ĐỐI CHIẾU NỘI DUNG KINH
BĀHIYA TRONG NIKAYAVỚI
PHẦN TÁNH THẤY, TÁNH NGHE TRONG KINH
THỦ LĂNG NGHIÊM VÀ
CÁC KINH KHÁC
I. NỘI DUNG BẢN KINH
BĀHIYA TRONG
TẠNG NIKAYA
Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông
Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Bàhiya Daruciriya trú ở
Suppàraka, trên bờ biển, được cung kính, tôn trọng đảnh lễ,
cúng dường và nhận được y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược
phẩm trị bệnh. Rồi Bàhiya Dàcuciriya khởi lên tư tưởng như
sau:
"Với ai là bậc A-la-hán hay đang đi trên con đường A-la-hán,
ta là một trong những vị ấy ". Rồi một Thiên nhân, trước là
bà con huyết thống với Bàhiya Dàruciriya, vì lòng từ mẫn, vì
muốn lợi ích, với tâm của mình biết tâm tư của Bàhiya
Dàruciriya, đi đến Bàhiya Dàruciriya và nói như sau:
- Này Bàhiya, Ông không phải là A-la-hán hay đang đi trên
con đường A-la-hán. Ông không có đạo lộ ấy, với đạo lộ này
Ông có thể trở thành A-la-hán hay đang đi trên con đường đưa
đến A-la-hán.
- Nhưng ai là những vị, trong thế giới này, với thế
giới chư Thiên là những vị A-la-hán hay đang đi trên con
đường A-la-hán?
- Này Bàhiya, có thành phố tên là Sàvatthi trên những quốc
lộ phương Bắc. Tại đấy có Thế Tôn hiện đang trú, bậc
A-la-hán Chánh Đẳng Giác. Vị ấy là bậc A-la-hán và thuyết
pháp đưa đến quả A-la-hán. Rồi Bàhiya Dàruciriya, được Thiên
nhân ấy thúc dục, đi ra khỏi Sappàraka, trong suốt đường
trường, chỉ nghỉ một đêm, đi đến chỗ Thế Tôn đang trú ở
Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn Anàthapindika. Lúc
bấy giờ nhiều Tỷ-kheo đang đi kinh hành giữa trời. Bàhiya
Dàruciritya đi đến các Tỳ-kheo ấy, sau khi đến nói như sau:
- Thưa các Tôn giả, nay Thế Tôn, bậc A-lahán Chánh Đẳng Giác
ở đâu? Chúng tôi muốn được yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác.
- Này Bàhiya, Thế Tôn đã đi vào giữa các nhà để khất thực.
Rồi Bàhiya Dàraciriva mau chóng ra khỏi Jetavana, đi vào
Sàvatthi, và thấy Thế Tôn đang đi khất thực, khả ái, khởi
lên tịnh tín, các căn an tịnh, tâm ý an tịnh, đạt được an
chỉ, chế ngự tối thượng, giống như một con voi được
điều phục, phòng hộ với các căn an tịnh. Thấy vậy, Bàhiya
Dàruciriya liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến, cúi đầu xuống
chân Thế Tôn và bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con, Thiện Thệ
hãy thuyết pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc
an lạc lâu dài. Khi được nói vậy, Thế Tôn nói với Bàhiya
Dàruciriya:
- Không phải thời, này Bàhiya, Ta đang khất thực. Lần thứ
hai Bàhiya Dàruciriya Bạch Thế Tôn:
- Thật khó biết, bạch Thế Tôn, là chướng ngại cho mạng sống
của Thế Tôn, hay chướng ngại cho mạng sống của con. Bạch Thế
Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con. Thiện Thệ hãy thuyết
pháp cho con, nhờ vậy con có thể được hạnh phúc an lạc lâu
dài. Lần thứ hai, Thế Tôn nói với Màhiya Dàruciriya:
- Không phải thời, này Bàhiya, Ta đang khất thực. Lần thứ
ba, Bàhiya Dàruciriya bạch Thế Tôn:
- Thật khó biết... hạnh phúc lâu dài.
- Vậy này Bàhiya, Ông cần phải học tập như sau: "Trong cái
thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái
nghe. Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong
cái thức tri, sẽ chỉ là các thức tri ".
Như vậy, nàyBàhiya, Ông cần phải học tập. Vì rằng, này
Bàhiya, nếu với Ông, trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy;
trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, sẽ
chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức
tri. Do vậy, này Bàhiva, ông không là chỗ ấy. Vì rằng, này
Bàhiya, Ông không là đời này, không là đời sau, không là đời
chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau.
Nhờ lời thuyết pháp tóm tắt này của Thế Tôn, tâm của Bàhiya
Dàruciriya được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp
thủ. Thế Tôn sau khi thuyết cho Bàhiya Dàruciriya lời giáo
giới tóm tắt này, liền ra đi. Thế Tôn ra đi không bao lâu,
một con bò con húc chết Bàhiya Dàruciriya. Thế Tôn sau khi
khất thực ở Sàvatthi xong, sau buổi ăn, trên con đường đi
khất thực trở về, đi ra khỏi thành với nhiều Tỷ-kheo, thấy
Bàhiya Dàruciriya bị chết, thấy vậy liền nói với các
Tỳ-kheo:
- Này các Tỳ-kheo, hãy lấy thân xác Bàhiya Dàruciriya, đặt
lên trên cái chõng, đem đi hỏa thiêu, rồi xây tháp lên trên.
Này các Tỷ-kheo, một vị đồng Phạm hạnh với các Thầy đã qua
đời!
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, sau khi đặt xác thân của
Bàhiya Dàruciriya lên trên cái chõng, đem đi hỏa thiêu, xây
dựng cái tháp cho vị ấy, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên,
các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, thân xác của Bàhiya Dàruciriya đã được hỏa
thiêu, tháp đã được xây dựng xong cho vị ấy. Sanh thứ cho vị
ấy là gì? Đời sau vị ấy là gì?
- Này các Tỷ-kheo, Hiền trí là Bàhiya Dàruciriya đã hành trì
tùy pháp, đúng pháp và không có phiền nhiễu Ta với những
tranh luận về pháp. Này các Tỷ-kheo, Bàhiya Dàruciriya đã
nhập Niết Bàn.
Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc
ấy, nói lên lời cảm hứng này:
Chỗ nào nước và đất, lửa, gió không chấp trước, Tại đây sao
không chói, Mặt trời không chiếu sáng, Tại đây trăng không
chiếu, Tại đây u ám không, Khi ẩn sĩ Phạm chí, Tự mình với
trí tuệ, Thể nhập vào Chánh pháp, Vị ấy được giải thoát Khỏi
sắc và vô sắc, Khỏi an lạc, đau khổ.
(Bản dịch của HT Minh Châu)
Tôn giả Bàhiya Dàruciriya đã tha thiết thỉnh cầu Đức Thế Tôn
dạy cho giáo pháp để tu tập đoạn tận khổ đau. Với lòng tha
thiết cầu thỉnh như vậy, nên Đức Thế Tôn đã dạy cho Tôn Giả
Bàhiya Dàruciriya, là phải ở nơi sáu căn mắt thấy, tai nghe,
mũi ngửi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý tiếp xúc với pháp
trần để tu tập, vì sáu căn là cội gốc của khổ đau, 8 nhưng
sáu căn cũng chính là nguồn gốc của giải thoát khổ đau sinh
tử. Đức Phật dạy cho Tôn Giả Bàhiya Dàruciriya phải thực tập
như sau:
- Vậy này Bàhiya, Ông cần phải học tập như sau: "Trong cái
thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái
nghe. Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong
cái thức tri, sẽ chỉ là các thức tri ".
Như vậy, này Bàhiya, Ông cần phải học tập. Vì rằng, này
Bàhiya, nếu với Ông, trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy;
trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng, sẽ
chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức
tri.
Do vậy, này Bàhiva, ông không là chỗ ấy. Vì rằng, này
Bàhiya, Ông không là đời này, không là đời sau, không là đời
chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau.
(Trích từ bản dịch của HT Minh Châu)
– Này Bāhiya, con hãy thực hành như sau. Khi nhìn chỉ có cái
được nhìn.Khi nghe chỉ có cái được nghe. Khi xúc chạm chỉ có
cái được xúc chạm. Khi biết chỉ có cái được biết. Con hãy tự
rèn luyện như vậy. Khi mà đối với con, khi nhìn chỉ có cái
được nhìn, khi nghe chỉ có cái được nghe, khi xúc chạm chỉ
có cái được xúc chạm, khi biết chỉ có cái được biết, thì
Bāhiya sẽ không có cái tôi nào liên quan tới những thứ
đó. Khi không có cái tôi nào liên quan đến những thứ đó, sẽ
không có cái tôi ở đó. Khi không có cái tôi ở đó, thì sẽ
không có cái tôi ở đây, không có cái tôi nào ở khoảng giữa
đây và đó. Khi không có cái tôi ở đó, không có cái tôi ở
đây, và không có cái tôi ở giữa, thì kết thúc mọi khổ đau.
(Trích bản dịch Việt từ bản tiếng Anh của Thanissaro
Bhikkhu http://tuyenphap.com/kinhbahiya)
“Thế này, Bāhiya, ông nên tu tập thế này: Trong cái được
thấy sẽ chỉ là cái được thấy; trong cái được nghe sẽ chỉ là
cái được nghe; trong cái được thọ tưởng sẽ chỉ là cái được
thọ tưởng; trong cái được thức tri sẽ chỉ là cái được thức
tri.’ Cứ thế mà tu tập đi, Bāhiya.
“Khi với ông, này Bāhiya, trong cái được thấy chỉ là cái
được thấy… [nhẫn tới]…trong cái được thức tri chỉ là cái
được thức tri, thì rồi Bāhiya, ông sẽ không là ‘với đó’. Này
Bāhiya, khi ông không là ‘với đó’, thì rồi Bāhiya, ông
sẽ không là ‘trong đó’. Này Bāhiya, khi ông không ‘trong
đó,’ thì rồi Bāhiya, ông sẽ không ở nơi này, cũng không ở
nơi kia, cũng không ở chặng giữa. Thế này, chỉ thế này, là
đoạn tận khổ đau.
(Trích
từ bản dịch tiếng Việt của Cư Sĩ Nguyên Giác)
Dựa vào nội dung của các bản Việt dịch trên đây, thì chúng
ta có thể hiểu ý nghĩa quan trọng mà Đức Thế Tôn đã dạy cho
Tôn Giả Bāhiya như sau:
Trong cái thấy chỉ là cái thấy
Trong cái nghe chỉ là cái nghe
Trong cái ngửi chỉ là cái ngửi
Trong cái nếm vị chỉ là cái nếm vị
Trong cái xúc chạm chỉ là cái xúc chạm
Trong cái biết chỉ là cái nhận
biết.
Hoặc có thể diễn đạt theo cách khác như sau:
Thấy chỉ là cái thấy
Nghe chỉ là cái nghe
Ngửi chỉ là cái ngửi
Nếm
vị chỉ là cái nếm vị
Xúc chạm chỉ là cái xúc chạm
Biết chỉ là cái nhận biết.
II. TRÍCH ĐOẠN VỀ TÁNH THẤY, TÁNH NGHE TRONG KINH
THỦ LĂNG NGHIÊM VÀ
CÁC BẢN KINH KHÁC
1. KHÁCH CHỦ TRONG KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
Khi ấy ông Kiều-trần-na đứng dậy bạch Phật:
“Nay con là hàng Trưởng lão, đối với trong Đại chúng riêng
được tên là Hiểu (giải) do con ngộ hai chữ “Khách trần” mà
được thành Thánh quả. Bạch Đức Thế Tôn, ví như người khách
đi đường, vào nghỉ nhờ một quán trọ, hoặc ngủ, hoặc
ăn. Ăn ngủ xong sửa sang hành lý lên đường, chẳng ở lại
nữa. Nếu thật là người chủ thì tự không đi đâu. Như thế mà
suy xét, chẳng dừng trụ gọi là khách, dừng trụ là chủ. Do
cái chẳng dừng trụ nên có nghĩa là “khách”.
Lại như mưa mới tạnh mặt trời lên trong trẻo, ánh sáng soi
vào kẽ hở, trong hư không hiện rõ các tướng bụi bặm. Tính
chất của bụi thì diêu động, còn hư không thường lặng lẽ. Như
thế, nên con suy nghĩ:
Lắng lặng gọi là hư không, diêu động gọi là bụi bặm. Do cái
diêu động đó nên có nghĩa là“trần”.
Phật nói: “Đúng thế!”.
=> Tâm chủ là dừng trụ, không sinh diệt, đó là trong cái
biết chỉ là cái nhận biết mà Đức Thế Tôn đã dạy cho Tôn
Giả Bāhiya.
2. TÁNH THẤY SÔNG HẰNG TRONG KINH THỦ
LĂNG NGHIÊM
Phật bảo: “Đại vương, ông thấy sự biến hóa đổi thay không
dừng, nên ngộ biết thân ông hoại diệt, vậy chính khi hoại
diệt, ông có biết trong thân có cái gì chẳng hoại diệt
chăng?”.
Vua Ba Tư Nặc chắp tay bạch Phật: “Thật con chẳng biết”.
Phật bảo: “Nay tôi chỉ cho ông tính chẳng sinh diệt. Đại
vương, khi ông được bao nhiêu tuổi thì thấy nước sông
Hằng?”.
Vua thưa: “Con được ba tuổi, mẹ con dẫn đến lễ ra mắt Thần
Kỳ-bà Thiên, đi ngang qua dòng sông này, khi ấy con được
thấy nước sông Hằng”.
Phật bảo: “Đại vương, như ông đã nói: Khi hai mươi tuổi đã
già hơn lúc mười tuổi, cho đến sáu mươi tuổi, năm tháng ngày
giờ, niệm niệm dời đổi. Vậy khi ông ba tuổi thấy sông Hằng
này, đến mười ba tuổi cái thấy nước sông ấy thế nào?”.
Vua thưa: “Như khi ba tuổi rõ ràng không khác, và đến nay
con sáu mươi hai tuổi, cái thấy vẫn không khác”.
Phật bảo: “Nay ông tự cảm thương tóc bạc, mặt nhăn, mặt ông
nhất định là nhăn hơn lúc trẻ. Vậy cái thấy của ông hiện nay
xem thấy sông Hằng, cùng với khi xưa còn trẻ xem thấy sông
Hằng, cái thấy đó có già có trẻ chăng?”.
Vua thưa: “Bạch Thế Tôn, không vậy”.
Phật bảo: “Đại vương, mặt ông tuy nhăn, mà tính thấy này
chưa từng bị nhăn. Cái bị nhăn thì biến đổi, còn cái chẳng
bị nhăn thì không biến đổi. Cái biến đổi thì phải chịu hoại
diệt, cái chẳng biến đổi kia vốn không sinh diệt, làm sao
trong ấy lại nhận chịu cái sinh tử của ông, mà ông còn dẫn
lời của bọn Mạt-già-lê kia bảo rằng, thân này sau khi chết
hoàn toàn mất hẳn?”.
=>Cái
thấy rõ ràng không khác, không có già có trẻ, chưa từng bị
nhăn, chưa từng biến đổi, đó là trong cái thấy chỉ là cái
thấy mà Đức Thế Tôn đã dạy cho Bāhiya.
3. TÁM CÁI TRẢ VỀ TRONG KINH
THỦ LĂNG NGHIÊM
A-Nan, các tướng biến hóa này, sáng trả về cho mặt trời.
Vì sao? Vì nếu không mặt trời thì không sáng. Nguyên nhân
cái sáng thuộc về mặt trời, cho nên trả về cho mặt trời. Cái
tối trả về cho đêm không trăng; thông suốt trả về cho cửa;
ngăn bít trả về cho tường vách; sắc duyên trả về cho phân
biệt; rỗng không trả về cho hư không; mù mịt trả về cho bụi;
trong sáng trả về cho trời tạnh. Tất cả vật có ra trong thế
gian đều không ngoài các thứ này.
Còn tính thấy sáng suốt của ông thấy tám thứ kia, ông muốn
trả nó vềđâu? Vì sao? Vì nếu trả về cho sáng, thì khi tối
đến cũng không thấy tối. Tuy sáng tối mỗi mỗi đều sai khác,
nhưng cái thấy không sai khác. Các thứ có thể trả về được,
tự nhiên chẳng phải ông. Cái ông không thể trả về được,
chẳng phải ông thì là gì?
=>Cái
tánh thấy sáng suốt mà thấy được tám thứ kia, không sai
khác, không trả về đâu được, đó là trong cái thấy chỉ là cái
thấy mà Đức Thế Tôn đã dạy cho Tôn Giả Bāhiya.
4. TÁNH NGHE TRONG KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
Biết
có biết không, tự là thanh trần hoặc không hoặc có, chứ tính
nghe kia há lại vì ông mà thành có thành không. Nếu tính
nghe nói là thật không thì ai biết là không nghe?
Thế nên A-nan, tiếng trong cái nghe tự có sinh diệt, chẳng
phải vì ông nghe tiếng sinh tiếng diệt, khiến cho tính nghe
của ông là có hay là không. Ông còn điên đảo lầm cho cái
tiếng làm cái nghe, thì đâu có lạ gì không mê muội cho cái
thường làm cái đoạn.
=> Tiếng
đối với tánh nghe thì có sinh có diệt, còn tánh nghe thì
không sinh diệt, đó là trong cái nghe chỉ là cái nghe mà Đức
Phật đã dạy cho Tôn Giả Bāhiya.
5. TRÍCH TỪ PHẨM PHỔ HIỀN TRONG KINH VIÊN GIÁC
Này Thiện nam, biết pháp huyễn hóa tức lìa, chẳng khởi
phương tiện, lìa pháphuyễn hóa liền giác, cũng không có thứ
lớp.
(Hòa
Thượng Thanh Từ dịch)
=> Biết pháp huyễn tức lìa, chẳng khởi phương tiện, lìa
pháp huyễn hóa liền giác, cũng không có thứ lớp. Đó là trong
cái biết chỉ là cái nhận biết mà Đức Thế Tôn đã chỉ dạy cho
Tôn Giả Bāhiya.
6. ĐOẠN VĂN KINH TRONG KINH
KIM CANG
Lại nữa, Tu Bồ Đề! Khi bố thí, Bồ Tát chẳng trụ vào pháp. Có
nghĩa là bố thí mà chẳng trụ vào sắc, bố thí mà chẳng trụ
vào thanh, hương, vị, xúc và pháp.
Tu Bồ Đề! Bồ Tát nên bố thí như thế, chẳng trụ nơi tướng. Vì
sao? Nếu Bồ Tát bố thí mà chẳng trụ tướng thì Phước Đức
không thể suy lường được.
=> Bồ Tát bố thí mà không trụ vào Pháp, nghĩa là không
trụ vào sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Ấy là trong cái
thấy chỉ là cái thấy mà Đức Phật đã dạy cho Tôn Giả Bāhiya.
7. BỒ TÁT THỨ HAI VÀ BỒ TÁT THỨ TÁM PHẪM
BẤT NHỊ TRONG KINH
DUY MA CẬT
Bồ Tát Đức Thủ nói:
“Ngã”, “ngã sở” là hai. Nhân bởi có ngã nên có ngã sở. Nếu
không có ngã thì không có ngã sở. Đó là vào cửa Pháp bất
nhị.
Bồ tát Phất-sa nói:
«Thiện
và bất thiện là hai. Nếu không khởi thiện hay bất thiện là
nhập cửa vô tướng. Thông suốt như vậy là vào cửa Pháp bất
nhị.»
(Hòa
Thượng Tuệ Sỹ dịch)
=> Nếu không có ngã thì không có ngã sở, nếu không khởi
thiện hay bất thiện là nhập cửa vô tướng, là vào cửa pháp
bất nhị. Với ý nghĩa này, cũng giống như Đức Phật đã dạy cho
Tôn Giả Bāhiya, “Ông phải thực tập như sau: Trong cái thấy
chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe, trong cái
biết chỉ là cái nhận biết.”
8. TRÍCH TỪ PHẨM
ĐỊNH TUỆ TRONG KINH
PHÁP BẢO ĐÀN
Tổ dạy chúng: “Này
Thiện tri thức, pháp môn của ta đây lấy Định Tuệ làm gốc,
đại chúng chớ lầm nói Định Tuệ riêng, Định Tuệ một thể không
phải là hai.
Định là thể của Tuệ, Tuệ là dụng của Định, ngay khi Tuệ,
Định ở tại Tuệ, ngay khi Định, Tuệ ở tại Định, nếu biết được
nghĩa này tức là cái học Định Tuệ bình đẳng. Những người học
đạo chớ nói trước Định rồi sau mới phát Tuệ, trước Tuệ rồi
sau mới phát Định, mỗi cái riêng khác. Khởi cái thấy như thế
ấy thì pháp có hai tướng.
Miệng nói lời thiện mà trong tâm không thiện thì không có
Định Tuệ, Định Tuệ không bình đẳng. Nếu tâm, miệng đều là
thiện, trong ngoài một thứ, Định Tuệ tức là bình đẳng. Tự
ngộ tu hành không ở chỗ tranh cãi, nếu tranh trước sau tức
là đồng với người mê, không dứtsự hơn thua, trở lại tăng ngã
và pháp, không lìa bốn tướng.
Này Thiện tri thức, Định Tuệ ví như cái gì? Ví như ngọn đèn
và ánh sáng. Có ngọn đèn tức có ánh sáng, không đèn tức là
tối, đèn là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng của đèn, tên
tuy có hai mà thể vốn đồng một, pháp Định Tuệ này cũng lại
như thế.”
(Hòa thượng Thanh Từ dịch)
=> Định
là thể của Tuệ, Tuệ là dụng của Định, ngay khi tuệ, định ở
tại tuệ, ngay khi định, tuệ ở tại định, nếu biết được nghĩa
này, tức là cái học định tuệ bình đẳng. Đó là trong cái thấy
chỉ là cái thấy mà Đức Thế Tôn dạy cho Tôn Giả Bāhiya.
9. TRÍCH TỪ PHẨM
TỌA THIỀN TRONG KINH
PHÁP BẢO ĐÀN
Này Thiện tri thức, nếu người tu hạnh bất động, chỉ khi thấy
tất cả người, không thấy việc phải quấy, tốt xấu, lỗi lầm
của người tức là tự tánh bất động.
Này Thiện tri thức, sao gọi là Tọa Thiền? Trong pháp môn này
không chướng không ngại, ngoài đối với tất cả cảnh giới
thiện ác, tâm niệm chẳng khởi gọi là tọa, trong thấy tự tánh
chẳng động gọi là thiền.
Này Thiện tri thức, sao gọi là Thiền định? Ngoài lìa tướng
là thiền, trong chẳng loạn là định. Nếu khi thấy các cảnh
mà tâm chẳng loạn ấy là chân định vậy.
(Hòa thượng Thanh Từ dịch)
=> Với
ý nghĩa của đoạn văn Ngữ Lục trong Phẩm Tọa Thiền của Kinh
Pháp Bảo Đàn như trên, cũng giống như Đức Phật đã dạy cho
Tôn Giả Bāhiya, “Ông phải thực tập như sau: Trong cái thấy
chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là cái nghe, trong cái
biết chỉ là cái nhận biết.”
10. BÀI KỆ TRONG KINH THỦ
LĂNG NGHIÊM VÀ
NHỮNG BÀI KỆ CỦA CÁC VỊ TỔ SƯ
ÂM HÁN:
Tri kiến lập tri tức vô minh bổn
Tri kiến vô kiến tức thị Niết Bàn.
VIỆT DỊCH:
Thấy biết được dựng lập bởi khái niệm thấy biết (ý niệm phân
biệt), thì đó chính là cội gốc của Vô minh; Thấy biết
mà lìa tướng không còn phân biệt thấy biết, đó gọi là Niết
Bàn.
(Trích trong Kinh
Thủ Lăng Nghiêm)
=> Như vậy, thấy biết mà lìa tướng thấy biết (không phân
biệt), đó là NiếtBàn. Ấy là trong cái thấy, chỉ là cái thấy
mà Đức Phật đã dạy cho Tôn Giả Bāhiya.
Tâm theo muôn cảnh chuyển
Chỗ chuyển thật kín sâu
Theo dòng nhận được tánh
Không mừng cũng không lo.
(Tổ
thứ 22 -
Hòa thượng Thanh Từ dịch).
Thánh nhân nói tri kiến
Ngay
cảnh không phải quấy
Nay ta ngộ tánh ấy
Không đạo cũng không lý.
(Tổ
thứ 25 -
Hòa thượng Thanh Từ dịch)
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói đến thì ăn mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.
(Ngài Trần Nhân Tông - Hòa
thượng Thanh Từ dịch)
“Theo dòng nhận được tánh, không mừng cũng không lo”.
“Thánh nhân nói tri kiến, ngay cảnh không phải quấy”.
“Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, đối cảnh vô tâm chớ hỏi
thiền”.
=> Ý nghĩa của các câu trên, cũng giống như ý nghĩa mà
Đức Phật đã dạy cho Tôn Giả Bāhiya, “ ông phải thực tập như
sau: trong cái thấy chỉ là cái thấy, trong cái nghe chỉ là
cái nghe, trong cái biết chỉ là cái nhận biết”.
III. CÁC CÔNG ÁN
• Thiền sư Thường Quán hỏi một vị Thầy mới đến rằng: Thầy từ
đâu đến?
Vị Thầy thưa: Bạch Hòa Thượng, con từ nông trại đến.
Ngài lại hỏi: Thầy có thấy trâu chăng?
Vị Thầy thưa: Dạ thấy.
Ngài lại hỏi: Thầy thấy sừng bên trái hay sừng bên phải?
Vị Thầy không trả lời được nên Ngài đáp thế: Này con! Cái
thấy không có phải trái!
• Ngài Triệu Châu đã dạy cho người thị giả rằng: Này con,
đây là lửa nhưng con đừng gọi là lửa, Thầy đã chỉ dạy cho
con xong. Con có lãnh hội lời Thầy dạy không?
Người thị giả vẫn không lãnh hội được cho nên Ngài đến gắp
lửa đưa lên rồi tiếp tục hỏi thị giả:
Con có lãnh hội được không?
=> Ý
nghĩa lời dạy của Thiền sư Thường Quán và Ngài Triệu Châu:
Này con! Cái thấy không có phải trái! Đây là lửa nhưng con
đừng gọi là lửa, Thầy đã chỉ dạy cho con xong. Đó
là trong cái thấy chỉ là cái thấy mà Đức Thế Tôn đã chỉ dạy
cho Tôn Giả Bāhiya.
• Thiền sư Cảnh Thanh ngồi trong thất nghe tiếng mưa rơi nên
hỏi một vị Thầy rằng:
Ấy là tiếng gì?
Vị Thầy thưa: Đó là tiếng mưa rơi.
Ngài mới dạy rằng: Chúng sinh điên đảo, quên mình theo vật.
Vị Thầy thưa: Hòa thượng thế nào?
Ngài Cảnh Thanh đáp: Ta chẳng quên mình theo vật.
• Một bà lão đến hỏi Thiền sư Đại Đồng rằng:
Nhà con vừa mất trâu, thỉnh Thầy bói cho một quẻ.
Ngài Đại Đồng liền gọi: Bà lão!
Bà lão đáp: Dạ!
Ngài bảo: Đây rồi! Bà lão liền nhận được trâu.
=> Ý
nghĩa lời dạy của Thiền sư Cảnh Thanh và Thiền sư Đại Đồng
cũng giống như Đức Phật đã dạy cho Tôn Giả Bāhiya, trong cái
nghe chỉ là cái nghe.
IV. KẾT LUẬN
Khi chúng ta đối chiếu nội dung Kinh Bāhiya và ý nghĩa của
một số đoạn văn kinh thuộc truyền thống Đại Thừa, thì sẽ
nhận thấy rằng, ý nghĩa thực hành hoàn toàn giống nhau, chứ
không có điều gì quá khác biệt. Một khi, chúng ta đã nhận ra
được ý nghĩa và nội dung văn kinh của hai truyền thống
Nguyên Thủy và Đại Thừa đều có phần giống nhau, thì lúc ấy
mới thật sự rũ bỏ được tất cảnhững ý niệm dị biệt.