Những điều cần biết khi chăm sóc người hấp hối
nhung dieu
TINH VÂN – NHÃ TUỆ
Có sinh ắt có tử, niềm
vui sướng khi mới ra đời thường làm cho con người ta quên mất nỗi bi thương
tột cùng của lúc chết; người đời cũng không biết sự kết thúc của sinh mệnh
bên này vốn là sự bắt đầu của lúc mới sinh ra bên kia. Giữa ranh giới sống và
chết, thường chúng ta chỉ biết nỗi khổ đau
của mình, mà không chú ý quan tâm đến tâm trạng của người hấp hối (lâm
chung/sắp chết). Vì thế, làm thế nào để người lâm chung có được sự chăm sóc
về mặt thể xác và tinh thần tốt nhất, là sự tôn nghiêm của cái chết,
cũng là vấn đề quan trọng của “sinh quyền” (tất cả chúng sinh đều có
quyền lợi sinh sống).
Mục đích chủ yếu của
việc quan tâm lâm chung, là khiến cho người lâm chung khi đối diện với
giai đoạn sau cùng của đời người có thể nhận thức và chấp nhận cái chết,
trong tâm không nảy sinh sợ hãi phiền khổ, từ đó an nhiên đối diện với cái chết,
đồng thời không lấy việc kéo dài mạng sống hoặc kéo dài hơi tàn làm mục tiêu.
Quan tâm lâm chung đồng thời cũng là sự giúp đỡ và động viên về mặt
tinh thần cho những người trong
gia đình, giúp họ vượt qua phút giây sinh ly tử biệt của cuộc đời này. Vì vậy,
những thường thức của pháp Phật về lâm chung, trở thành nơi giúp đỡ về mặt
tâm linh tốt nhất cho đôi bên: người lâm chung và gia quyến.
Cơ quan quan tâm lâm
chung sớm nhất của Phật giáo, là “Vô Thường viện” được thiết lập ngay tại
tinh xá Kỳ-viên ở Ấn Độ, mục đích là mong muốn giúp cho những người mắc bệnh có thể
khơi dậy niềm tin vãng sinh Tây phương Cực
lạc, điều này có được là nhờ dựa vào tư tưởng trong pháp môn Tịnh độ Di Đà. Thiền lâm của Trung
Quốc thì có “An Lạc đường” hoặc “Niết-bàn
đường”, “Hỷ Lạc tháp viện”, “An Dưỡng trung tâm”, bên trong cơ cấu công việc có
đường chủ, chấp chưởng (quản lý) chăm sóc bệnh Tăng. Tự viện bây giờ thì
có “Như Ý liêu”, “An Ninh bệnh phòng”, chuyên phục vụ cho người bị bệnh tật. Ngoài
ra, phẩm Giải đầu-đà thuộc luận Thập trụ Tỳ-bà-sa, Quán niệm pháp môn do Thiện Đạo (613-681), Tăng nhân đời Đường biên soạn, cho đến Chiêm bệnh tóng chung thiên thuộc Tứ phần luật hành sự sao của Đạo Tuyên
(596-667), Tăng luật đời Đường,
cũng có ghi chép rõ ràng về chăm sóc lâm
chung. Ngày nay, Giáo sư Điền Cung Nhân, Đại học Phật
giáo Kyoto Nhật Bản, thậm chí đề xướng “Tỳ-kha-la”
(Vihara), được xem như là trung tâm trị
liệu cứu trợ (hộ lý) giai đoạn cuối theo phúc lợi xã hội Phật giáo. Những tổ chức này đã
cho thấy Phật giáo quý trọng đối với sinh mệnh và tôn trọng đối với vấn đề tử
vong.
Về việc chăm sóc lâm chung thời nay, ở
Đài Loan có hội quỹ chăm sóc lâm
chung Liên Hoa, hội quỹ trông nom An
Ninh. Bên cạnh đó, các bệnh viện có phòng bệnh An Ninh, bệnh viện thuộc Viện Y học Đại học Đài
Loan, bệnh viện Mã Giai, bệnh viện Vinh Dân Tổng.v.v... Đây là
những hệ thống bệnh
viện rất lớn, ở
đó có sự kết hợp của các thành viên như
bác sĩ, hộ lý sư, chuyên gia dinh dưỡng,
dược sĩ, bác sĩ vật lý trị liệu, nhờ đó giảm bớt,
xoa dịu nỗi đau khổ trên thân thể bệnh nhân; đồng thời có sự tham gia của
những nhân viên công tác xã hội, nhân sĩ tôn giáo, khiến người bệnh loại bỏ được tâm lý sợ hãi
cái chết; lại nhờ có sức mạnh của tôn giáo, đã giúp người lâm chung có được sự an ủi
và dẫn dắt.
Chăm sóc lâm chung là
giúp đỡ bệnh nhân có lộ trình đi hết cuộc đời cuối cùng một cách trang nghiêm.
Vì vậy, lúc chăm nom, nên chú ý những việc sau đây:
1.
Nhận thức những thay đổi tâm lý của bệnh nhân
lâm chung
Những thay đổi trong tâm trạng của người khi đối mặt
với cái chết có những cung bậc khác nhau, do vậy người nhà, người tình
nguyện, nhân sĩ từ thiện, thầy đạo
(tôn giáo)… đều cần phải hiểu rõ và có trợ giúp thích hợp, như:
Thứ 1, hoảng sợ. Phải nghĩ cách khiến
tâm của người lâm chung sinh khởi vui vẻ, không bị các nỗi sợ hãi khống chế.
Thứ 2, phẫn nộ. Phải
an ủi người lâm chung, khiến tâm tình bình tĩnh, vạn duyên buông xuống, không
sinh khởi yêu ghét.
Thứ 3, tội lỗi. Giúp người lâm chung không có cảm giác tội
lỗi, dạy họ niệm Phật có thể tiêu trừ tội
chướng.
Thứ 4, bất xả. Khuyên
nhủ người thân, tài vật của họ đối với thế gian không sinh tâm tham luyến.
Thứ 5, lo âu. Khiến
người bị bệnh yên tâm, bất tất nghĩ ngợi chuyện người phức tạp.
Thứ 6, bất trợ. Khiến
họ biết rất nhiều người thân bạn bè làm trụ cột tinh thần của họ.
Thứ 7, cam chịu/tự
khinh. Khích lệ họ kiên định niền tin, niệm Phật tất sinh về quốc độ Cực lạc.
Thứ 8, cô độc. Không
nên khiến người bệnh cảm thấy cô độc trên giường bệnh.
Thứ 9, chán nản. Người
bị bệnh lúc sắp lìa đời nếu có ủ rủ, thì nên dành cho họ sự an ủi thích hợp.
Thứ 10, vô tri. Nói với
người bệnh rằng họ sẽ sinh về quốc độ thanh tịnh an lạc hạnh
phúc, khiến họ biết tương lai còn niềm hy vọng vô hạn.
2. Nhìn thẳng vào nhu cầu bệnh nhân
lâm chung
Người tham gia chăm
sóc lâm chung, nên tạo ra biểu tư liệu chia sẻ tâm tư cho mỗi vị bệnh nhân, để
tìm hiểu nhu cầu và nguyện vọng cá nhân của mỗi người, hoặc từ quan sát mà biết
được nhu cầu của họ. Ví dụ:
Thứ 1, mong muốn hiểu
rõ bệnh tình.
Thứ 2, mong muốn nhận
được sự khoan dung của người khác.
Thứ 3, hiểu rõ khoan
dung người khác.
Thứ 4, mong muốn người
khác quan tâm mình.
Thứ 5, gặp gỡ thân
thích bè bạn.
Thứ 6, hiểu rõ về sinh
mệnh.
Thứ 7, theo đuổi tín
ngưỡng tôn giáo.
Thứ 8, sự an bài hậu sự.
3. Dành sự trợ giúp cho bệnh nhân lâm chung
Thứ 1, bằng thái độ quan tâm chăm chú lắng nghe.
Thứ 2, hãy để cho những người mà bệnh nhân
yêu quý quan tâm đúng lúc, đồng thời cùng ở bên cạnh.
Thứ 3, tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo của
bệnh nhân.
Thứ 4, kể những câu chuyện và đạo lý về sám
hối.
Thứ 5, bố trí Pháp sư hoặc nhân sĩ tôn giáo
trò chuyện với bệnh nhân.
Thứ 6, cố gắng những gì có thể để đáp ứng
những hy vọng của bệnh nhân.
Thứ 7, cùng thảo luận nguyện vọng của bệnh
nhân.
Thứ
8, báo cho bác sỹ biết, giảm nhẹ nỗi đau đớn thể xác bệnh nhân, giữ được thần
thức thanh thản.
Thứ
9, giúp đỡ bệnh nhân và người nhà bệnh nhân giữ nếp sống thường nhật, cũng như
chuẩn bị hậu sự.
Thứ
10, giữ tâm lý ôn hòa nơi bệnh nhân.
Thứ
11, trợ niệm cho bệnh nhân, giúp người bệnh khởi lên chánh niệm, an nhiên giã từ
cõi đời.
Nguồn: Tinh Vân (2008), Phật giáo và thế tục, Nxb. Từ thư Thượng Hải, tr.181-184