VỀ “ĐỘC CƯ,
THIỀN ĐỊNH,
KHAM NHẪN, TRI
TÚC” TRONG MÙA “CÔ-VI
19”
BS. Đỗ Hồng Ngọc
Cảm ơn bạn đã hỏi
thêm câu mình nói hôm
trước: Thời buổi “Cô-Vi
19” hoành hành khắp
thế giới này, thì
với những người đã có
“tuổi hơi cứng” như tụi
mình nên
thực hành các
hạnh Độc
Cư,
Thiền Định,
Kham Nhẫn,
Tri Túc mà
Phật đã dạy từ hơn hai
ngàn sáu trăm năm trước
để có một
nếp sống
An Lạc và
Hạnh Phúc.
Thực ra không chỉ
với bọn mình
mà cả những người
bạn trẻ cũng nên học để
có một cuốc sống an vui,
mạnh khỏe, không
mắc phải những thứ bệnh
“thời đại” là những bệnh
như S.A.D (Stress:
căng thẳng;
Anxiety:
Lo âu,
sợ hãi;
Depression: Trầm cảm),
hay “3 cao 1 thấp” (3
cao là Cao đường, Cao mỡ,
Cao máu và 1 thấp là…
Thấp khớp) cùng rất
nhiều các thứ bệnh khác
do
hành vi
lối sống gây ra…
Độc Cư
là “Ở
một mình” “sống một mình”.
Lúc dịch bệnh
tràn lan
như vầy thì
lời khuyên tốt
nhất là nên “ở nhà một
mình” (Home Alone, nhớ
không?).
Mọi người nên
Stayhome trong
“Homestay” của mình. Bất
đắc dĩ mới phải ra đường
khi
cần thiết, và
phải luôn đeo khẩu trang
để tránh lây bệnh cho
người khác và cũng để
nhắc nhở mình đang mùa
có dịch.
Độc cư nhiều khi
dễ
căng thẳng,
buồn chán, dễ
gây lộn, dễ “phá
thành sầu” bằng chai
alcool (không phải để
sát khuẩn) mà để sinh sự
cho sự sinh.
Phật
giảng một bài rất hay
trong kinh “Người
biết sống một mình”
nhớ không? Đó là người
sống với cái Tâm tĩnh
lặng,
trong sáng, không
bị “trôi lăn” (cuốn) vào
dĩ vãng hay tương lai
bởi “dĩ vãng đã qua rồi/
tương lai thì chưa tới”.
Họ
an nhiên
tự tại với “ở đây
và bây giờ” (here and
now).
Một
người chui vào phòng kín,
nhập thất, hoặc
lên núi cao cất cái chòi
nhỏ… để sống mười năm
chưa chắc đã là “độc cư”
bởi trong lòng còn
mang mang : quân
tử
trả thù mười năm
chưa muộn… nhớ không?
Thiền định
Một
người bạn phương xa vừa
gởi mình tấm hình này,
rất
dễ thương. Tự nó
đã nói lên nhiều điều.
Xin được chia sẻ:
Internet
“Nếu
anh không thể đi ra
ngoài được thì hãy đi…
vào trong”
Dĩ nhiên đây là
nói về thời “Cô-Vi 19”
với
lời khuyên phải
“cách ly”, người cách ly
người, nhà cách ly nhà,
phố cách ly phố…
Chớ
còn
hồi xưa, thời
Xuân Diệu:
Có
một bận em ngồi xa anh
quá,
Anh bảo em ngồi
xích lại gần hơn.
Em xích gần thêm một
chút: anh hờn.
Em
ngoan ngoãn xích
gần thêm chút nữa.
Còn
Trịnh Công Sơn thì khéo
hơn:
Xin em
ngồi yên đấy
Tôi tìm cuộc tình cho…
Ngồi yên,
đi vào trong (go
inside)…
dĩ nhiên không
phải là
Thiền định rồi.
Lục tổ Huệ Năng
bảo: Ngoài không dính
mắc là Thiền/
Trong không lay động là Định.
Vậy thì đi đứng
nằm ngồi gì cũng thiền
cũng định. Đi ra ngoài
đi vào trong gì
cũng thiền cũng định.
Còn
Trần Nhân Tông
thì bảo:
Đối cảnh
vô tâm mạc
vấn thiền
Trước cảnh mà tâm
vẫn an, vẫn tịnh, thì
chẳng cần hỏi tới Thiền
làm chi!
Chẳng
qua vì tâm ta
như khỉ như vượn
(tâm
viên ý mã), dính
mắc
tùm lum nên mới
vất vả
lao đao bao điều.
Cho
nên để có thể có tâm
an tịnh, thiền là
một cách thế trong rất
nhiều cách thế.
Tụng kinh
niệm Phật mà
đạt đến “nhất tâm
bất loạn” thì cũng là
Thiền.
Tĩnh tâm
cầu nguyện với
lòng từ bi rộng
mở thì cũng là thiền.
Và tinh
cần,
chánh niệm,
tỉnh giác, cũng
là thiền, một cách
căn cơ nhất.
Chánh niệm
(Mindfulness) dẫn đến
chánh định
(Samadhi), từ đó mà có
Chánh kiến, chánh
Tư duy… trong
Bát chánh đạo
vậy.
Ngày
nay, y học và
tâm lý
trị liệu, phân
tâm học, cũng
nghiên cứu
ứng dụng Thiền để
chữa trị những thứ bệnh
thời đại. S.A.D,
nghiện ngập,
rối loạn
chuyển hóa,
rối loạn
thần kinh
thực vật,
rối loạn hành vi…
đã mang lại nhiều kết
quả
khả quan.
Dĩ nhiên, đó chỉ
mới là phần
ứng dụng của
Thiền, chưa phải là
thiền
Phật giáo, được
hướng dẫn kỹ trong
Tứ niệm xứ
(Satipatthana).
MBSR
(Mindfulness-Based
Stress Reduction) và
MBCT (Mindfulness-Based
Cognitive Therapy) là
những
ứng dụng
thiền học tốt.
Dù
sao, thiền cũng là cách
giúp mình được
an nhiên, tự tại…
ít nhiều trong
tình hình đầy
hoang mang
căng thẳng lúc
dịch bệnh đang hoành
hành.
Thiền
còn giúp ta “quay về
nương tựa chính mình”,
nhìn lại mình xem đã bao
lâu rồi tất tả ngược
xuôi, rượt đuổi với bao
“tham lam,
sân hận,
si mê,
tà kiến, kiêu
mạn…”
Cho
nên “If you can’t go
outside, go inside”,
cũng là một nhắc nhở tốt
phải không?
Kham nhẫn
Kham
là chịu, nhẫn là nhịn.
Tục ngữ ta có
câu: một sự nhịn chín sự
lành.
Trong
các
yếu tố khiến
“kham không nổi” thì
“khẩu” (Lời
nói) là
yếu tố quan trọng
nhất. Đã đành “ý dẫn các
pháp”, nhưng ý chưa
thể hiện thành
hành vi. Khẩu mới
ầm ỉ, náo nhiệt, là đầu
mối sinh sự, gây chiến!
Cho nên Phật dạy con
mình là
La Hầu La rất kỹ
về “khẩu nghiệp”: Không
nói dối, không
nói
thêu dệt, không
nói hai lưỡi, không nói
lời hung ác… Rồi dạy con
phải
học hạnh của Đất
để “nhẫn”: ném một thỏi
vàng hay một đống rác
xuống đất, đất vẫn «
như như bất động
»…
Nhưng
nhẫn đến như Phật đối
với
Đề Bà Đạt Đa thì
quá khó!
Đề Bà Đạt Đa là
em chú bác của Phật,
cũng
tu hành đàng
hoàng nhưng lòng tham
quá lớn, muốn thay Phật
lãnh đạo
tăng đoàn, từng
ném đá
giết Phật, từng
khiến voi giày Phật, còn
xúi giục con vua giết
vua, chiếm ngôi v.v…
Vậy mà
Đề Bà Đạt Đa được
Phật
ca ngợi hết lời.
Hãy nghe Phật kể « công
đức » của
Đề Bà Đạt Đa : «
Do nhờ ông
Thiện tri thức
Đề Bà Đạt Đa này
làm cho ta đầy đủ sáu
pháp ba-la-mật,
từ bi
hỷ xả,
mười trí lực, bốn
món
vô sở úy, bốn món
nhiếp pháp, mười tám món
bất cộng… và nhờ đó mà
ta thành bực Chánh đẳng
Chánh giác… ». Nói
khác đi, nhờ có sự “đối
nghịch” như
vậy mà Phật mới
nhẫn nhục,
tinh tấn, để
trở thành vị
Chánh đẳng Chánh giác.
Đề Bà Đạt Đa xứng
đáng là một
Thiện tri thức,
một vị
Bồ tát “nghịch”
bên cạnh Phật đó chứ! Và
ngày nay ta cũng cần
những vị Bồ-tát “nghịch”
như thế.
Nhưng
“kham nhẫn” trong
lời khuyên của
Phật thì không chỉ là sự
chịu đựng, “nhịn
nhục” với cái đáng giận,
đáng ghét mà còn
phải “kham nhẫn” cả với
những đường mật, mê say
vì dễ dẫn ta tới
tham ái,
chấp thủ.
“Kham
nhẫn” với giận với hờn
còn dễ hơn
kham nhẫn với
nhớ, với thương, phải
không?
Tri túc
Tri túc là Biết
đủ. Nhưng thế nào là
đủ? Làm sao để biết đủ?
Lòng
tham vốn
không đáy. Lúc
nào cũng muốn muốn muốn.
Nào vạn tuế vạn vạn tuế,
nào muôn năm trường trị,
nhất thống
giang hồ,
trường sanh bất
tử…
Mà
càng tham thì càng thấy
thiếu. Người đẹp muốn
đẹp hơn. Người giàu muốn
giàu nữa. Người quyền
chức thì muốn càng cao
thêm mãi.
Nguyễn Công Trứ bảo:
Tri túc tiện túc,
đãi túc hà thời túc?
Biết đủ thì đủ! Đợi đủ
bao giờ mới đủ? Bao giờ
nghĩa là… còn lâu!
Ưng
Bình Thúc Giạ Thị thì
bảo trên
con đường hoạn lộ:
Biết đủ dầu không chi
cũng đủ
Nên lui đã có dịp thì
lui…
Cho
nên
Tri túc luôn đi
đôi với
Thiểu dục. Thiểu
dục Tri túc.
Bởi người it
ham muốn thì may
ra mới thấy là đã đủ,
nghĩa là thôi, đủ rồi
đó!
Có
một cách “tri túc” hay
là đừng bao giờ
so sánh. Đã có
so sánh thì có
hơn thua. Hơn cũng khổ
mà thua cũng khổ. Ngang
bằng càng… khổ!
Thiểu dục Tri túc không
có nghĩa
ngăn cản sự
tiến bộ của
xã hội, của
con người.
Dĩ nhiên là
tiến bộ theo
hướng thiện, không làm
khổ mình, khổ người, mà
chỉ là để
ngăn ngừa lòng
tham
không đáy, “ích
kỷ hại nhân”, để có được
một đời sống
an lạc,
hạnh phúc.
Nhưng, nói thì dễ, mà
làm thì không dễ chút
nào bạn ơi!
Thân mến,
Đỗ Hồng Ngọc.
2.4.2020