Đi tìm mùa xuân Di Lặc
Đi tìm mùa xuân Di Lặc
Đi tìm mùa xuân Di Lặc
Nguyên Cẩn
Toàn cảnh mùa xuân năm nay
Một năm đã khép lại với những thành quả đạt được trên nhiều mặt kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, vẫn còn đó những thách thức với tất cả chúng ta trên bước đường hội
nhập khi sự cạnh tranh ngày một khốc liệt với những quốc gia lân cận, khi tình
trạng xóa đói giảm nghèo có nơi có lúc chưa thực sự hiệu quả. Chưa kể đến tình
trạng biến đổi khí hậu hay dịch bệnh gây khó khăn cho nông dân và những nhà
hoạch định chính sách vĩ mô. Không phải ngẫu nhiên mà Oxford lại chọn “climate
emergency” (tình trạng khẩn cấp về khí hậu) làm từ của năm 2019. Oxford giải
thích đó là một tình huống tiêu cực của khí hậu trong đó con người cần hành động
nhanh chóng nhằm hạn chế hay ngăn chặn những biến đổi gây thiệt hại môi trường
không thể khắc phục về sau. Chúng ta không phải là ngoại lệ trong 150 nước đưa
ra lời cảnh báo trên. Chúng ta đang sống những ngày cuối mùa đông với những bất
trắc của thời tiết, có cả thiên tai và nhân tai, khi bao con người trên thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng đang vật lộn với những trận cháy rừng, dòng lũ
và những cơn mưa khốc liệt, đã có người chết, đã tổn hại biết bao hoa màu và cây
trái như ở miền Trung cuối tháng qua. Còn những vùng khác trên cả nước, dù không
gặp tai ương về thời tiết, vẫn đang phải đối phó với những tai họa khác: thực
phẩm độc hại, không khí, nước sử dụng bị ô nhiễm từ đầu nguồn, kẹt xe tắc
đường... Chưa kể những bất trắc rình rập quanh ta, sụp hố, cây đổ, cháy nhà,
cháy chợ...
Chân dung xã hội hôm nay?
Nhìn chung, chúng ta cảm thấy bất an khi xã hội đắm chìm trong ngũ trược: bao
nhiêu kẻ theo tà bỏ chính, chạy theo vật chất (kiến trược); kèm theo đó là thói
vô cảm, sự băng hoại lý tưởng, tính thực dụng lạnh lùng, sự trống vắng niềm tin,
sẵn sàng phạm tội ác vì mê muội (phiền não trược) trong kinh doanh và tình trạng
này con lan sang cả hàng ngũ viên chức công quyền (mạng trược).
Với một xã hội đang cạnh tranh ráo riết kể cả sử dụng những phương thức không
lành mạnh thì làm sao xây dựng sự hài hòa? Phải xem lại định chế văn hóa vốn là
mạch sống, là rường cột trong việc kiến thiết xã hội. Có lần chúng tôi đã viết
“văn hóa là hoa của đạo lý” vì văn hóa phải sinh sôi từ mầm đạo lý, như là cội
nguồn cho mọi phẩm tính tốt đẹp tăng trưởng... Những nhà lãnh đạo đất nước từ
ngày xưa đến nay đều muốn xây dựng một xã hội có văn hóa với tinh thần độc lập
tự cường, một nền đạo đức biết hy sinh cái lợi của riêng mình khi cần thiết vì
lợi ích cộng đồng, muốn phúc lợi của nhân dân đều được trân trọng cũng như phát
huy dân chủ về mặt chính trị. Xây dựng kinh tế cũng nhằm xây dựng và phát triển
văn hóa. Cuộc cách mạng văn hóa mà trước đây chúng ta chủ trương, hô hào, đến
nay còn dang dở, nếu không muốn nói thụt lùi so với kỳ vọng, trong việc bồi
dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người
vươn tới chân-thiện-mỹ để không ngừng hoàn thiện bản thân mình.
Đạo lý xã hội đang xuống cấp khi người ta mưu quyền đoạt lợi, từ chuyện lớn đến
chuyện bé, từ chuyện xếp hàng cho đến văn hóa giao thông, ứng xử nơi công cộng
đang không được tôn trọng. Người ta coi thường nguyên lý “ở hiền gặp lành”,
“gieo nhân nào gặt quả nấy”, và không còn ai e sợ vì họ không tin vào “địa ngục”
dù “địa ngục” có lúc xâm lấn tâm hồn họ! Người dân Việt qua bao thế hệ đã dạy
nhau những nguyên lý ấy từ trong gia đình ra ngoài xã hội, giờ đây chểnh mảng,
thiếu quan tâm. Xu hướng thực dụng trong thanh niên giữ vai trò chính trong định
hướng hành động. Chúng tôi đã từng đề cập việc phải ươm mầm “thiện” từ tấm bé
(đọc bài “Gieo lại hạt từ tâm” trong NSGN) vì nếu trẻ thơ không được huân
tập, tưới tẩm tâm yêu thương thì những ngộ nhận về thành công hay về quyền lực
hay thế lực gia đình có thể khiến cậu bé ấy trở thành kẻ chỉ biết dựa vào sức
mạnh để khống chế và vượt lên trên kẻ khác. Hiện nay chúng ta đang chứng kiến
tinh thần cạnh tranh quyết liệt ở mọi tổ chức, mọi địa phương. Con người bảo vệ
quyền lợi cá nhân hay tập thể của mình bằng mọi phương tiện, kể cả triệt hạ nhằm
thỏa mãn tham vọng của mình.
Đi tìm mùa xuân Di lặc
Đức Phật Thích Ca dạy rằng tiếp theo thời Tượng pháp là thời Mạt pháp, thời giáo
pháp suy đồi và ẩn một. Khi đó một Đức Phật khác sẽ ra đời để khai mở cho nhân
loại một kỷ nguyên Chánh pháp mới: đó là Đức Phật Di Lặc. Thiền sư Nhất Hạnh gọi
Ngài là “một nhà văn hóa có đầy đủ chánh biến trí, có đủ đại hùng, đại bi, đại
nguyện, như thế, con người cấp thiết của thế kỷ chúng ta.” (Thích Nhất Hạnh -
Đạo Phật đi vào cuộc đời, Lá Bối, 1964).
Di Lặc, tiếng Phạn là Maitreya, dịch là Từ Thị (người có lòng từ). Theo Đại
Nhật kinh sớ, quyển 1, chữ Từ là lòng từ, là chi đầu tiên trong Tứ vô lượng
tâm (từ, bi, hỷ, xả). Lòng từ này có trong chủng tánh của Như Lai, bao gồm cả:
Chúng sanh duyên từ, Pháp giới duyên từ và Vô duyên từ. Từ trong nghĩa Từ Thị là
Vô duyên từ. Tức lòng từ không đợi có một ngoại duyên nào tác động làm cho lòng
từ phát khởi. Mà tâm từ đó đã có sẵn một cách tự nhiên, rộng rãi, bao dung, bình
đẳng, vô phân biệt.
Kinh điển ghi Di Lặc là vị Phật của hạnh hỷ xả. Hỷ xả là chất gắn kết mọi người
trong tình thương yêu , cùng hóa giải những oán kết, hận thù gây khổ đau triền
miên, mang lại an lạc, hạnh phúc cho cộng đồng. Nếu trên con đường tu tập, chúng
ta không có tâm hỷ xả thì khó tháo gỡ những vướng mắc cố chấp dẫn đến kiến thủ
và giới cấm thủ. Đây là trở ngại lớn nhất đối với Thánh đạo giải thoát. Bản chất
tâm thức của mọi loài chúng sanh là chấp thủ. Do vậy, khổ đau là điều không
tránh khỏi. Chỉ khi nào trong chúng ta luôn có sự hiện hữu của tâm hỷ xả, biết
buông bỏ những cố chấp hẹp hòi, vị kỷ, xóa bớt những hận thù oan trái thì lúc ấy
chúng ta mới cảm nhận được niềm an lạc hạnh phúc thật sự. Xây dựng một cộng đồng
trong tinh thần hỷ xả và từ bi. Ngoài sự tương trợ và giáo dục yêu thương, phải
kéo gần hố ngăn cách giàu nghèo. Theo những nhà kinh tế đoạt giải Nobel 2019
Abhijit Banerjee, Esther Duflo và Michael Kremer thì những nghịch lý mà người
nghèo thường rơi vào là cái bẫy của sự thiếu thông tin, mê tín, và sự trì hoãn.
Những gì ngăn trở sự phát triển là ba chữ I: sự ngu dốt (ignorance), ý thức hệ,
(ideology) và sự trì trệ (inertia). Cải thiện việc quản trị công quyền và chính
sách mà không thay đổi cơ cấu xã hội hiện hữu. Cứ chấp nhận thì chúng ta không
bao giờ có được hạnh phúc. Đức Phật không phải là không để ý việc tạo dựng một
xã hội sung túc. Trong kinh Kutadanta (Cứu-la-đàn-đầu, Trường bộ), Ðức
Phật chủ trương phát triển kinh tế, thay vì dùng quyền lực, để xóa giảm tội phạm.
Triều đình phải biết sử dụng các nguồn tài nguyên để cải thiện điều kiện kinh tế
trong nước. Họ phải biết phát triển nông nghiệp ở thôn quê, trợ giúp giới buôn
bán, cung cấp lương bổng đầy đủ cho công nhân để bảo đảm một đời sống tốt có
nhân phẩm. Phát triển là một quá trình nhanh nhưng hết sức phức tạp, vì vậy cần
phải làm từng bước và phải lắng nghe người nghèo tâm sự về cuộc sống cùa họ,
cần phải khẩn cấp sửa chữa những sai lầm trong viện trợ: trước tiên là những
con đập lớn, sau đó là giáo dục rồi đến những khoản tín dụng nhỏ.
Lời dạy của Ðức Phật về các bổn phận đạo đức của vua chúa để sử dụng công quyền,
bảo đảm an sinh người dân, đã giúp cho vua A Dục (Asoka), vào thế kỷ III trước
Tây lịch, cai trị đất nước. Ông đã sống và thực hành Chánh pháp cùng với p tất
cả mọi người dân trong triều đại của ông. Ông cổ võ sự ứng dụng của các nguyên
tắc đạo đức trong xã hội, như chân thật, từ bi, bác ái, bất bạo động, nhân từ,
không hoang phí, không chiếm đoạt, và không gây sát hại cho mọi loài vật. Ông
thiết lập các công trình công cộng như bệnh xá, cung cấp thuốc men, trồng cây
gây rừng, đào giếng, các công trình thủy lợi và nhà tạm trú. Ông cũng đặc biệt
ngăn cấm việc đối xử tàn ác với các loài thú vật.
Phải chăng cũng vì mục tiêu nhân bản mà Chủ nghĩa tư bản (CNTB) hôm nay trên
thế giới đã chuyển mình. Họ quan niệm “do well by doing good” (muốn được tiếng
hay hãy làm việc thiện), biến CNTB phiên bản 3.0 thành thành CNTB tận tâm
(Compassionate Capitalism ) hay Tư bản chu đáo (Caring Capitalism); ngay cả
phương thức tiếp thị cũng được gọi là Social Cause Marketing (Marketing vì chính
nghĩa xã hội), Mission-Based Marketing (Marketing trên nền tảng sứ mệnh), mong
muốn nhìn doanh nghiệp như một thực thể có nhân tính (Bosom Company hay Noble
Hearted Company) dù vẫn hướng đến lợi nhuận nhưng là những tổ chức có tính người
chứ không phải những cỗ máy vô hồn vô tâm chỉ biết đầu tiên và cuối cùng là
“tiền đâu?” - như trong thời CNTB hoang dã (Wild Capitalism) mà một số doanh
nghiệp của chúng ta đang mắc vào hiện nay vì chạy theo lợi nhuận. Thế nên chúng
ta cần xây dựng một nền kinh tế “biết chia sẻ” mà nói theo ngôn ngữ nhà Phật là
“trung đạo”.
Thiền sư Nhất Hạnh nói rằng: “Chúng ta không nên chờ đợi Đức Di Lặc một cách
quá ngây thơ. Chúng ta phải sửa soạn đón tiếp Ngài.
Sửa soạn như thế nào? Sửa soạn một khung cảnh nhân tâm hướng thiện, một khung
cảnh thực chất của đạo pháp, xứng đáng làm nơi ngự tọa của một Đức Phật. Khung
cảnh ấy được xây bằng cộng nghiệp hướng thượng của chúng ta, của tâm linh chúng
ta. Đừng than phiền đời này là đời mạt pháp. Hãy buông bỏ hình thức Hãy phủi
sạch hai tay. Hãy đứng lên gạt qua những mối tơ vò cũa thế kỷ. Hãy để tâm
hồn trong sạch lắng đọng. Và hãy tiếp nhận hình bóng tròn đầy của mặt trăng đêm
rằm xuật hiện trong biển tâm thức của mình.
Những giai đoạn u trầm nhất trong lịch sử Phật giáo là những giai đoạn mà trong
đó sự cố gắng tu chứng và hành đạo không được biểu lộ. Không có trí tuệ thực
chứng, mọi sinh hoạt Đạo pháp đi dần đến hình thức, đến cố chấp, đến mê tín dị
đoan, làm cho Đạo Phật đi đến những hình thức sinh hoạt phản lại với Đức Phật,
làm cho Đạo Phật bị lấm láp, bị lợi dụng làm cho quần chúng trí thức ruồng bỏ.”
(TNH - sđd)
Tự bao giờ mà Đạo Phật vốn khi ra đời nhằm lo cho sự sống của nhân loại nhưng
trong thế kỷ gần đây đã suy đồi đến nỗi chỉ biết phục vụ cho cái chết của nhân
loại. Chùa nào cũng tổ chức đi đám ma, nhập liệm, làm tuần, làm thất cúng thí
thực cô hồn, cúng linh; có chùa còn cầu vong, đốt vàng mã, cúng sao giải hạn…
làm lệch lạc Chánh pháp. Đạo Phật thành tôn giáo dành cho những kẻ tránh đời,
thất tình, u uẩn tâm hồn?
Hướng về Xuân Di Lặc, chúng ta phải đem Phật giáo trở lại phục vụ sự sống, phục
hoạt một đạo Phật trẻ trung, tràn trề sinh lực.
TS Nhất Hạnh nhấn mạnh: “Đạo Phật phải hiện hữu để giải quyết những vấn đề thực
tại. Đừng biến Đạo Phật thành một tổ chức có uy quyền thế lực, có giáo đường
vàng son, có điện ngọc thâm u”. (TNH - sđd)
Người Phật tử lý tưởng là con người tự nguyện sống vì lý tưởng nhân loại, đồng
lao cộng khổ giữa xã hội, biết mang tâm thế của vị Bồ-tát mà đi vào cuộc đời để
làm vơi đi những niềm đau khổ, khai mở những chân trời Đạo pháp. Chừng nào xã
hội gồm phần lớn những con người biết sống với nhau, cùng nhau và cho nhau thì
ngày ấy thế giới quanh ta hóa thành Tịnh độ.
Nguyễn Thế Đăng có lần viết: “Chúng ta hẳn phải suy diễn ra trong một xã hội mà
ai ai cũng nhìn nhau như là hoa sen, dầu đã nở dầu chưa nở thì xã hội ấy có đủ
mọi điều tốt đẹp, có tất cả nhân đức, có tất cả giới định huệ, và xã hội đó biến
thành một Tịnh độ nhân gian, một quốc độ thanh tịnh của Phật. Bởi vì một trong
những mục tiêu cao cả của Đại thừa là biến đất nước mình thành một quốc độ thanh
tịnh của Phật, thực Tịnh độ ngay ở nơi mình sống, như câu nói được lặp đi lặp
lại trong kinh Đại thừa "Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh" (làm thanh
tịnh và trang nghiêm cõi Phật, thành tựu chúng sanh bằng cách làm cho mỗi con
người thanh tịnh và trang nghiêm) (NTĐ - Cái nhìn mùa xuân)
Muốn như vậy, phải cách tân nền kinh tế vì “Có thực mới vực được đạo”. Nói cách
khác, xã hội Phật giáo là xã hội theo nguyên lý trung đạo. Nền kinh tế trong xã
hội đó buộc mỗi người làm việc theo chí hướng và khả năng, và đóng góp việc làm
vào sự lợi ích chung, nhưng ngược lại nhà nước phải đảm bảo được cơm áo và những
điều kiện cần thiết để sinh hoạt một cách đồng đều cho toàn thể. Trung đạo không
phải là một con đường đòi hỏi và khó khăn mà chỉ hướng đến một xã hội có một mức
sống tới thiểu mà xã hội văn minh phải thực hiện cho toàn dân. Trong cùng một
nước, người dân ở một mảnh đất hoang lại cũng có quyền có một mức sống tối thiểu
ngang với người dân ở miền châu thổ phì nhiêu vì cả hai đều làm việc. Nguyên tắc
một người vì mọi người và ngược lại mà chúng ta thường nói nằm trong nguyên tắc
‘”lợi hoà đồng quân”, một trong lục hòa của nhà Phật. Làm được điều ấy chúng ta
sẽ biến nơi ở, cộng đồng của mình trở nên đáng sống, “cõi Tịnh độ giữa nhân
gian”. Phải chăng đó là điều mọi người đang mơ ước. Đó là ngày Di Lặc ra đời,
nói theo ngôn ngữ Bùi Giáng:
Người về thảng hoặc mai sau
Diệu Hoa lầu các đêm nào hóa sinh .
Khi ấy ta nhìn thấy toàn bộ cuộc đời và tất cả chúng sanh là một hồ sen vô tận
với vô lượng đóa sen là mỗi một chúng sanh, hay Pháp giới hoa tạng nói theo kinh
Hoa nghiêm.
“Khi nhìn thấy mỗi một người là một đóa hoa sen thì chính tự thân ta cũng là một
đóa hoa sen đang nở”. (NTĐ - sđd)
Và mùa xuân Di Lặc bắt đầu!