Truyền thống thờ phụng Xá-lợi
TRUYỀN THỐNG THỜ PHỤNG XÁ-LỢI
TRUYỀN THỐNG THỜ PHỤNG XÁ-LỢI
THÍCH THANH HÒA
Tín ngưỡng vào tính linh thánh của những di vật hoặc Thánh địa liên quan đến các
bậc Thánh là một hiện tượng phổ biến trong mọi tôn giáo trên thế giới. Hằng năm,
hàng triệu tín đồ Do Thái giáo, Ki-tô giáo và Hồi giáo đổ về cổ thành Jerusalem
để được tận tay chạm vào vùng đất thiêng gắn liền với cuộc đời các vị giáo chủ
của họ. Tín đồ Ấn giáo cứ mỗi năm một lần nhỏ, mười hai năm một lần lớn tìm về
Sangam, chỗ hợp lưu của ba dòng sông Ganga, Yamuna và Saraswati ở Allahabad để
được tắm mình trong tính linh thánh của các vị Thánh tượng trưng bởi các con
sông, tạo nên những lễ hội đông nhất hành tinh. Với Phật giáo, việc hành hương
chiêm bái các Thánh tích cũng đã được Đức Phật khuyến tấn. Trong kinh Đại
Bát-niết-bàn (Mahā-parinibbāna sutta), Đức Phật đã nói với Tôn giả A-nan
rằng “Có bốn Thánh tích kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính”,
đó là bốn Thánh địa nơi Đức Phật đản sinh, chứng ngộ quả Vô thượng Bồ-đề, chuyển
Pháp luân, và nhập Niết-bàn (Minh Châu, 1991, 642).
Liên quan đến cuộc đời của Đức Phật, ngoài những Thánh tích, xá-lợi của Ngài còn
được xem như một loại di vật đặc biệt và trở thành đối tượng tín ngưỡng sâu rộng
có chiều dài lịch sử trong mọi tầng lớp Tăng tín đồ. Là một tín ngưỡng ở phạm vi
quần chúng, bên cạnh những yếu tố kỳ bí có khi dẫn đến mê tín, tín ngưỡng thờ
cúng xá-lợi lại mang những ý nghĩa sâu xa và đóng một vai trò vô cùng đặc biệt
trong đời sống tâm linh của người con Phật. Trong bài viết này, tác giả không đi
tìm cách lý giải cho những điều kỳ bí mà thay vào đó, sẽ tập trung ở ba mục
chính: (1) nguồn gốc và sự hình thành tín ngưỡng thờ phụng xá-lợi, (2) các loại
xá-lợi, và (3) ý nghĩa biểu trưng của xá-lợi.
1.
NGUỒN GỐC VÀ SỰ HÌNH THÀNH TÍN NGƯỠNG XÁ-LỢI
Xá-lợi (舍利) là phiên âm của từ
śarīra trong tiếng Phạn. Theo sự khảo cứu của Schopen, một giáo sư chuyên về
các thể loại minh văn Phật giáo, từ này xuất hiện trong ngữ cảnh Phật giáo khi ở
hình thức số ít (śarīra) có nghĩa là ‘thân thể’ (cả sống cũng như đã chết);
ở hình thức số nhiều (śarīrāni) nghĩa là ‘di cốt’ (phần xương còn sót lại
sau khi thiêu) (Schopen, 1998, 256). Từ xá-lợi mà chúng ta đề cập đến ở đây mang
nghĩa thứ hai này. Ngoài ra, trong Phạn ngữ, dhātu (Hán:
駄都/đà-đô: yếu tố, thành phần) cũng
thường được dùng để chỉ cho xá-lợi với ý nghĩa cái chết kèm theo hỏa thiêu sẽ
trả một cơ thể trở về các thành phần của nó (Schopen, 1998, 257).
Theo đó, nói đến tín ngưỡng xá-lợi là nói đến truyền thống phụng thờ phần tinh
thể còn lưu lại sau khi trà-tỳ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói riêng, của các
Bậc Giác ngộ, trong đó có các bậc cao tăng đắc đạo, nói chung.
Truyền thống phụng thờ xá-lợi của Phật đã hình thành và phổ biến rộng rãi từ rất
sớm, nếu không nói là ngay sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn. Sự kiện Đức Phật nhập
niết-bàn được ghi lại trong nhiều kinh điển trong đó có đoạn mô tả cuộc đối
thoại giữa Đức Phật và Tôn giả A-nan về vấn đề hậu sự của Ngài. Chẳng hạn, kinh
Du hành thuộc Trường A-hàm có ghi lại lời Đức Phật hướng dẫn các các
đệ tử lo hậu sự của Ngài như sau:
Bấy giờ A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật:
“Sau khi Phật diệt độ, phép tẩn táng nên làm thế nào?”
Phật bảo A-nan:
“Ông hãy im lặng. Hãy lo nghĩ đến công việc của mình. Việc ấy đã có các thanh
tín sĩ hoan hỷ lo liệu.”
A-nan hỏi đến ba lần:
“Sau khi Phật diệt độ, phép tẩn táng nên làm thế nào?
Phật dạy:
“Muốn biết phép tẩn táng thế nào thì nên làm theo cách tẩn táng Chuyển luân
thánh vương.” …
“Về phép tẩn táng Chuyển luân thánh vương, trước hết lấy nước thơm tắm rửa
thân thể; lấy vải bông mới quấn thân thể; dùng năm trăm tấm vải lần lượt quấn
vào, rồi đặt thân vào kim quan. Sau khi đã tẩm dầu mè, lại đặt kim quan trong
một cái quách thứ hai lớn, bằng sắt, bên ngoài là lớp quách bằng gỗ hương
chiên-đàn. Chất các thứ vải dày, hương thơm lên trên mà trà-tỳ. Trà-tỳ xong lượm
lấy xá-lợi, dựng tháp treo phan thờ tại ngã tư đường để dân chúng đi ngang trông
thấy tháp của Pháp vương mà tưởng nhớ lại chánh hóa của vua, đã làm lợi ích cho
nhiều người.
“A-nan, ngươi muốn tẩn táng ta, trước hết lấy nước thơm tắm rửa thân thể; lấy
vải bông mới quấn thân thể; dùng năm trăm tấm vải lần lượt quấn vào, đặt thân
vào kim quan. Sau khi đã tẩm dầu mè, lại đặt kim quan trong một cái quách thứ
hai lớn bằng sắt, bên ngoài là lớp quách bằng gỗ hương chiên-đàn. Chất các thứ
vải dày, hương thơm lên trên mà trà-tỳ. Trà-tỳ xong lượm lấy xá-lợi, dựng tháp
treo phan thờ tại ngã tư đường để dân chúng đi ngang trông thấy tháp của Phật mà
tưởng nhớ lại đạo hóa của Pháp vương Như Lai, sống thì được phước lợi, chết thì
sanh Thiên.” (Tuệ Sỹ, 2007, 107tt)
Sau lễ trà-tỳ, xá-lợi của Phật được Bà-la-môn Hương Tánh (Droṇa) chia thành tám
phần cho tám vùng lãnh thổ dựng tháp cúng dường. Về sau, vua A-dục lại một lần
nữa thu thập số xá-lợi trong những ngôi tháp đó (chỉ bảy trong tổng số tám ngôi)
và phân bố tôn trí trong 84.000 ngôi tháp do ông dựng lên khắp cõi Ấn Độ.
Cũng cần nói thêm, tín ngưỡng thờ xá-lợi còn có nguồn gốc xa hơn, mặc dù chưa
chính thức, đó là khi Đức Phật tặng tám sợi tóc cho hai thương nhân Trapuṣa và
Bhallika sau khi mới thành đạo chưa lâu để làm vật kỷ niệm. Hai thương nhân này
đã trở thành hai vị đệ tử tại gia đầu tiên của Đức Phật.
Ban đầu, theo như lời Đức Phật dạy, tháp xá-lợi được xây dựng nơi công cộng cho
dân chúng lễ bái. Người xuất gia hầu như ít có mối liên hệ với việc tín phụng
tháp xá-lợi bởi điều này đã được Đức Phật nhắc nhở trong lời di huấn cuối cùng
rằng không nên quan tâm đến việc thờ cúng xá-lợi mà hãy chuyên tâm cho việc tu
tập.
Về sau, vì vấn đề chăm sóc bảo vệ nên tháp xá-lợi được tích hợp vào khuôn viên
các tự viện. Do lượng xá-lợi có hạn, những nơi muốn dựng tháp mà không có
xá-lợi, người ta dùng các bài kệ tụng như một loại xá-lợi pháp thân thay cho
xá-lợi sinh thân để tôn trí trong tháp. Sự thay đổi về nơi dựng tháp cũng nói
lên rằng tín ngưỡng thờ xá-lợi dần dần đi từ dân gian vào tự viện, được tích hợp
vào đời sống của giới xuất gia chứ không còn là hoạt động riêng rẻ của giới tại
gia nữa (Ray, 1999, 337tt). Kết quả, ngày nay, phần lớn các tự viện Phật giáo,
Nam truyền cũng như Bắc truyền, đều có tháp trong khuôn viên dùng cho việc thờ
cúng xá-lợi, kinh tượng, hoặc mộ phần.
2.
CÁC LOẠI XÁ-LỢI
Trải qua thời gian cùng với sự phát triển sâu rộng của tín ngưỡng phụng thờ
xá-lợi, khái niệm xá-lợi không còn đơn giản chỉ riêng cho phần di cốt mà nó còn
được mở rộng ra nhiều thứ khác. Do vậy, xá-lợi thường được chia thành hai loại
chính: xá-lợi sinh thân (dhātu-śārīra) và xá-lợi pháp thân (dharma-śārīra),
tương ứng với hai loại thân, sinh thân và pháp thân, của Phật.
Xá-lợi sinh thân tức là xá-lợi từ chính thân thể của Phật hoặc những người tu
hành đắc đạo sau khi viên tịch. Xá-lợi sinh thân gồm có hai loại, đó là xá-lợi
toàn thân (như hai vị thiền sư ở chùa Đậu - Việt Nam) và xá-lợi toái thân (như
các loại xá-lợi tóc, răng, xương, máu, thịt…), tức các phần còn lại sau khi
trà-tỳ.
Song song với xu hướng phụng thờ xá-lợi sinh thân của Phật, các truyền thống
Phật giáo từ xưa cũng đã sớm có khuynh hướng xem toàn bộ giáo pháp của Phật như
là Chân thân hay Pháp thân của ngài mà hình thành khái niệm xá-lợi pháp thân.
Khác với xá-lợi sinh thân thuộc loại vật chất cụ thể, xá-lợi pháp thân thuộc về
tinh thần. Ý tưởng hình thành xá-lợi pháp thân có thể bắt nguồn từ những lời dạy
của Đức Phật trong một số kinh điển. Chẳng hạn, kinh Tương ưng bộ (Saṃyutta
Nikāya) nói, “Ai thấy Pháp, người ấy thấy Ta; ai thấy Ta, người ấy thấy
Pháp” (Bodhi, 2000). Trong khi đó, kinh Cây lúa (Śālistamba-sūtra)
còn nói thêm, “Người nào thấy Pháp, người ấy thấy Phật” (Reat, 1993).
Hoặc kinh Thánh duyên khởi (Ārya-pratītyasamutpāda-mahāyāna-sūtra)
nói cụ thể hơn, “Lý duyên khởi này là Pháp thân của Như lai, người nào thấy
được lý duyên khởi, người ấy thấy Như lai” (Vaidya, 1961).
Với hệ luận đó, theo Boucher, vào khoảng cuối triều đại Gupta (khoảng thế kỷ
VI-VII), bài tụng duyên khởi - bài tụng mà tôn giả Xá-lợi-phất được nghe khi
thỉnh cầu tôn giả A-thuyết-thị giới thiệu về giáo pháp của Đức Phật ngay lần đầu
gặp mặt - đã hiển nhiên trở thành một loại xá-lợi pháp thân biểu trưng cho Đức
Phật (Boucher, 1991). Từ những gì khảo cổ cho thấy, người ta thường đặt một
phiến đá hoặc tấm đất sét có khắc bài tụng duyên khởi vào trong những ngôi tháp.
Sau này, điều tương tự cũng được làm trong nghi thức chú nguyện tượng Phật ở một
số truyền thống Phật giáo. Bài tụng duyên khởi như sau:
[Oṃ] ye dharmā hetuprabhavā hetuṃ teṣāṃ tathāgato hy avocat|
teṣāṃ ca yo nirodha evaṃvādī mahāśramaṇaḥ || (Braginsky, 2002, 383;
Bentor, 1996; Boucher, 1991). (Các pháp sinh khởi do nguyên nhân, Như Lai
giảng về nguyên nhân của chúng; và Ngài, Bậc Đại Sa-môn, cũng giảng như thế về
sự tức diệt của chúng).
Cũng cần nói thêm, trong tư tưởng Đại thừa, xá-lợi sinh thân mặc dù quý hiếm
nhưng xá-lợi pháp thân mới có công năng giác ngộ giải thoát, là đối tượng thật
sự mà một người tu Phật cần hướng đến. Cho nên, kinh Phóng quang Bát-nhã
dạy:
“Sau [khi Như lai] bát-nê-hoàn, [có thiện nam tử, thiện nữ nhơn] dựng tháp
nơi an ổn, dùng các thứ hương hoa, tơ lụa, tràng phan, hoa cái, kỹ nhạc nổi
tiếng cúng dường xá-lợi; lại có thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì, đọc tụng,
ghi nhớ làm theo kinh Bát-nhã-ba-la-mật, dùng các thứ hương hoa, tơ lụa, tràng
phan, hoa cái, kỹ nhạc nổi tiếng cúng dường [kinh Bát-nhã-ba-la-mật]; người làm
việc cúng dường như thế nhận được phước nhiều hơn người cúng dường xá-lợi”.
Ngoài ra, bên cạnh hai loại xá-lợi sinh thân và pháp thân nói trên, các di vật
liên quan đến Đức Phật như cây bồ-đề, y, bát hoặc các thứ đồ dùng liên quan khác
cũng được liệt vào hạng mục xá-lợi thứ ba, gọi là xá-lợi thọ dụng (pāribhogika-śārīra)
(Strong, 2004, 19; Bentor, 1994, 23). Theo nghĩa này, các Thánh tích liên quan
đến cuộc đời của Đức Phật cũng có thể được xem thuộc loại xá-lợi thọ dụng này.
3.
Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG CỦA XÁ-LỢI
Thông thường, những gì phổ biến đồng thời cũng đem lại nhiều ý kiến khác nhau
thậm chí là trái nghịch. Tín ngưỡng xá-lợi không nằm ngoài thông lệ đó và có khi
còn bị xem là mê tín, sai lầm. Tiêu biểu cho ý kiến này, chúng ta có thể kể đến
Paul Carus, một học giả danh tiếng và là tác giả của cuốn Cẩm nang về Đức
Phật (The Gospel of Buddha) nổi tiếng. Sau những tiếp xúc trong công
việc nghiên cứu Phật học, một nhà sư Tích Lan đã tặng ông một số pháp bảo trong
đó có một viên xá-lợi. Carus đã viết thư trả lời như sau:
“Tất cả những kho tàng mà tôi xem là thiêng liêng đều thuộc về tinh thần,
không phải vật chất. Tín phụng xá-lợi, dù đó là xương, tóc, răng, hay bất kỳ
phần thân thể nào của một vị Thánh, là một sai lầm. Chúng không có bất kỳ một
giá trị nào hơn là di hài của một cơ thể bình thường. Tinh túy của Đức Phật
không nằm trong xương mà ở trong lời dạy của Ngài, và tôi xem việc thờ cúng
xá-lợi như một giai đoạn nửa chừng của quá trình phát triển tôn giáo, ở đó các
tín đồ chưa đạt được sự hiểu biết rõ ràng đầy tính triết học.” (Carus, 1897)
Thoạt nghe, quan điểm của Carus có vẻ hợp lý, nhất là với những người hoàn toàn
duy lý. Tuy nhiên, có một sự thật rất phổ biến trong mọi tôn giáo, đó là đời
sống tôn giáo nhiều khi vẫn “nghịch” với kinh điển chính thống của họ. Phật giáo
có trí tuệ và từ bi, có xuất thế gian pháp và cũng có thế gian pháp, cũng như
Lục Tổ nói, “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”.
Hai phạm trù xuất thế gian và thế gian là hai biểu hiện của cùng một thực thể
sống động. Thờ phụng xá-lợi, nếu nhìn từ góc độ xuất thế gian, có thể bị xem là
không thích đáng; nhưng nếu nhìn từ góc độ thế gian, nội hàm của nó vẫn mang
những giá trị biểu trưng vô cùng ý nghĩa.
Xá-lợi là hiện thân của sự huân tu Giới-Định-Tuệ
Nói đến những giá trị nội hàm của xá-lợi, trước hết cần biết rằng, xá-lợi không
phải là phần tro cốt bình thường luôn luôn có sau mọi đám hỏa thiêu mà nó chỉ
xuất hiện ở những trường hợp cá biệt, những người có sự tu tập tinh tấn và có sự
đạt ngộ trên con đường tu tập. Đó là một thực tế và điều này cũng đã được chứng
thực trong kinh điển cũng như được ghi nhận trong nhiều minh văn cổ. Kinh Kim
quang minh nói, “Xá-lợi này là kết tinh của sự huân tu giới định tuệ, rất
khó có được, là phước điền tối thượng.”
Về tư liệu khảo cổ, trên nhiều văn khắc cổ Ấn Độ, người ta cũng thường tìm những
lời minh văn xem xá-lợi như là hiện thân của giới định tuệ. Chẳng hạn, mặt dưới
phần đế của bình đựng xá-lợi Phật do Kopśakasa tôn trí năm 26 TL có đoạn minh
văn ghi, “Xá-lợi này của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, Đấng Giác ngộ, được
xông ướp bởi giới, được xông ướp bởi định, được xông ướp bởi tuệ”.
Nhiều minh văn được tìm thấy ở những nơi khác cũng có nội dung tương tự. Có thể
nói, về mặt bản chất, xá-lợi được mọi người thừa nhận như biểu hiện của sự tu
chứng, là kết tinh của sự huân tu tam vô lậu học giới định tuệ.
Xá-lợi là hiện thân sống động của Pháp thân
Vượt lên trên tất cả những cái đời thường, xá-lợi không chỉ là chút xương lạnh
mà là hiện thân sống động của Pháp thân, là một “thực thể sống” với đầy đủ phẩm
đức của một vị Phật. Schopen khẳng định, “Tất cả mọi nguồn tài liệu của Ấn
Độ, gồm minh văn, kinh điển, văn chương bác học, đều thống nhất xem xá-lợi là có
sự sống”. Điển hình như, một minh văn ghi trên nắp của một chiếc bình đựng
xá-lợi có niên đại khoảng thế kỷ thứ II tr.TL, thuộc loại sớm nhất có thể xác
định được, gọi xá-lợi Phật là “Xá-lợi của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, cái
được nối liền với sự sống” (prāṇasametaṃ śarīraṃ bhagavataḥ śākyamuneḥ)
(Schopen, 1998, 258tt; 1997a, 126).
Ở một khía cạnh nào đó, xá-lợi là hiện thân của nghịch lý giữa sự sống và cái
chết: sự sống ngưng đọng trong cái chết, và cái chết thăng hoa trong sự sống.
Như trên đã đề cập, xá-lợi của Phật được định nghĩa là được xông ướp bởi giới
định tuệ, và đó là ba đặc tính hoạt dụng tượng trưng cho một Bậc Giác ngộ đang
còn sống. Điều đó có nghĩa rằng, lễ kính xá-lợi cũng giống như lễ kính một Bậc
Giác ngộ đang tại thế. Xá-lợi vì thế trở thành một cái chết hiện lên trong sự
sống hay một sự sống hàm tàng trong cái chết. Xá-lợi, do vậy, trở thành đối
tượng quy kính thay cho sự hiện diện của Đức Phật một khi Ngài Niết-bàn. Kết nối
mối liên hệ này, trong Đại sử (Mahāvaṃsa), Mahinda (con vua A Dục)
nói với vua Devānaṃpiya của Tích Lan, “Khi xá-lợi được nhìn thấy (hiện diện)
thì Đức Phật cũng được nhìn thấy (hiện diện)” (dhātusu diṭṭhesu diṭṭho
hoti jino iti) (Geiger, 1912, xvii: 2-4).
Như vậy, về mặt bản chất, xá-lợi là hiện thân của tam vô lậu học giới định tuệ,
là Pháp thân biểu trưng cho Đức Phật. Do vậy, có thể nói, xá-lợi là biểu tượng
của Đức Phật Niết-bàn, có giá trị như Đức Phật tại thế.
Lời Kết
Nếu sự sống và cái chết là hai mặt của một hiện tượng luân hồi thì một Đức Phật
tại thế và xá-lợi sau trà-tỳ của Ngài là hai mặt của một chỉnh thể giác ngộ. Đức
Phật tại thế hiển bày sự nghiệp độ sanh thì xá-lợi là hiện thân của cảnh giới
niết-bàn u tịch. Sự sống của Đấng Giác ngộ là con đường lợi tha vạn hạnh thì
Niết-bàn của vị ấy là sự cô đọng quá trình huân tu tam vô lậu học giới định tuệ
thiêng liêng. Cái chết của một bậc Thánh sẽ đặt một nấc thang tiến bước trên con
đường giác ngộ lợi tha bởi cái chết đó không phải là một sự kết thúc mà là một
sự mở ra cái bao la trong tư tưởng, cái chết mang lại lợi ích cho sự sống. Trong
ý nghĩa đó, cái chết cũng cân bằng với sự sống, cho nên trong kinh Công đức
tắm tượng, Đức Phật dạy, “Sau khi Như Lai diệt độ, có hai loại xá-lợi,
một là Pháp thân, hai là Hóa thân. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân... cúng dường
xá-lợi, bằng cách tạo hình tượng Phật nhiều như lúa mạch, tạo tháp có hình dáng
như trái am-la, cột tháp hình dáng như cây kim lớn, lọng tháp hình dáng như cánh
bèo, đem những viên xá-lợi Phật hình dáng như hột cải an trí trong đó. Công đức
có được [nhờ sự cúng dường xá-lợi ấy] giống như [công đức cúng dường] Như Lai
lúc còn tại thế, không có khác biệt”.
Như thế, trong tín ngưỡng phụng thờ xá-lợi, Đức Phật và xá-lợi không khác nhau
bởi đó là hai mặt của cùng một chân lý giải thoát: cái động và cái tĩnh, cái vô
thường và cái thường, sinh tử và Niết-bàn. Trong ý nghĩa đó, xá-lợi là hiện thân
của Đức Phật thể hiện triết lý “tử nhi bất tử” ở thế giới phàm tình này.
Hải Lạc, 25.11.2019
Thư Mục Tham Khảo:
Bentor, Yael. 1994. "Tibetan Relic
Classifications." Trong Tibetan Studies: Proceedings of the 6th Seminar of
the International Association for Tibetan Studies. Manohar.
——————. 1996. Consecration of
Images and Stūpas in Indo-Tibetan Tantric Buddhism. Leiden: Brill.
Bodhi, Bhikkhu. 2000. The
Connected Discourses of the Buddha: A Translation of the Saṃyutta Nikāya.
Somerville MA: Wisdom Publications.
Boucher, Daniel. 1991. "The
Pratītyasamutpādagātha and Its Role in the Medieval Cult of the Relics."
Journal of the International Association of Buddhist Studies XIV (1): 1-27.
Braginsky, Vladimir, ed. 2002.
Classical Civilizations of South East Asia: An Anthology of Articles Published
in the Bulletin of the School of Oriental and African Studies. London:
RoutledgeCurzon.
Carus, Paul. 1897. "A Buddhist
Priest’s View of Relics." The Open Court XI: 122-25.
Davids, T. W. Rhys. 1901. "Aśoka and
the Buddha Relics." Journal of the Royal Asiatic Society: 397-410.
The Dīgha Nikāya.
1966. Edited by T.W Rhys Davids and J. Estlin Carpenter. Vol. II, Pali Text
Society. London: Luzac.
Du Hành Kinh.
Đại 01, số 0001. [遊行經].
Hán dịch bởi Phật-đà-da-xá and Trúc Phật Niệm.
Geiger, Wilhelm. 1912. The
Mahāvaṃsa or the Great Chronicle of Ceylon. London: Oxford Unversity Press.
Jongeward, David, Elizabeth
Errington, Richard Salomon, and Stefan Baums. 2012. Gandharan Buddhist
Reliquaries. Seattle: Early Buddhist Manuscripts Project.
Kim Quang Minh Kinh.
Đại 16, số 0663. [金光明經].
Hán dịch bởi Tam Tạng Đàm Vô Sấm.
Minh Châu, Thích. 1991. Kinh
Trường bộ, Đại Tạng Kinh Việt Nam. TP. Hồ Chí Minh: Viện Nghiên cứu
Phật học Việt Nam.
Phật thuyết dục tượng công đức
kinh. Đại 16, số 0697. [佛説浴像功徳經].
Hán dịch bởi Tam tạng Bảo Tư Duy.
Phật thuyết tạo tượng lượng độ
kinh giải. Đại 21, số
1419. [佛説造像量度經解].
Hán dịch bởi Công-bố-tra-bố.
Phóng quang Bát-nhã kinh.
Đại 08, số 0221. [放光般若經].
Hán dịch bởi Tam Tạng Vô-la-xoa.
Ray, Reginald A. 1999. Buddhist
Saints in India: A Study in Buddhist Values and Orientations. New York:
Oxford University Press.
Reat, N. Ross. 1993. The
Śālistamba Sūtra. Delhi: Motilal Banarsidass.
Schopen, Gregory. 1988. "On the
Buddha and His Bones: The Conception of a Relic in the Inscriptions of
Nāgārjunikoṇḍa." Journal of the American Oriental Society 108 (4):
527-537.
——————. 1997a. Bones, Stones, and
Buddhist Monks: Collected Papers on the Archaeology, Epigraphy, and Texts of
Monastic Buddhism in India. Honolulu: University of Hawai’i Press.
——————. 1997b. "Monks and the Relic
Cult in the Mahāparinibbāna-Sutta: An Old Misunderstanding in Regard to Monastic
Buddhism." Trong Bones, Stones, and Buddhist Monks: Collected Papers on the
Archaeology, Epigraphy, and Texts of Monastic Buddhism in India, edited by
Gregory Schopen, 99-113. Honolulu: University of Hawai'i Press.
——————. 1998. "Relic." Trong
Critical Tems for Religious Studies, edited by Mark C. Taylor, 256-268.
Chicago: The University of Chicago.
Strong, John S. 2004. Relics of
the Buddha. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Tôn Bảo, Tỳ-kheo. Đại 48, số 2008.
Lục Tổ Đại sư Pháp bảo đàn kinh [六祖大師法寶壇經].
Tuệ Sỹ, Thích. 2007. Kinh Trường
A-hàm. Vol. 1: NXB.Tôn Giáo.
Vaidya, P. L., ed. 1961.
Mahāyāna-Sūtra-Saṁgraha. Vol. I. Darbhanga: The Mithila Institute.
Werner, Karel. 2013. "The Place of
Relic Worship in Buddhism: An Unresolved Controversy?". Buddhist Studies
Review 30 (1): 71-87.