Mối liên hệ giữa Đại chúng bộ và Đại thừa như được cho biết nơi hậu ký bản dịch Hán ngữ Luật tạng của Đại chúng bộ
moi lien he
Mối liên hệ giữa Đại chúng bộ và Đại thừa như được cho biết
nơi hậu ký bản dịch Hán ngữ Luật tạng của Đại chúng bộ
Seichi Karashima – Nguyên Hiệp dịch
1. Nguồn gốc bản dịch Hán ngữ Luật tạng của Đại chúng bộ
Ở nơi tường trình về chuyến hành trình của mình đến Ấn Độ, Pháp Hiển (法顯
337-422 TL) đã mô tả việc ông nhìn thấy bản chép tay bộ luật (Vinaya) ở
Pātaliputra và sao chép nó như sau:
Từ xứ Ba-la-nại (Vārāṇasī),
đi về phía Đông trở lại Ba-liên-phất-ấp (Pāṭaliputra,
Hoa Thị thành), Pháp Hiển trước hết tìm kiếm [những bộ] luật (Vinaya), nhưng ở
những nước thuộc Bắc Ấn, chúng được khẩu truyền từ thầy đến thầy và [do đó]
không có bản văn nào được sao chép. Đó là lý do tại sao ông đi rất xa, cho đến
khi tới Trung Ấn (Madhyadeśa), và ở đó ông có được một bộ luật ở tại một ngôi
chùa (僧伽藍/tăng-già-lam,
saṅghārāma)
Đại thừa. Đó là bộ luật của Đại chúng bộ mà toàn thể Tăng chúng đều theo từ khởi
đầu (lịch sử của nó), khi Đức Đức Phật vẫn còn tại thế. Bản gốc của nó được
truyền thừa ở tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana). Mười tám tông phái có truyền thống của
riêng họ, mà về cơ bản là giống nhau và không khác nhau. Tuy nhiên, có những
khác nhau nhỏ mà một số trong chúng là do việc chấp nhận và loại bỏ [những chủ
đề trong giới luật]. Tuy nhiên, đây (tức bộ luật của Đại chúng bộ) là bộ chi
tiết và hoàn thiện nhất. Ông cũng thu thập được một phần của một bộ luật, bao
gồm [số chữ tương ưng với] khoảng bảy ngàn (śloka-) bài kệ (tức là 32 chữ x
7.000 = 224.000 chữ); đây là bộ luật của Nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin) mà
những Tăng sĩ Trung Quốc theo. [Bộ này] cũng được khẩu truyền từ thầy đến thầy,
[và] chưa bao giờ được viết thành chữ. Ngoài ra, ông thu thập được
Tạp a-tỳ-đàm tâm (雜阿毘曇心,
Saṃyukta-abhidharma-hṛdaya
śāstra), bao gồm khoảng sáu ngàn bài kệ (tức 32 chữ x 6.000 = 192.000 chữ) cũng
ở nơi chúng Tăng [ở tu viện Đại thừa]; ông cũng thu thập được một bản kinh, bao
gồm 2.500 bài kệ (tức 32 chữ x 2.500 = 80.000 chữ); ông cũng thu thập được kinh
Phương đẳng bát-nê-hoàn (方等般泥洹經,Vaitulya-Parinirvāṇa-sūtra,
tức là kinh
Đại bát-niết-bàn của Đại thừa), bao gồm khoảng 5.000 bài kệ (tức là 32 chữ x
5.000 = 150.000 chữ); ông cũng thu thập được [tạng?] Abhidharma của Đại chúng
bộ. Do đó, Pháp Hiển ở lại đó ba năm (và) học chữ Phạn (Brahma), tiếng Phạn và
sao chép [những bộ] luật.
Pháp Hiển đến Pātaliputra vào năm 405 TL và ở lại đó ba năm. Sau khi quay trở
lại Trung Quốc, cùng với một người sinh ở Bắc Ấn đó là Buddhabhadra (359-429
TL), ông đã dịch bộ luật của Đại chúng bộ sang Hán ngữ. Nơi phần hậu ký (phần
ghi chép thông tin ở cuối tác phẩm) bản dịch này (T. 22, no. 1425,
548a29-b25), ông đã ghi như sau:
Xưa kia có một vị vua hung ác cai trị ở Trung Ấn trong một thời gian ngắn. Các
Sa-môn (śramaṇa) đã trốn đi khắp nơi để thoát khỏi ông ta, và các Tỳ-kheo, những
người [tinh thông] Tam tạng (Tripiṭaka)
cũng đã bỏ chạy. Khi vị vua hung ác kia chết, một vị vua tốt lên ngôi. Ông thỉnh
cầu các Sa-môn quay trở lại vương quốc và kính trọng họ.
Vào bấy giờ, ở thành Pāṭaliputra
có năm trăm Tỳ-kheo sống và họ muốn đưa ra một quyết định cho một vụ việc (斷事;
viniścaya) nhưng không có người tinh thông giới luật (tức là Vinayadhara), cũng
không có tiền lệ truyền thừa những bộ luật. Do đó, họ phái một số người đến tịnh
xá Kỳ Viên, và ở đó những người này đã sao chép một bộ luật mà nó tồn tại đến
ngày nay. Tôi (tức Pháp Hiển) đã sao chép bản Phạn này (梵本)
ở tịnh xá Thiên Vương (天王精舍/
Devarāja), nằm về phía Nam của bảo tháp vua A
Dục ở thành Ba-liên-phất-ấp (Pāṭaliputra)
nước Ma-kiệt-đà (Magadha).
Sau khi trở lại Dương Châu (楊州,
ở
Trung Quốc),
vào tháng 11 năm Bính Thìn (năm 416 TL), nhằm năm Nghĩa Hy (義熙)
thứ 12 dưới triều nhà Tấn, tôi bắt đầu dịch nó [sang Hán ngữ] ở chùa Đấu Tràng (鬪場寺)
và hoàn thành toàn bộ [bản dịch] vào cuối tháng hai năm thứ 14 (tức năm 418 TL).
Cùng với một vị Thiền sư (tức là Buddhabhadra), tôi đã dịch Phạn bản sang Hán
ngữ. Tôi đã viết rõ (故)
những điều này.
Bản hậu ký được nói đến, mà nó mô tả thêm truyền thống của giáo pháp Đức Phật và
sự xuất hiện của những tông phái khác nhau,
theo quan điểm của tôi, thực sự được chính Pháp Hiển viết. Đặc biệt, cụm từ “cố
ký chi” (故記之)
xác nhận tính xác thực. Phần hậu ký này, mà nó cũng được trích dẫn nơi Xuất
Tam tạng ký tập của Tăng Hựu ở nơi một hình thức có sửa đổi (20c25-21a10),
là rất quan trọng cho việc nghiên cứu lịch sử Phật giáo, đặc biệt mối liên hệ
giữa Đại chúng bộ và Phật giáo Đại thừa. Thông tin, mà nó cho biết rằng bản chép
tay gốc của bộ luật thuộc Đại chúng bộ này thật sự được truyền thừa ở tịnh xá Kỳ
Viên, cũng được xác chứng với ghi chú sau của Pháp Hiển vào cuối chương thứ tư
về những giải thích các giới pācattika ở trong bản dịch bộ luật này của
ông. Ở đó, những kết luận tóm tắt (uddāna) với câu: “Điều cuối cùng (tức
là giải thích về pācattika thứ 40) là ăn ở nơi một nhóm (gaṇabhojana)”.
Tuy nhiên, không có giải thích về giới pācattika này ở nơi bản dịch Hán
ngữ. Thay vào đó, một ghi chú được viết bằng những chữ nhỏ được chèn vào: “Bản
Sanskrit ở tịnh xá Kỳ Viên bị mối mọt ăn. (Do đó) giới liên quan đến ăn ở nơi
một nhóm bị thiếu.”
Lời nói này chắc hẳn đến từ chính Pháp Hiển. Liên quan đến ngôi chùa Đại thừa
này và những người theo Đại thừa ở Pāṭaliputra,
Pháp Hiển thuật lại trong ký sự của mình như sau:
Có một Bà-la-môn, đó là La-thái-tư-bà-mê (羅汰私婆迷;
...svāmī?), là một người theo Đại thừa, sống ở kinh thành này. Vị này rất sắc
sảo, uyên bác, và không có điều gì là không hiểu. Ông sống thanh tịnh. Nhà vua
tôn ông làm thầy của mình. Khi [nhà vua] đến thăm [ông], [vua] không dám ngồi
gần ông. Nếu nhà vua chạm tay mình [vào người vị Bà-la-môn] vì sự yêu mến và tôn
kính, vị Bà-la-môn lập tức tắm rửa. Ông ta khoảng 50 tuổi hoặc hơn, và người
trong toàn vương quốc đều kính trọng ông. Nhờ vào việc truyền bá Phật pháp của
con người kỳ đặc này, những vị ẩn sĩ không có cơ hội phỉ báng Tăng đoàn.
Ở bên tháp vua A Dục có xây một ngôi chùa Đại thừa (摩訶衍僧
伽藍,
Mahāyāna saṅghārāma)
mà nó rất trang nghiêm. (Gần đó) có một tịnh xá Tiểu thừa, ở đó có cả thảy sáu,
bảy trăm Tỳ-kheo, oai nghi của họ lịch thiệp và tao nhã. Những vị Sa-môn cao đức
và những vị học giả từ bốn phường, những người tìm cầu [Phật pháp], viếng thăm
ngôi chùa này.
Thầy của vị Bà-la-môn [được đề cập ở trên], người cũng có tên là Văn Thù Sư Lợi
(Mañjuśrī) và được tất cả những Sa-môn cao đức và những Tỳ-kheo Đại thừa ở vương
quốc này tôn kính, cũng sống ở ngôi chùa này.
Trong tất cả các nước ở Trung Ấn (Madhyadeśa), [kinh] thành của vương quốc này
là lớn nhất. Dân chúng rất phú thịnh và cùng tranh đua nhau làm việc nhân nghĩa.
Mỗi năm, vào ngày mùng tám tháng Hai, có một lễ rước tượng [Phật]. [Dân chúng]
làm những chiếc xe bốn bánh với [những đồ trang trí] năm tầng, được làm từ tre
đan… Mỗi cái trong như một ngôi tháp… Ở tất cả bốn mặt [của những chiếc xe],
người ta làm những cái hộc. Trong mỗi [hộc] có một bức tượng Phật ngồi, với
[hai] vị Bồ-tát đứng hầu hai bên. Có khoảng 20 chiếc xe như vậy… Vị Bà-la-môn
[được đề cập ở trên] đến và thỉnh Phật (tức là những tượng Phật). [Những chiếc
xe] với [tượng] Phật nối nhau đi vào kinh thành. Khi đi vào kinh thành, chúng ở
lại đó hai đêm. Suốt đêm, dân chúng tôn kính chúng bằng việc đốt đèn, nhảy múa
và âm nhạc.
Đáng chú ý là Pháp Hiển đã sao chép bản viết tay bộ luật của Đại chúng bộ ở một
ngôi chùa Đại thừa đó là chùa Devarāja, nơi chư Tăng Đại thừa cư trú. Như chúng
ta đã thấy ở trên, bản viết tay bộ luật này đã được mang từ tịnh xá Kỳ Viên đến
Pāṭaliputra
không phải để lưu trữ nơi thư viện ở đây, mà dùng cho việc giải quyết những vấn
đề trong Tăng chúng. Từ tất cả những sự việc này, chúng ta có thể kết luận rằng
những Tăng sĩ Đại thừa ở tại chùa Devarāja ở Pāṭaliputra
cũng thuộc về Đại chúng bộ, và rằng ngôi chùa đó là một ngôi chùa Đại chúng bộ
kết hợp Đại thừa. Có lẽ, những Tăng sĩ Đại thừa khác ở vương quốc này, những
người tôn kính đạo sư Mañjuśrī của ngôi chùa đó, cũng là những người Đại chúng
bộ. Nơi đoạn trích ở trên, Pháp Hiển đề cập đến một tịnh xá Tiểu thừa nằm đối
diện với ngôi chùa Đại thừa (kết hợp Đại chúng bộ) này. Ngôi tịnh xá này chắc
hẳn thuộc về một tông phái không thuộc Đại chúng bộ. Trong ký sự của mình, Pháp
Hiển viết rằng, ở Pāṭaliputra,
cũng có một bộ luật được truyền miệng của những người Nhất thiết hữu bộ, bao gồm
(số chữ tương đương với) khoảng bảy ngàn (śloka-) bài kệ (tức là độ dài của nó
tương đương với khoảng bảy phần tám kinh Aṣṭasāhasrikā-Prajñāpāramitā/ Bát
thiên tụng bát-nhã-ba-la-mật-đa). Bằng cách nào đó ông đã có được bản viết
của bộ luật, hoặc có khả năng hơn, ông đã tự viết bản truyền khẩu này ngay chính
nơi ngôi tịnh xá Tiểu thừa đó. Rõ ràng rằng tịnh xá này thuộc về Nhất thiết hữu
bộ.
2. Những người Đại chúng bộ và những người theo Phật giáo Đại thừa
Chùa Devarāja ở Pāṭaliputra
cũng được đề cập nơi phần hậu ký bản dịch kinh Đại bát-niết-bàn thuộc Đại
thừa của Pháp Hiển. Như Pháp Hiển ghi nơi ký sự của mình, ông cũng đã thu thập
được một bản viết tay kinh này ở Pāṭaliputra.
Đáng tiếc, phần hậu ký nguyên thủy bị mất. Tuy nhiên, nó được trích ở nơi
Xuất Tam tạng ký tập của Tăng Hựu, như được đề cập ở trên, mặc dù có khả
năng rằng đoạn trích dẫn là kết quả của việc sửa lại của Tăng Hựu như ở nơi
trường hợp phần hậu ký được trích dẫn ở trên đối với bộ luật của những người Đại
chúng bộ. Phần hậu ký được trích dẫn là như sau:
Số 18: Tường thuật về kinh
Đại bát-niết-bàn, (gồm có) sáu cuốn, được trích từ phần hậu ký của kinh.
Khi ở tịnh xá Thiên Vương (天王精舍,
Devarāja), nằm về phía Nam của bảo tháp vua A Dục ở kinh thành
Ba-liên-phất-ấp (Pāṭaliputra)
ở nước Ma-kiệt-đà (Magadha), một vị Ưu-bà-tắc (upāsaka) tên là Ca-la-tiên (伽羅先)
đã gặp một Tăng sĩ Trung Quốc, đó là Thích Pháp Hiển, người từ xa đến vương quốc
này để cầu Pháp. Ông rất cảm động và do đó đã sao chép
Đại bát-niết-bàn kinh Như Lai bí tàng (大般泥洹經如來祕藏)
này cho [tôi]. Ông mong rằng kinh này được truyền bá ở Trung Quốc và tất cả
chúng sinh đều đạt được Pháp thân Như Lai.
Vào [ngày] mùng một tháng Mười năm Nghĩa Hy thứ mười ba (tức năm 417 TL), [chúng
tôi] bắt đầu dịch kinh
Phương đẳng đại bát-nê-hoàn (方等大般泥洹經/
Vaitulya-Mahāparinirvāṇa-sūtra) ở chùa Đạo Tràng (道場寺),
được xây dựng bởi vị quan trông coi việc xây dựng (司
空)
là Tạ Thạch (寶雲
(376-449/450 TL) và hoàn tất việc sửa lại (bộ kinh) vào ngày mùng hai tháng
Giêng năm [Nghĩa Hy] thứ 14. [Vào ngày đó], Thiền sư Phật-đại-bạt-đà
(Buddhabhadra, 359-429/430 TL) cầm Hồ/Phạn bản trong tay và Bảo Vân (寶雲
(376-449/450 TL) đã dịch [bản kinh được Phật-đại-bạt-đà đọc). Vào bấy giờ, có
250 người đang viếng thăm [nơi đó].
Phần hậu ký này rất quan trọng cho việc nghiên cứu về nguồn gốc và việc truyền
bá bản kinh Đại thừa này. Điều đặc biệt thú vị và ý nghĩa ở đây là, một vị cư sĩ
của ngôi chùa Đại chúng bộ kết hợp Đại thừa, tức là chùa Devarāja, đã sao chép
bản viết tay kinh này cho Pháp Hiển. Mặc dù phần hậu ký không nói về việc bản
kinh đã được lưu giữ ở đâu, sự thật rằng không có một vị Tăng nào ngoài một cư
sĩ đã sao chép bản kinh này, mà nội dung của nó là bình phẩm về những vấn đề
thuộc thẩm quyền của Tăng đoàn,
cho thấy rằng bản chép tay không được giữ ở trong tu viện mà ở nơi một bộ sưu
tập riêng của vị cư sĩ. Giả thuyết này được ủng hộ bởi một ký sự khác của Trí
Mãnh (智猛,
?-454
TL). Theo tiểu sử của ông, vị Tăng Trung Quốc này rời Trường An vào năm 404 TL,
đã viếng thăm Kashmir, Magadha, Kapilavastu và thậm chí Nam Ấn, và quay trở lại
Trung Quốc vào năm 424 TL. Vào khoảng năm 433 TL, ông đến Đôn Hoàng và vào cùng
năm ấy, ở Lương Châu (涼州),
ông đã dịch kinh Đại bát-niết-bàn thuộc Đại thừa ấy sang Hán ngữ. Ông đã
viết một ký sự, được gọi là Du hành ngoại quốc truyện (遊行外國傳),
mà nó hiện bị mất, nhưng hẳn là rất nổi tiếng, bởi vì nó được đề cập ngay cả ở
nơi danh mục văn học lịch sử chính thức triều Tùy, đó là Tùy Đường kinh tịch
chí (隋書經籍志,
636 TL). Thật đáng tiếc, mặc dù bản dịch của Trí Mãnh về kinh Đại
bát-niết-bàn thuộc Đại thừa, bao gồm 20 quyển, đã bị mất, một phần ký sự của
ông, mà ở đó bản viết tay của bộ kinh được đề cập, được trích ở nơi Xuất Tam
tạng ký tập của Tăng Hựu như sau:
Số 19: Tường trình về [kinh]
Đại bát-niết-bàn, [gồm] 20 quyển, được trích từ Du ngoại quốc truyện (遊外國傳)
của Trí mãnh.
Tiểu sử của Trí Mãnh nói: Ở nước Tỳ-xá-ly (Vaiśālī), Đại thừa và Tiểu thừa được
học riêng. Từ thành Đế-lợi (?), [Trí Mãnh] đi vào thành Hoa Thị (Pāṭaliputra).
Ở đó có một Bà-la-môn sống. Vị này có nhiều bà con. Ông có bẩm tính thông minh,
quy y Đại thừa, và sau khi đọc nhiều kinh sách (Đại thừa?), đã hoàn toàn thông
thạo về mọi thứ. Trong nhà của ông có một ngôi tháp bằng bạc, dài tám xích (尺),
rộng tám xích và cao 3 trượng (丈)
(xấp xỉ 2.6 × 2.6 × 10 m). Ông có nhiều (bản chép tay) kinh điển Đại thừa và tôn
kính chúng theo nhiều cách khác nhau. Bà-la-môn hỏi Trí Mãnh từ đâu đến. Trí
Mãnh trả lời rằng ông đến từ Trung Quốc. [Vị Bà-la-môn] hỏi Đại thừa có được học
ở Trung Quốc không. [Trí Mãnh] trả lời: “Chỉ có Đại thừa được học ở đó.” [Vị
Bà-la-môn] ngạc nhiên và nói trong sự cảm kích sâu sắc nhất: “Thật tuyệt vời!
Không lẽ rằng chư Bồ-tát đã đến đó để dạy [dân chúng]?” Trí Mãnh sau đó thu thập
được một bản viết tay tiếng Ấn bản kinh
Đại bát-niết-bàn ở nhà của vị Bà-la-môn này. Sau khi quay trở về [Trung
Quốc], ông đã dịch [kinh này] thành 20 quyển ở Lương Châu.
Tường thuật liên quan đến Pāṭaliputra
ở nơi ký sự của Pháp Hiển và Trí Mãnh được trích dẫn ở trên đã bị trộn lẫn vào
tiểu sử của Trí Mãnh.
Theo tiểu sử này, Pháp Hiển đã nhận bản viết tay kinh Đại bát-niết-bàn
này ở nơi nhà vị Bà-la-môn mà chính Trí Mãnh cũng đã nhận bản sao chép khác của
cùng bản kinh; và Trí Mãnh cũng đã thu thập được một bản viết tay bộ luật của
Đại chúng bộ. Thông tin này không cho thấy đáng tin cậy. Tuy nhiên, nếu ta thấy
rằng Trí Mãnh đã viếng Pāṭaliputra
chỉ khoảng mười năm sau Pháp Hiển, thì không phải không thể rằng vị cư sĩ, người
đã trao cho Pháp Hiển bản viết tay, cũng chính là vị Bà-la-môn mà Trí Mãnh đã có
được bản viết tay khác ở vị này, hoặc một trong những người bà con của ông.
Chùa Devarāja ở Pāṭaliputra
cũng được đề cập ở nơi một bản kinh nói về giới luật của Đại chúng bộ, đó là
Xá-lợi-phất vấn kinh (舍利弗問經,
*Śāriputra-paripṛcchā;
T. 24, no. 1465). Trong bản kinh này, Đức Phật nói với Xá-lợi-phất như sau:
Có con trai của một vị trưởng giả, tên là Phân-nhược-đa-la (*Puṇyatara), người
có đủ thiện căn và sinh vào một gia đình Bà-la-môn, mong muốn xuất gia và tu tập
đạo vô thượng. Chàng ta theo Đại Mục-kiền-liên và cầu xin ngài thọ giới tại tịnh
xá Thiên Vương (Devarāja) ở Ba-liên-phất-ấp (Pāṭaliputra).
Funayama
đã nghiên cứu bản kinh này kỹ lưỡng và kết luận rằng bản kinh này không phải là
một bản dịch chân thực từ một nguyên tác Ấn Độ, mà một tác phẩm hư cấu được tạo
tác ở Trung Quốc, chính xác là sau bản dịch bộ luật thuộc Đại chúng bộ của Pháp
Hiển, khi tên gọi “tịnh xá Thiên Vương” được vay mượn từ phần hậu ký bản dịch
của Pháp Hiển về bộ luật được trích ở trên. Funayama cũng nghi ngờ về tính xác
thực của nó như là một bộ luật của Đại chúng bộ từ sự thật rằng Bồ-tát Văn Thù
(Mañjuśrī) được đề cập ở cuối bản văn và cụm từ “chư Phật” (諸佛)
cũng xuất hiện nơi cùng bản văn, mà cả hai đều là những yếu tố mang đặc điểm
Phật giáo Đại thừa.
Tuy nhiên, cách quy ước khuôn sáo trong việc xác quyết một sự phân biệt rạch ròi
giữa (những) tông phái Tiểu thừa và Đại thừa này không tương thích với thực tế.
Điều mà những tường thuật được trích ở trên và những hậu ký cho biết, phần nào,
là một sự cộng sinh của những người Đại chúng bộ và những người theo Đại thừa
(ít nhất) ở Pāṭaliputra.
Sự cộng sinh này được miêu tả rõ ràng ở nơi trường hợp vị đạo sư Mañjuśrī được
đề cập ở trước, người trú tại chùa Thiên Vương, mà những Tỳ-kheo sống ở chùa này
là những người Đại chúng bộ, và được tất cả những Tăng sĩ Đại thừa ở vương quốc
này tôn kính. Đồng thời, một vị cư sĩ của ngôi chùa ấy đã sao chép một bản viết
tay kinh Đại bát-niết-bàn thuộc Đại thừa cho riêng Pháp Hiển. Sự cộng
sinh như vậy có thể dễ dàng đưa đến một mối liên hệ gần gũi giữa những người Đại
chúng bộ và Phật giáo Đại thừa, như được phản ánh nơi Xá-lợi-phất vấn kinh
được đề cập ở trên.
Một sự cộng sinh như vậy tồn tại có lẽ không chỉ ở Pāṭaliputra
mà cũng ở những nơi khác, như tạng Schøyen minh họa, mà nó chứa nhiều đoạn viết
tay kinh sách Phật giáo bằng tiếng Sanskrit và Gāndhārī, bao gồm nhiều kinh sách
Đại thừa khác nhau, chẳng hạn như Saddharmapuṇḍarīka-sūtra,
Aṣṭasāhasrikā-prajñāpāramitā, Samādhirāja-sūtra, cùng với nhiều đoạn Vinaya
của Đại chúng bộ (-Thuyết xuất thế bộ).
Những đoạn này đến từ Bamiyan, nơi, theo ký sự của Huyền Trang, có rất nhiều
chùa chiền, mà ở đó hàng ngàn Tăng sĩ Thuyết xuất thế bộ (-Đại chúng bộ) cư ngụ.
Sau khi thọ giới, một Tỳ-kheo phải và vẫn phải theo những giới luật của một
trong những bộ luật của Theravāda, Nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin), Căn bản
thuyết Nhất thiết hữu bộ (Mūlasarvāstivādin), Hóa địa bộ (Mahīśasaka), Đại chúng
bộ (Mahāsāṃghika), Đại chúng bộ-Thuyết xuất thế bộ
(Mahāsāṃghika-Lokottaravādin), Đàm vô đức bộ (Dharmaguptaka), Ẩm quang bộ
(Kāśyapīya) v.v..., và tham gia vào một lễ tụng đọc giới bổn (Prātimokṣa)
được tổ chức vào giữa và cuối tháng (uposatha, poṣadha,
posaṭha).
Do đó, về nguyên tắc, không có một Tăng sĩ Đại thừa nào đúng nghĩa là một
Tỳ-kheo đúng pháp. Tuy nhiên, một người đã thọ giới ở nơi một trong các tông
phái và theo bộ luật của nó, về mặt lý thuyết được đọc kinh điển Đại thừa và
thực hành theo miễn vị Tăng đó theo bộ luật của mình và tham gia vào những sinh
hoạt của Tăng đoàn. Do đó, những người biên soạn kinh điển Đại thừa là những
Tăng sĩ Phật giáo với điều kiện họ đã thọ giới ở nơi một trong những truyền
thống Luật tạng và tham gia vào việc tụng đọc giới bổn (Prātimokṣa).
Những kinh sách Đại thừa chẳng hạn như Saddharmapuṇḍarīka,
Aṣṭasāhasrikā-prajñāpāramitā, Samādhirāja-sūtra v.v… rõ ràng phê bình những
học thuyết của những người Bổ-đặc-cà-la (補特伽羅論者,Pudgalavādin)
và Nhất thiết hữu bộ.
Do đó, những người biên soạn những kinh này không thể là thành viên của những
tông phái đó. Trong bài viết của tôi gần đây (Karashima 2015), tôi đã cho rằng
những kinh này được những Tăng sĩ Đại chúng bộ biên soạn. Pháp Hiển tường thuật
rằng vị đạo sư Đại thừa rất được tôn kính Mañjuśrī đã sống ở một ngôi chùa Đại
chúng bộ, điều muốn nói rằng vị đạo sư đó theo truyền thống của những người Đại
chúng bộ và tham gia vào việc tụng đọc giới bổn của tông phái đó. Có lẽ, có
những ngôi chùa của Đại chúng bộ, ở đó những Tỳ-kheo vừa theo Đại chúng bộ vừa
theo Đại thừa sống, những người này không ủng hộ quả vị A-la-hán truyền thống mà
chủ trương trí tuệ Phật (Buddha-jñāna). Được cho là, cũng có những ngôi chùa của
tông phái này, ở đó những người theo Đại thừa, cả Tăng và cư sĩ, có mặt. Điều
này có thể là lý do tại sao chùa Devarāja của tông phái này cũng được gọi là
chùa Đại thừa.
3. Devarāja = Chandragupta II?
Từ “thiên vương” (天王)
ở trong Thiên Vương tịnh xá (天王精舍)
có thể chỉ là một sự chuyển dịch từ từ Sanskrit devarāja. Từ này, có
nghĩa là “vua của chư thiên”, thường được tìm thấy nơi văn học Ấn Độ. Trong hệ
thống tín ngưỡng Hindu, danh hiệu này được gán cho Indra, nhưng ở nơi những bản
chữ khắc tương đối trễ ở Nam Ấn, nó được quy cho Śiva hoặc Viṣṇu.
Tuy nhiên, devarāja, có nghĩa là “một vị vua như trời” - đề cập một vị vua như
một vị trời sống trên trái đất, xuất hiện ít nhất nơi hai bản chữ khắc Sanskrit.
Một bản chữ khắc trên đồng, được phát hiện ở Bắc Afghanistan (Bactria) và có
niên đại trở lại cuối thế kỷ V, bây giờ được lưu giữ nơi tạng Schøyen, Na Uy,
đưa ra một danh mục những thí chủ cúng đường xây dựng một ngôi tháp. Trong số
họ, một danh sách các vị vua những người Hun Trắng (tức là người Alchon Hun và
Hephthalite), đó là Khiṅgila,
Toramāṇa,
Javūkha v.v… được tìm thấy. Vua Toramāṇa
được gọi là devarāja ở nơi bản chữ khắc này.
Tên gọi hay danh hiệu devarāja cũng xuất hiện nơi một bản chữ khắc trên một
tường rào bằng đá, được khắc vào năm 412/413 TL ở Sanchi:
mahārājādhirāja-śrī-Candraguptasya Devarāja iti priyanām (“vị vua lớn của
các vua, Chandragupta vinh quang được gọi là ‘devarāja’ như là một từ quý mến
[?]”) Vì sau chữ “priyanām” phần chữ khắc đã bị hư hỏng, nên không chắc chắn
devarāja có thực sự là một biệt danh của Chandragupta hay không (hay là tên của
một trong những vị đại thần của ông).
Khi Pháp Hiển ở Pāṭaliputra
(406-409 TL), Chandragupta II (r. 376-415)
cai trị Trung Ấn. Pháp Hiển mô tả Pāṭaliputra
là “xứ lớn nhất trong những vương quốc ở Trung Ấn”. Mặc dù không phải là kinh đô
của toàn đế chế Gupta,
nó có thể là kinh đô của vương quốc Ma-kiệt-đà (Magadha), một trong những thuộc
địa của đế chế Gupta.
Huyền Trang viếng Pāṭaliputra
vào năm 630 TL, khoảng 200 năm sau Pháp Hiển và Trí Mãnh, và nơi ký sự của mình,
ông đã viết chi tiết hơn về ngôi tháp A Dục và những tu viện ở vùng lân cận nó.
Tuy nhiên, tịnh xá Devarāja hay điều giống vậy không được đề cập.
Có thể, tịnh xá đó đã đổ nát trong khoảng thời gian 200 năm đó.
Bản chữ khắc được đề cập ở trên ở Sanchi được viết vào năm 412/413 TL. Do đó,
tịnh xá Devarāja, chính là “một ngôi tịnh xá của một vị vua giống như trời”, mà
nó “rất trang nghiêm” (甚嚴麗)
theo miêu tả của Pháp Hiển, có lẽ do chính Chandragupta II hiến cúng (hoặc vị
đại thần của ông có tên Devarāja?), nhưng về sau nó bị đổ nát theo sự sụp đổ của
đế chế Gupta (550? TL).
Do đó, không hoàn toàn ngạc nhiên là Xá-lợi-phất vấn kinh
(*Śāriputra-paripṛcchā)
được nói ở trên đề cập đến tịnh xá Thiên Vương (
天王精舍),
mà nó thực sự có thời đã có mặt. Sự thật rằng, tên gọi lịch sử này được đề cập
nơi bản kinh, chỉ ra rằng nơi chốn và thời gian của việc biên soạn nó, nhưng
điều này không có nghĩa rằng bản kinh đã được tạo ra ở Trung Quốc như Gunayama
khẳng định.
Nguồn:
Annual Report of The International Research Institute for Advanced Buddhology at
Soka University,
Volume XXI, (March 2018), tr. 197-207.
Tài liệu tham khảo:
Bhandarkar, Devadatta Ramakrishna
(1981)
Inscriptions of
the Early Gupta Kings,
revised by Devadatta Ramakrishna Bhandarkar;
edited by
Bahadurchand Chhabra & Govind Swamirao Gai, New Delhi: Archaeological
Survey of India
(Corpus inscriptionum Indicarum, vol. 3).
Enomoto, Fumio
榎本文雄
(2013)
“devarāja
ni tsuite”
devarājaについて
[On
devarāja],
in:
Minami Ajia oyobi Tōnan Ajiani okeru Devarāja Shinkō to sono Zōkei ni kansuru
Kisoteki Kenkyū
南アジアおよび東南
アジアにおけるデーヴァラージャ信仰とその造形に関する基礎的研究
[A Study on
the Devaraja Cult
and its Arts in South Asia and Southeast Asia], Report of the Grant-inAid for
Scientific Research (A), headed by Takashi Koezuka
肥塚隆,
2009-2012,
published by
Graduate School of Letters at Ōsaka University, Japan.
Fleet, John Faithful
(1888),
Inscriptions of
the Early Gupta Kings and their Successors,
Calcutta: Superintendent,
Government
Printing, India (Corpus Inscriptionum Indicarum, vol. 3).
Funayama, Tōru
船山徹
(2007),
“Kyōten no Gisaku to Henshū:
Yuikyō Zanmai kyō
to
Sharihotsu Mon kyō”
經典の僞作と編輯『遺教三昧經』と『舍利弗問經』
[Forgery and Compilation of Buddhist
Scriptures: The
Yijiao sanmei jing
遺教三昧經
and the
Shelifu wen jing
舍利弗問經],
in:
Chūgoku Shūkyō
Bunken Kenkyū
中国宗教文献研究
[Religions in Chinese Script:
Perspectives for
Textual Research], ed. Kyōto Daigaku Jinbun Kagaku Kenkyūjo
京都大学人文科学研究所
[Institute for Research in Humanities, Kyoto University], Kyoto: Rinsenshoten (臨川書店),
pp. 83-107.
Goyal, Shriram
(2005),
The Imperial
Guptas: A Multidisciplinary Political Study,
Jodhpur (India): Kusumanjali
Book World.
Gupta, Parameshwari Lal
(1992),
The Imperial
Guptas,
vol. 1, Varanasi: Vishwavidyalaya Prakashan.
IBInsc = Keishō
Tsukamoto
塚本啓祥,
Indo Bukkyō Himei no Kenkyū
インド仏教碑銘の研究
[A
Comprehensive
Study of the Indian Buddhist Inscriptions],
part I, Text, Notes and Japanese
Translation; part
II, Indices, Maps and Illustrations; part III, Inscriptions in Northern Areas,
Pakistan, Kyoto
1996~2003: Heirakuji Shoten
平樂寺書店.
Iwamoto, Yutaka
岩本裕
(1986), “DEVARAJA ron” DEVARAJA
論
[On devarāja], in: Tōnan Ajia shi Gakkai Kaihō
東南アジア史学会会報
[Journal of the Japan Society for Southeast Asian Studies], no. 44: 4-5.
Karashima, Seishi
辛嶋静志
(2007), “Who were the icchantikas?”, in: ARIRIAB 10: 67-80.
Karashima, Seishi (2008),
“Fragments of a Manuscript of the
Prātimokṣasūtra
of the Mahāsāṃghika-
(Lokottara)vādins
(1)”, in: ARIRIAB, vol. XI (2008), pp. 71-90 + 25 plates.
Karashima, Seishi (2013), “Manuscript Fragments of the Prātimokṣasūtra
of the Mahāsāṃghika
(- Lokottaravādin)s (2)”, in: ARIRIAB, vol. XVI (2013): 47-90 + plates 14-51.
Karashima, Seishi
(2015), “Who Composed the Mahāyāna Scriptures? –
The Mahāsāṃghikas
and Vaitulya Scriptures”, in: ARIRIAB, vol. 18: 113-162.
Karashima, Seishi (2016), “Hewei panduan Yiweijing zhi genju: yi Yulanpen jing
yu Shelifuwen jing wei li”
何為判斷疑偽經之根據:以《盂蘭盆經》與《舍利弗問經》為例
[“What are the criteria for branding scriptures as apocryphal?: Taking the
Yulanpen jing and the "Sūtra on Śāriputra’s Questions" as examples], in: Fojiao
Wenxian Yanjiu
佛教文獻研究,
vol. 1 (2016, 6), Guilin
桂林:
Guangxi Shifan Daxue Chubanshe
廣西師範大學出版社,
pp. 201-237.
Melzer, Gudrun
(2006),
“A Copper Scroll Inscription from the Time of the Alchon Huns”, in: BMSC, vol.
III,
pp. 251-278.
Willis, Michael D.
(2005),
“Later Gupta History: Inscriptions, Coins and Historical Ideology”, in:
Journal of the
Royal Asiatic
Society of Great Britain and Ireland
15: 131-150.