhiều chuyện đúng quá, đúng trên từng cm, nên em út và bạn bè sợ. Họ muốn tôi dời ngày mổ như lời thầy dịch số nói.

U ác tính, mổ càng sớm càng tốt, dời lại cả tháng như vậy, việc di căn có khả năng tiến triển nhanh, chưa kịp mổ có khi đã mất mạng. Ai có kinh nghiệm với người thân từng bị ung thư, đều thấy sợ cho việc này. Tôi thì thấy hướng vọng tưởng khởi lên như vậy, nên trước hay sau với tôi không có gì khác nhau. Chỉ là sau tết, làm ma chay thuận tiện hơn, vì cuối năm có ma chay thì đầu năm cả nhà u ám. Thành dời sau tết thấy cũng hợp lý. Mọi người yên lòng là tốt.

Không phải tôi không tin kinh dịch. Tôi tin có tử vi và kinh dịch. Tin theo cách của tôi, không phải theo cách định mệnh của người đời. Tin mọi sự thông qua định nghiệp và bất định nghiệp của con người. Tin vận số có thứ chuyển được, có thứ không chuyển được. Trong cuốn Bạch Ẩn thiền định ca, ngài Bạch Ẩn cũng nhắc tên các quẻ dịch. Thành không thể không tin. Nhưng tử vi cũng như kinh dịch là thứ biến diệu khó lường, không phải ai coi cũng đúng. Và dù coi đúng chín mươi chín người, không có nghĩa là người số một trăm, coi cũng đúng. Coi đúng cho người này tất cả mọi việc, không có nghĩa đã coi đúng cho người khác, dù chỉ là một việc. Bởi mọi thứ đều không qua ải nhân duyên mà chủ chốt vẫn là phước nghiệp của mỗi người. Nếu duyên của tôi và thầy thuận, tôi có phước nghiệp biết trước được một số việc để tránh, thì thầy coi sẽ chính xác. Nếu duyên giữa tôi và thầy nghịch, mọi thứ sẽ đảo lộn, thầy không có khả năng coi chính xác việc của tôi. Và nếu duyên đời của tôi đến lúc chấm dứt, thì chính sự báo trước gọi là tốt đó có khi lại chính là cái nhân giúp nghiệp đời của tôi chấm dứt. Vì thế, dù tin kinh dịch và tin thầy, tôi vẫn phải lấy quyết định của bác sĩ điều trị làm trọng. Cứ thuận đó mà đi. Nếu xin dời ngày lại mà bác sĩ đồng ý thì dời ngày lại. Nếu không cho dời ngày thì không có vụ năn nỉ, phải y đó mà tiến hành. Mọi người đồng ý. Và lạ là, bác sĩ đã đồng ý rất nhanh ngay khi được hỏi, trong khi các cô điều dưỡng thì la toáng, “Dời ngày mổ lại như thế, u ác tính đã lớn và mạch máu tăng sinh đã nhiều, nếu vỡ ra không chết cũng di căn”. Ừ thì biết vậy, nhưng… bác sĩ đã đồng ý thì cứ theo đó mà làm.

Trước mổ vài ngày, tôi mộng thấy Phật Quán Thế Âm.

Tôi thấy mình đi qua một cây cầu, loại cầu bằng gỗ được chạm trổ rất tinh vi, trên phủ toàn mái gỗ như những lầu gỗ bên Trung Quốc. Cảnh chung quanh như chốn bồng lai. Bước lên cầu thì trời đang tối mà qua hết cầu thì trời đã sáng. Nhìn lên trời, thấy mây tụ thành hình Phật Bà. Tôi la lên, “Phật Bà! Phật Bà kìa!” La để mọi người cùng thấy. Miệng thì la nhưng trong đầu lại nghĩ, “Chỉ là mây tụ, chẳng phải hình thật”. Nghĩ vừa xong, Phật Bà hiện nguyên hình với tấm áo trắng viền xanh ngọc, tay cầm bình cam lồ, bay ngang trời và tưới cam lộ xuống thế gian. Chẳng phải mây tụ, là Phật Bà đã hiện.  

Thưởng ngoạn đủ rồi, tôi tính việc trở về...

Quay người, tôi thấy mình lang thang vào một khu đất trống, thênh thang, cỏ cây thưa thớt, đất trắng khô cằn. Chợt nhớ, khi đi có qua cầu, giờ về cầu đâu mà toàn đất trắng? Nhớ rồi, lội ngược ra tìm hướng có cầu mà đi.

Qua cầu thì tự do, nhưng trở về, không có tiền không về được. Phải có vé mới lên được cầu. Vì cầu này không phải đi. Chỉ cần ngồi là nó đưa đến tận nơi. Mà tôi thì không có đồng nào trong túi. Thói quen muôn thuở từ trước đến giờ là đi đâu cũng đi mình không, tiền bạc để người khác giữ. Giờ đi một mình, không có đồng nào trong túi. Chết dở.  

Nhìn thấy hai đứa bé đang mua vé qua cầu. Tôi bám theo. Năn nỉ. Chúng lắc đầu. Tôi vẫn bám theo lên cầu. Năn nỉ. Hóa ra chúng mua cho tấm vé rồi mà không nói, cứ thế mà im lặng lên cầu.

Thằng bé đưa tấm vé ra với một giá khá cắt cổ, gấp hai mươi lần so với giá chính thức, hỏi chịu không? Đương nhiên là chịu. Vui vẻ mà chịu và cám ơn. Đời có nhiều oái ăm như thế. Dù phải trả một giá khá đắt, trong lòng vẫn thấy vui. Vui vẻ lấy kẹo ra mời. Chúng chẳng từ chối. Ăn quá là ăn.   

Tỉnh dậy, biết Phật Bà cứu mình lần nữa. Không chết mà sống. Trở về rồi đó. 

Chợt nhớ tới tấm vé năm xưa ở bến xe Rạch Giá.

Lúc đó trong túi có tiền, lại được mua vé với giá chính thức. Giờ không có tiền, lại phải mua vé với giá chợ đen. Thật ra không phải không có tiền, chỉ là không mang theo. Một thói quen không mấy tốt được nhắc lại trong giấc mơ. Vì việc quên đó, khá nhiều lần tôi đã bỏ qua những thiện nghiệp đáng phải làm.

Chỉ một việc hơi lạ, giờ cũng chưa hiểu được nguyên nhân, là tôi đã vào phòng mổ với một tâm trạng khá an lạc. Bình thường cũng không được trạng thái tâm như thế. An lạc đến nổi nghĩ rằng “Ra đi vào lúc này là rất tốt, cảnh giới kế tiếp của mình nhất định lành, không phải đối diện với những đau đớn do mổ xẻ cũng như hậu quả do ung thư gây ra sau này”. Nhưng nghĩ gì thì mọi thứ đã được định đoạt. Phật Bà đã tưới cam lộ. Trong cơn mộng mị, không phải tôi đã theo năn nỉ hết nước hết cái để được tấm vé trở về, dù phải trả một giá khá đắt đó sao.  

Tôi ngủ thiếp đi trong trạng thái hạnh phúc đó.

Với người này, ca mổ là mấy tiếng đồng hồ. Với người kia ca mổ chỉ là tích tắc. Thuốc mê. Chỉ còn hai đầu mút ngủ và tỉnh. Còn lại, có mà như không. Y học tiến triển, bác sĩ giỏi và có lương tâm v.v. là một trong các phước báu của người thời nay. Vấn đề là mình có đủ phước để hưởng không, hay nó trở thành tai họa với mình, chỉ vì mình thiếu phước.     

Đúng là mọi thứ trên đời đều không ra ngoài hai chữ tùy duyên.

Thể thì không, tùy căn nghiệp của từng người mà thành có, không ai giống ai. Mổ, thì thông tin trên mạng ghi đủ mọi thứ đau đớn, biến chứng, nhưng tùy phước nghiệp của từng người mà kẻ bị thế này, người vướng thế kia, không người nào giống người nào. Không phải cứ có mổ là có đau, có biến chứng, có ung thư là có khổ nạn. Không phải. Mọi thứ đều tùy duyên, tùy theo căn nghiệp của từng người mà thọ báo.

Việc đó cũng nhắc mình nhớ đừng bao giờ rời bỏ thiện nghiệp. Dù bạn chưa đủ điều kiện thực hành định tuệ thì cũng nên giữ gìn giới nghiệp sao cho tốt. Giới, chính là nhân duyên đưa đến phước báu giúp chuyển hóa báo nghiệp rất nhiều. Nó là thứ giúp mình không bệnh nạn. Nếu có bệnh nạn cũng thành không. Lợi ích cho tha nhân càng không nên bỏ sót. Bởi lợi ích mà bạn nhận được là chính từ tha nhân mà ra.     

Tôi tỉnh dậy là do nghe tiếng mình hét, “Đau quá! Buồn nôn quá!” Không biết có hét thật không hay chỉ là cái cớ để mình thoát mê, nhưng đúng là nhờ nó mà tôi tỉnh lại. Nghe rồi liền khởi niệm, “Chưa chết, còn sống”, rồi tỉnh hẳn. Việc đầu tiên là nôn cho hết những thứ cần nôn. Việc thứ hai là sờ quanh bụng xem có dây nhợ gì lòng thòng ra không. Không. Chưa di căn.           

Mổ xong, đau thì hoàn toàn không. Quên uống giảm đau cũng không đau. Dù là mổ hở và cắt bỏ toàn bộ tử cung, buồng trứng, thêm một mớ gì đó bầy nhầy theo sau, đủ đảm bảo cho bệnh ung thư không tái phát.

Chẳng phải chỉ mình tôi là thế. Nhiều người, tuổi lớn hơn tôi khá nhiều, vết mổ dài gấp đôi, mà họ cũng không đau, vết thương lành nhanh chóng, khỏe mạnh, bình an, vui vẻ… Vô đây, mới thấy phụ nữ Việt Nam anh hùng. Mình như con nhà giàu, đứt tay thấy sợ. Họ mổ xẻ như cơm bữa, cũng chẳng có điều kiện như mình, vẫn tỉnh bơ. Có người mổ đến lần thứ tư. Hỏi sợ không? Nói sợ thì sợ mà mổ thì mổ, không lý để chết. Ừ, không lý để chết. Tôi thì chỉ mong mổ một lần, dù không phải trải qua đau đớn hay sợ hãi. Phần chấp ngã của thức Mat-na bên trong chưa thanh tịnh hẳn, nên tâm chưa thể bình đẳng đối với sống chết, nạn bệnh v.v. Có điều kiện thì vẫn chọn lựa. Không chọn lựa được mới đành theo. Hì.

Người không đau, thấy nhiều. Người đau thê thảm, thấy cũng nhiều. Người thì đau, không thể ăn uống, đau đến nỗi cắn cả vào môi, chảy máu. Người cũng đau mà chút chút. Người lúc đau, lúc không… Muôn hình vạn trạng dù tình cảnh như nhau. Mới thấy, cùng một việc mổ mà tùy căn nghiệp và phước báu của từng người, không ai giống ai.  

Ung thư cũng vậy. Nghe đến ung thư là thiên hạ vãi hồn, cứ như cầm chắc cái chết trong tay. Cứ thấy đau đớn, mệt mỏi, gầy yếu, tiều tụy là việc không ai có thể tránh khỏi. Thực tế, không phải ai bị ung thư cũng như vậy. Cùng một loại thuốc truyền vào, người ói, người không ói, người đau, người không đau, người mệt, người không mệt, có kẻ nằm liệt giường liệt chiếu mà có kẻ vẫn đạp xe tà tà dạo mát. Tùy cơ địa của từng người mà cho kết quả không như nhau. Đó là việc tôi chứng kiến từ ngoài đường vô đến bản thân. Tức tùy phước nghiệp của từng người mà có báo nặng hay báo nhẹ. Chết hay sống cũng từ phước nghiệp mà ra. Mình thấy bệnh mà chết là thở dài, phiền não, cho là thiếu phước. Phu nhân Ma-gia sinh Phật xong liền từ giã cõi trần, là do phước, chẳng phải họa. Thành cứ y tướng mà luận tánh thì khó tránh sai lầm. Đã luận thì phải y duyên mà luận. Y duyên mà luận thì luận đến bao giờ mới xong? Duyên người này khác, duyên người kia khác, khó có thể lấy duyên người này áp đặt lên người kia. Duyên lúc này khác, duyên lúc kia khác, khó có thể biết thực sự bệnh nhân đang bị thế nào. Chưa kể duyên chỉ mới là phần phụ, còn phải biết nhân mới luận được. Nhân của mình, mình chưa thấu, sao có thể thấu được nhân của người mà luận tới luận lui? Chi bằng đừng luận. Với vạn pháp, bớt suy luận, bớt ý kiến chủ quan là tốt. Tập ghi nhận hơn là suy luận hay phán xét. Ghi nhận thì việc thế nào ghi nhận đúng thế ấy. Tâm mình bớt loạn mà người cũng đỡ khổ khi họ phải đối diện với tâm vọng tưởng của mình.

Chánh kiến luôn cần thiết

Khi viết bài này, tôi chỉ còn đánh thuốc lần nữa là xong. Khi bài được đăng, việc đánh thuốc cũng xong rồi. Kết quả thế nào, đợi lúc đó mới biết, giờ chưa thể khẳng định. Bởi quanh tôi, khá nhiều thể dạng đã xảy ra. Người hơn mười năm rồi, chưa tái phát. Người mười chín năm rồi cũng không sao. Người bệnh viện trả về dù đã đánh sang toa cuối. Người mới mấy tháng đã quay lại bệnh viện v.v. Rất nhiều thể loại hiện ra trong pháp giới của tôi. Tất cả đều có nhân duyên. Có loại nhân duyên có thể nhận ra trong hiện đời. Một trong các nhân duyên đó là do ăn uống. Có cả việc uống thuốc nam và thuốc bắc. Bác sĩ không biết việc này. Chỉ tôi biết. Vì tôi moi và họ khai ra. Moi, để hiểu vì sao bệnh tái phát. Tránh sai lầm cho mình và người sau này.

Nói đến nhân duyên hiện đời là nói những thứ mà bản thân mình nếu đủ chánh kiến và biết hạn chế khẩu vị, thì vẫn có thể chuyển được cái gọi là bất định nghiệp. Còn gốc chính vẫn là sát sinh. Giới này cần phải giữ gìn để hiện tại và đời sau không chiêu cái quả chết yểu hay bệnh tật. Giới này nếu buông tuồng thì việc gìn giữ khẩu vị hoặc có một sự hiểu biết đúng đắn về ăn uống cũng không làm gì được.

Năm tôi mười tuổi, người cô ruột mất. Mấy ngày sau, tôi thấy bà về, ngồi trên phần mộ của mình, cười ha hả, miệng có thêm hai cái nanh, nói với tôi rằng, “Sau này mày bị ung thư tử cung”. Thức dậy đem chuyện kể mọi người nghe, không biết ung thư tử cung là gì nhưng bốn chữ đó in sâu vào tiềm thức. Theo thời gian, công việc lu bu mà thành không nhớ, cho đến khi rờ thấy cục u trong bụng.

Mười ba tuổi, thiêu luôn một cuốn sách mối. Biết đạo rồi, việc sát sinh không lặp lại, nhưng gần đến ngày phát bệnh, mối đâu ùn ùn xuất hiện, ăn nguyên cái bếp... Dù không có tâm giết hại, nhưng chưa đủ tâm sống chung với nó, nên phải dọn dẹp, cũng không tránh được giết hại. Báo nghiệp sát sinh đã được báo trước, giờ duyên đưa đẩy như thế, coi như đủ duyên để quả xảy ra. Nhưng duyên khiến cục u trở thành ác tính, là do ăn uống. Ăn đường, bánh ngọt, đồ nguội, đồ thiu v.v. Khi ở Việt Nam không phải không có, nhưng với mức độ hạn chế. Vì mình có thể giải quyết những thứ dư thừa và tránh cái nhân đưa đến hôi thiu. Chỉ khi qua Canada, những gì liên quan đến đường xuất hiện quá nhiều, đồ thiu lại tăng gấp bội, toàn dầu và béo. Không thể mang cho, không thể không nhận, vừa nể tình, vừa không muốn đổ đồ ăn, nên dù không mấy vừa miệng, vẫn nuốt. Phước ăn uống có, nên thiu bao nhiêu cũng tiêu. Khổ, thân mình là thân phàm, không phải như Tổ Bồ Đề, đổ thuốc độc vô mà không can hệ. Nó tiêu, nó nuôi cái khác, vì nhân đã có. Trong các bộ luận, chư Tổ khuyến cáo không ăn đồ thiu. Mình nghĩ mình ngon, mình dụng cái nhân không đúng cái quả, nên thành như thế. Có những sai lệch trên mặt tư tưởng, dẫn đến hành vi, và hưởng cái quả rất có giá trị. Đủ rút kinh nghiệm dài lâu. Đủ có bài học để đời. Ngày xưa Đế Thích giả quỷ, cho Phật một nửa bài kệ. Cho rồi, đòi lấy thân Phật mới cho nửa sau. Phật đã gieo mình nhận kệ. Đúng là có khi phải dùng thân mạng trao đổi, mới thấu được hết pháp giới nói gì. Pháp chi mà hay! Chỉ khác, Phật thì tự nguyện, mình bị đẩy vô bởi cái ngu si của mình. Cũng được. Một sự trao đổi không mấy luyến tiếc. Vì bệnh cũng bệnh sơ sơ. Đủ rút kinh nghiệm cho đời tốt hơn.    

Một tháng thay đổi lịch mổ, u không tăng trưởng, ác tính gói gọn trong u, là nhờ thay đổi chế độ ăn uống. Trở lại mức ăn rau củ bình thường, gạo lức, các hạt, không đụng đến đường, không ăn đồ béo, không uống nước đá.  

Cho nên, tốt nhất là không gây nhân. Gây rồi, tạo duyên giữ giới, tu hành v.v. thì chuyển được nghiệp. Họa dù có, nhưng họa vẫn là phước, thọ khổ không nhiều. Ngày đầu vào viện, nghe tôi ăn chay, thiên hạ la làng. Vì thương không phải ghét. Họ sợ mình không đủ máu, không thể đánh thuốc tiếp. Không hiểu rằng, chay có cái lợi của chay. Mức tiêu thụ bình thường thấp mà vẫn khỏe thì khi thiếu hụt, nhu cầu cung cấp không cần nhiều. Chỉ cần những ngày không nhai được cơm, xay cháo gạo lức với rau củ quả đổ vô là xong, thêm linh chi là đủ. Họ không biết, bình thường ăn nhạt quen rồi thì khi có bệnh, không phải cực khổ với việc thay đổi khẩu vị. Thuốc đánh vào, chua liền thành đắng, ngọt lại thành chua, nghe mùi nước hoa còn nôn, nói là chiên, xào, thịt, cá? Có điều, có vị mới có biến vị. Không vị trước cũng như sau. Cháo xay nhuyễn, không muối cũng không vị, cứ thế đổ vô là yên. Người thiếu máu hoài, rớt toa. Hỏi tôi ăn gì mà đủ? Tôi nói vậy đó. Vậy mà làm ra, không nuốt trôi được. Tại vì mùi vị quen rồi, chua, cay, mặn, đắng đã quen.

Thương thì cũng chỉ biết nguyện. Nguyện mọi an lành đến với thế gian. Người người biết đạo, giữ giới tu hành, tu tạo thiện nghiệp để đời bớt khổ. Nguyện cho ai cũng đủ máu đánh thuốc v.v. Chỉ biết nguyện vậy. Chẳng dám nói gì. Đang bệnh mà còn dạy đời, chỉ khiến người ta thêm khổ. Ích gì!  

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle