Những vấn đề liên quan đến Pháp và Tăng: Cần nhiều giải pháp đồng bộ
Những vấn đề liên quan đến Pháp
Những vấn đề liên
quan đến Pháp và Tăng: Cần nhiều giải pháp đồng bộ
Thích Hạnh Chơn
Nói đến đạo Phật, ai
cũng phải thừa nhận ba nền tảng quan trọng tạo nên đạo Phật là Phật, Pháp và
Tăng, được gọi là Tam bảo. Khi Đức Phật còn tại thế, Phật và Pháp luôn ổn định
và xuyên suốt nhất quán vì có Bậc Đạo Sư soi sáng và xác chứng giáo pháp được
nói ra. Chỉ có Tăng là có vấn đề nên các giới luật được chế ra để điều chỉnh
hành vi sai lệch của các cá nhân. Sau khi Đức Thế Tôn tịch diệt, bên cạnh những
vấn đề liên quan đến Tăng, còn có vấn đề liên quan đến Pháp. Vấn đề của Tăng
liên quan đến đạo đức, oai nghi, đến Tăng giả, quản lý Tăng... được Phật chế
định các giới luật để làm căn cứ xử lý. Còn vấn đề về Pháp, phần lớn sự khác
biệt đều dựa trên niềm tin chứ không phải giáo pháp căn bản mà mọi trường phái
Phật giáo đều công nhận như Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Vô ngã... Ngày nay,
những vấn đề ấy vẫn đang tồn tại trong Phật giáo Việt Nam và chưa có giải pháp
cụ thể nào từ Giáo hội - cơ quan quản lý Tăng Ni duy nhất ở Việt Nam xét về nội
bộ. Những vấn đề ấy là gì và phương hướng xử lý ra sao? Ở đây, người viết xin
mạo muội có vài gợi ý được rút ra từ kinh nghiệm của các nước Phật giáo Nam
truyền.
Thứ nhất nói về vấn đề
liên quan đến Pháp. Giáo pháp của Đức Phật về căn bản vẫn được thực hành đúng
như Đức Phật đã dạy gồm những giáo pháp về Tứ đế, Thập nhị nhân duyên, Vô ngã,
Vô thường, Nhân quả... Tuy nhiên, những giáo lý liên quan đến niềm tin thì không
được thống nhất và có lẽ chỉ tồn tại ở các nước Phật giáo phát triển.
Cụ thể, Báo Giác Ngộ số
997 và số 1017 nêu vấn đề “Giáo hội cần chấn chỉnh những giảng sư nói sai kinh
điển hay không có địa ngục”. Vấn đề Báo nêu nhân trả lời câu hỏi của bạn đọc là
có những giảng sư nói không có địa ngục với lý giải rằng địa ngục được thêm vào
khi kinh điển được hình thành ở các thời kỳ sau khi Đức Phật Niết-bàn. Bài báo
dựa vào kinh điển nói rằng vấn đề địa ngục được ghi chép trong kinh Nikāya và
Đại thừa nên cho rằng các vị giảng sư không thể tuỳ tiện phủ nhận điều này và
kính đề nghị Giáo hội quan tâm chấn chỉnh. Bài báo cũng gợi mở rằng những khám
phá của các vị giảng sư nếu đúng thì chỉ được công bố khi có hội đồng Phật giáo
quốc tế thẩm định. Khi chưa được thẩm định, giảng sư công bố sẽ làm hoang mang
cho tín đồ Phật tử nhất là những vị sơ cơ. Ý kiến đề xuất của bài báo là sự cẩn
trọng cần thiết cho đoàn thể Tăng và Phật giáo nói chung.
Báo Giác Ngộ số 1014
nêu vấn đề đới nghiệp vãng sanh nghĩa là mang theo nghiệp mà vẫn được vãng sanh
về hạ phẩm hạ sanh của Cực lạc, nhờ nương vào nguyện lực của Phật A Di Đà. Vấn
đề này chỉ tồn tại ở các nước có tín đồ tu theo tông Tịnh Độ. Nếu dựa vào kinh
A Di Đà, kinh Quán Vô Lượng Thọ, và kinh Vô Lượng Thọ thì
phần lớn nghiêng về tiêu nghiệp vãng sanh như báo đã phân tích. Tuy nhiên, kinh
A Di Đà cũng có đoạn niệm Phật nhất tâm bất loạn thì khi lâm chung được
Phật và Thánh chúng tiếp dẫn vãng sanh Tây phương Cực lạc và kinh Vô Lượng
Thọ thì nói chỉ cần niệm danh hiệu Phật mười lần thì nhất định được vãng
sanh nhờ nguyện lực gia trì của Phật A Di Đà. Nhiều giảng sư đã phản bác tín
niệm đới nghiệp vãng sanh khi đưa ra các tiêu chí trong kinh A Di Đà và
kinh Vô Lượng Thọ và căn bản vẫn là giáo lý nhân quả.
Trong khi các giáo pháp
căn bản Phật dạy như Tứ đế thống nhất xuyên suốt thì các kinh Đại thừa như vừa
nêu lại có sự bất nhất. Lý do là có yếu tố tha lực xen vào và được lý giải là
Đức Phật và Bồ-tát vì lòng từ bi cứu độ chúng sanh.
Bên cạnh đó, người tín
đồ Phật giáo còn được truyền bá tư tưởng dựa vào điểm nóng để biết được vãng
sanh qua bài kệ: “Đảnh thánh nhãn sanh thiên, nhơn tâm ngạ quỷ phúc, bàng sanh
tất cái ly, địa ngục cước môn/phản xuất”. Bài kệ có nghĩa là khi chết, thân thể
nóng ở vị trí nào thì sẽ sanh cõi tương ứng như nóng ở đỉnh đầu sinh về cõi
thánh, ở vùng mắt sinh cõi trời, ở vùng ngực sinh ở cõi người, ở vùng bụng sinh
ngạ quỷ, ở đầu gối sinh vào súc sanh và ở lòng bàn chân sinh vào địa ngục. Quan
điểm này căn cứ dựa trên luận Câu-xá, luận Du-già-sư-địa và
Pháp uyển châu lâm. Thế thì cõi thánh là cõi ở ngoài sáu cõi (trời, người,
a-tu-la, ngạ quỷ, súc sanh, địa ngục), là cõi riêng hay là cõi của một Đức Phật?
Trường hợp các bậc Thánh A-la-hán thì kinh ghi là “Sanh
đã tận, phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng
thái này nữa” thì khi tịch diệt thân các ngài nóng ở đâu hay là ngoại lệ?
Trong kinh Đại bát Niết-bàn, Đức Phật có dạy cho ngài A-nan-da và cũng
cho tất cả các đệ tử là sau khi Thế Tôn nhập Niết-bàn (tịch diệt) các thầy hãy
căn cứ pháp và luật làm thầy. Như vậy, pháp và luật là cơ sở, là nền tảng để các
đệ tử, tín đồ nương theo tu tập vì đó là kim chỉ nam dẫn đường đúng đắn. Thế
nhưng, sau khi Phật Niết-bàn kinh điển mới được ghi chép và có rất nhiều kinh,
luận được thêm vào thì dựa vào đâu để làm căn cứ tin cậy. Về học thuật nghiên
cứu, tài liệu gốc được ưu tiên sau đó mới xét đến các loại tài liệu kế tiếp.
Trong tu tập, kinh điển được Phật nói và được đại đa số tôn đức, học giả thống
nhất dựa trên nền giáo pháp căn bản của đạo Phật thì phải nên được ưu tiên làm
căn cứ.
Đối
với các vấn đề liên quan đến Pháp, giải pháp được các nước Nam truyền làm khá
bài bản và thành công là dựa trên Tam tạng kinh điển Pāli. Tam tạng kinh là tiêu
chuẩn, là thước đo đúng sai khi một vị giảng sư thuyết giảng. Nếu một vị giảng
sư nói không có căn cứ trong Tam tạng kinh điển thì hội đồng Tăng-già có thẩm
quyền mời đến xử lý. Do đó, rất hiếm khi có trường hợp mâu thuẩn về giáo pháp,
giáo lý ở các nước Phật giáo Nam truyền.
Đối
với Phật giáo Việt Nam, bên cạnh Tam tạng kinh bằng tiếng Pāli còn có thêm Tam
tạng kinh bằng chữ Hán. Khi dịch sang tiếng Việt, Phật giáo Việt Nam có hai
nguồn Tam tạng kinh điển. Để làm cơ sở căn cứ tu học đúng Chánh pháp cho tín đồ
người Việt, Giáo hội đang trong quá trình hoàn thiện Đại tạng kinh tiếng Việt.
Trong quá trình phiên dịch, Giáo hội cần có một hội đồng thẩm định chọn lọc kinh
điển phù hợp với giáo pháp của Đức Phật để phiên dịch và in ấn. Những kinh điển
có quan điểm sai biệt nên hạn chế và chỉ để tham khảo nghiên cứu hơn là áp dụng
phổ biến cho tín đồ tu học. Khi Đại tạng kinh hoàn thiện, tất cả các giảng sư
hay Tăng Ni đều phải dựa trên Đại tạng kinh. Những vấn đề nêu trên Giáo hội cũng
phải xử lý thống nhất để không còn xảy ra tình trạng bất nhất mỗi người mỗi ý.
Cơ sở giải quyết là ưu tiên dựa trên kinh gốc. Đây là vấn đề các nước Phật giáo
Nam truyền đã làm thành công.
Thứ
hai là vấn đề liên quan đến Tăng. Báo giác ngộ số 1017 có bài “Trở lại chuyện
khách Tăng không mời". Bài báo nêu vấn đề sư giả đi dự trai tăng, khất thực kiếm
tiền. Hiện tượng này hầu như xảy ra ở miền Nam nơi có đông đảo chư Tăng Ni. Bài
báo nêu một số giải pháp từ sự phỏng vấn chư tôn đức lãnh đạo nhưng cuối cùng
cũng chưa có giải pháp cụ thể hữu hiệu nào. Xét về mặt tổ chức, Phật giáo có đầy
đủ các ban ngành nhưng xét về hiệu quả thì có lẽ còn quá khiêm tốn. Vậy thì đâu
là giải pháp cho vấn nạn ‘giả sư’ hay ‘sư giả’.
Về
nội bộ, Phật giáo có các ban quản lý Tăng Ni và có cơ sở quản lý Tăng Ni là giấy
chứng nhận Tăng Ni. Tăng Ni chính thức phải có giấy chứng nhận và phải ở tự viện
hợp pháp. Những vị ra lập am thất để phát triển cơ sở tự viện thì phải có sự
đồng ý của bổn sư và Ban Trị sự Phật giáo cấp cơ sở hay ít nhất một trong hai để
hỗ trợ. Tăng Ni chưa chính thức (tức chưa có giấy chứng nhận) thì phải nương tựa
bổn sư, y chỉ sư, tự viện cụ thể để các vị bổn sư, y chỉ sư có trách nhiệm quản
lý giáo dục.
Khi
có vấn đề xảy ra như khách Tăng không mời mà đến, khất thực phi pháp, bán nhang…
các ban có trách nhiệm được quyền thẩm vấn để xử lý. Những vị tu sĩ thuộc các
chùa thì mời bổn sư làm việc khiển trách, còn nếu họ là những người “giả sư” thì
giao cơ quan chính quyền xử lý.
Tuy
nhiên, chỉ bản thân Phật giáo thì khó giải quyết vấn đề “giả sư” vì các vị giả
sư không thuộc quyền quản lý của Giáo hội. Khi họ lợi dụng Phật giáo mà bị phát
hiện thì việc xử lý chỉ là đuổi họ ra ngoài tự viện. Do đó, Giáo hội cần phải có
sự hợp tác của chính quyền. Phật giáo vận động để nhà nước ra quy định xử phạt
hành chính đối với những đối tượng giả sư. Chỉ có chính quyền mới có thẩm quyền
thu hồi y áo, phạt cảnh cáo hay phạt hành chánh... Phật giáo là một tôn giáo lớn
có đóng góp to lớn cho đất nước và góp phần làm ổn định xã hội, với yêu cầu
chính đáng của Giáo hội, thiết nghĩ nhà nước sẽ ủng hộ. Ở các nước Nam truyền,
sự hợp tác giữa Giáo hội và nhà nước rất tốt.
Cũng
cần nói thêm, để sinh hoạt Tăng Ni ổn định và trang nghiêm, Phật giáo cần bổ
sung về quy định pháp phục cho các cấp bậc với các màu phân biệt rõ ràng. Chẳng
hạn chư tôn Hòa thượng mặc áo hậu viền đỏ nơi cổ, chư Thượng toạ áo hậu viền màu
đậm nơi cổ, chư Đại đức áo hậu viền vàng nơi cổ.... Qua hình thức màu sắc, ban
tổ chức các lễ hội có thể phân biệt mà sắp xếp chu đáo. Ngoài ra, các loại mũ
trong các lễ cũng cần quy định cho Hòa thượng, Thượng tọa để khỏi lạm dụng.
Ý
thức rằng đây là vấn đề khó khăn nhưng nếu không có lộ trình để đưa ra các giải
pháp khắc phục thì những vẫn đề nêu trên khó giải quyết trong Phật giáo. Những ý
kiến vừa nêu chỉ mang tính tham khảo. Mong rằng sẽ có nhiều bậc cao minh hiến
các giải pháp thiết thực để Phật giáo Việt Nam ngày càng thống nhất và trang
nghiêm hơn.