Đoạn trừ lậu hoặc
doan tru
Đoạn
trừ lậu hoặc
Chân Hiền Tâm
Lậu
hoặc
là nhân đưa đến đau khổ và luân hồi sinh tử triền miên. Đó là lý do vì sao
người tu giải thoát cần đoạn trừ lậu hoặc.
Lậu
là tên gọi khác của phiền não (tham, sân, si).
Lậu
là âm Hán, nghĩa thứ nhất là chảy ra. Vì loài hữu tình trong ba cõi, thông qua
sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chảy ra phiền não không ngừng, nên gọi là
lậu. Nghĩa thứ hai là lưu, là rơi rớt. Vì loài hữu tình do nó mà lưu lại trong
ba cõi, không thể giải thoát, nên gọi là lậu. Nghĩa thứ ba là sót mất. Vì do
đây mà bỏ mất chánh đạo, nên gọi là lậu.
Hoặc
là mê mờ. Do mê cảnh mà điên đảo sự lý nên gọi là hoặc. Do mê lầm đối với cảnh được
nhận biết mà sinh phiền não, nên gọi là lậu hoặc.
Muốn không phiền não, muốn giải
thoát thì phải hàng phục cho được phần lậu hoặc này.
Trong kinh Trung bộ I, Phật dạy 7 cách giúp phòng hộ và diệt tận lậu hoặc: “Này các Tỷ-kheo! Có những lậu hoặc phải do
tri kiến mà được đoạn trừ. Có những lậu hoặc phải do phòng hộ mà được đoạn trừ.
Có những lậu hoặc phải do thọ dụng mà được đoạn trừ. Có những lậu hoặc phải do
kham nhẫn mà được đoạn trừ. Có những lậu hoặc phải do tránh né mà được đoạn
trừ. Có những lậu hoặc phải do trừ diệt mà được đoạn trừ. Có những lậu hoặc
phải do tu tập mà được đoạn trừ”. Nếu y cứ vào nghĩa của lậu hoặc là do mê
cảnh mà sinh tham sân si, thì 7 pháp giúp diệt tận lậu hoặc chính là: Phải
trang bị cho mình loại tri kiến mà tri kiến này giúp trừ bỏ mê lầm và tham,
sân, si. Phải có sự phòng hộ mà sự phòng hộ này giúp trừ bỏ mê lầm và tham,
sân, si. Phải có sự thọ dụng mà sự thọ dụng này giúp diệt trừ mê lầm và tham,
sân, si. Phải có sự kham nhẫn mà sự kham nhẫn này giúp trừ bỏ mê lầm và tham,
sân, si. Phải có sự tránh né mà sự tránh né này giúp trừ bỏ mê lầm và tham,
sân, si. Phải có sự trừ diệt mà sự trừ diệt này giúp trừ bỏ mê lầm và tham,
sân, si. Phải có sự tu tập mà sự tu tập này giúp trừ bỏ mê lầm và tham, sân,
si. Trừ bỏ từ phần hiện hành cho đến phần chủng tử, nói chính xác là soi thấu thực
chất của những chủng tử ấy.
Tri
kiến giúp đoạn trừ lậu hoặc
Một chàng trai thuộc gia đình khả
kính sống ở thành Xá-vệ, vào rừng kiếm con bò bị lạc. Sau khi tìm ra bò, anh
đói quá bèn tìm đến tinh xá xin thức ăn. Ăn xong anh nhận ra rằng, dù lao động
vất vả anh cũng không thể kiếm ra thức ăn ngon như ở tinh xá, ở đó lại không
phải lao động cực nhọc, vì thế anh xin xuất gia.
Sau khi xuất gia, ăn uống no đủ phì
béo rồi, anh lại chán đời sống khất thực và muốn hoàn tục. Hoàn tục rồi, làm
việc cực nhọc, thân thể tiều tụy, anh lại muốn xuất gia. Xuất gia xong, lại bất
mãn và hoàn tục. Do khi còn trong Tăng chúng, anh thường làm việc chăm chỉ và
hay giúp đỡ mọi người, nên dù xuất và hoàn đến sáu lần, anh vẫn được chấp nhận
trở lại. Và anh được đặt tên là Cittahattha. Cittahattha, có nghĩa là người bị
tâm sai sử.
Lần thứ bảy, khi trở về nhà, lòng
đang phân vân ray rứt vì việc hoàn tục của mình, thì trông thấy vợ đang có thai
nằm ngủ, miệng mở toang hoác, ngáy vang trời, nước miếng nhễ nhãi, trông chẳng
khác gì một tử thi đang trương phồng. Anh nhận ra mọi thứ ở thế gian đều vô
thường và đau khổ, thứ gì cũng có thể thay đổi. Thấy rồi, anh nắm chiếc y vàng
chạy vội về tinh xá.
Trên đường đi, anh ôn lại câu “Các
pháp trong thế gian đều vô thường, trói buộc, trong đau khổ” và chứng quả Dự
lưu. Nhưng đợt này khi xin gia nhập lại Tăng đoàn, anh bị từ chối quyết liệt.
Anh phải năn nỉ mới được trở lại. Vài ngày sau, anh đắc quả La-hán.
Thấy xuất gia được ăn ngon, mập
mạnh mà không cần phải làm lao động cực nhọc, hay thấy thân thể bất tịnh của vợ
mà nhận ra sự vô thường v.v… đều gọi là tri kiến. Tri kiến là thấy biết. Có
loại tri kiến dẫn con người vào chỗ bất thiện, không tránh được phiền não và
khổ nạn trong hiện tại và tương lai, như loại tri kiến đầu của chàng thanh
niên. Tuy nhờ nó anh vào Tăng đoàn, nhưng vì tri kiến ấy mang tính tham dục nên
cũng chính nó khiến anh ra khỏi Tăng đoàn, tăng thạnh tham dục. Có loại tri
kiến dẫn con người vào Thánh đạo, như tri kiến vô thường của chàng thanh niên.
Nó chính là loại tri kiến đang được đề cập ở phần này. Đó là loại tri kiến giúp
diệt tận phiền não. Vì nó hình thành do “như lý tác ý”. Nhờ nó mà mê lầm chấm
dứt và tham, sân, si hoại diệt. Nhờ nó mà chàng trai chứng Thánh quả.
Như
lý tác ý là y như cái lý đang chi phối thế giới này mà hình
thành nên tư tưởng chủ đạo của mình. Như
lý nào? Như lý Nhân duyên, Nhân quả, gọi chung là lý duyên khởi. Vì sao có
hiện tượng duyên khởi? Vì tánh các pháp là không. Do tánh pháp là không nên mới
có hiện tượng duyên khởi. Nếu tánh pháp là có thì pháp sẽ tự có và thường trụ,
không cần nhân duyên sinh. Nhưng thực tế ở thế gian, tất cả đều do duyên sinh. Nên
biết, pháp không có tánh. Tu hành chính là làm sao thấy cho thấu được mặt duyên
khởi này (triển khai thành nhân duyên, nhân quả). Tế hơn nữa, là soi cho thấu
cái gọi là bản chất của duyên khởi. Bởi duyên khởi chỉ mới là mặt hiện tượng
của pháp. Còn mặt bản thể của pháp, chính là tánh không. Tánh không, là tên
khác của Phật tánh. Phật tánh là nhân, thành tựu quả vị Phật là quả. Nên
cổ đức nói: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”.
Cũng do tánh vạn pháp là không nên
mới có hiện tượng vô thường. Người phụ nữ, nếu có định tánh thì ngày trước cô
ta thế nào, ngày sau cô ta cũng thế đó, không thể đẹp trở thành xấu, sạch trở
thành bẩn v.v… Nhưng vì pháp thế gian không có định tánh, nên đẹp có thể thành
xấu, sạch có thể thành bẩn. Tư tưởng hay tri kiến của người đời cũng vậy. Có
thể thay đổi theo thời gian. Cái thay đổi đó biểu hiện cho sự vô thường. Vì
chúng lệ thuộc vào duyên. Chàng trai xuất gia mà không yên, vì tri kiến của anh
gắn liền với sắc dục của vợ. Khi duyên ấy thay đổi, tri kiến anh cũng thay đổi
theo. Thay đổi theo chiều “như lý tác ý” nên tham ái được trừ diệt và anh chứng
Thánh quả.
Trong các kinh thuộc hệ A-hàm, quả
vị lậu tận chỉ dừng ở A-la-hán hay Bích Chi Phật. Thức chỉ mới đề cập đến sáu
thức, chưa nói đến thức thứ bảy, thứ tám; cũng chưa nói đến Phật tánh hay Tri
kiến Phật; Trung đạo là Bát chánh đạo. Vì thế, phần tri kiến như lý tác ý có
thể giúp hành giả chứng nhập Tứ quả không đòi hỏi phải là tri kiến về Phật
tánh, Tánh không duyên khởi, hay phần Trung đạo nói trong luận Trung quán hay Bát-nhã. Chỉ cần trang bị Tri kiến khổ, không, vô thường, vô ngã,
Tứ đế, Thập nhị duyên sinh là
đã có thể diệt tận phần lậu hoặc giúp đạt Thánh quả A-la-hán hay Bích Chi Phật.
Kinh Thắng Man gọi phần lậu hoặc này
là Tứ trụ địa phiền não.
Đó là Kiến trụ địa phiền não và Ái trụ địa phiền não thuộc ba cõi. Tứ trụ địa
phiền não lấy Căn bản vô minh trụ địa làm nền tảng. Muốn diệt trừ phần Căn bản
vô minh này, đòi hỏi hành giả phải trang bị cho mình loại tri kiến Trung đạo mà
Bát-nhã hay Trung luận đã đề cập, kinh Pháp
hoa gọi là Tri kiến Phật.
Phần tri kiến giúp diệt tận lậu
hoặc này, thấy có tác dụng mau chậm là tùy vào túc căn của từng người. Mau, như
chàng thanh niên, nhận ra lẽ vô thường và chứng quả A-la-hán sau đó vài ngày, là
do đời trước công phu đã thuần thục, chỉ vì “ra đời cách ấm còn mê” nên phiền
não tham dục hiện khởi. Chỉ cần hiện khởi loại Tri kiến như lý tác ý, lậu hoặc
liền chấm dứt. Như Lục tổ Huệ Năng, chỉ cần nghe một câu kinh, liền đốn ngộ tự
tâm. Đều do căn lành đời trước đã thuần thục.
Với người mà túc căn chưa sâu dày
thì dù tri kiến như lý tác ý đã xuất hiện, trên sự vẫn cần dùng các pháp khác
để diệt trừ lậu hoặc. Đó là lý do có đến 7 pháp giúp diệt trừ lậu hoặc, không
phải chỉ có phần tri kiến này. Song phần tri kiến như lý tác ý này là nền tảng
để các pháp còn lại có điều kiện được phát huy. Vì không có tri kiến về Tứ đế
v.v… thì không biết đường để phòng hộ hay tu tập.
Phòng
hộ giúp đoạn trừ lậu hoặc
Phòng hộ nói đây là phòng hộ sáu
căn khi tiếp xúc với sáu trần.
Vì sao phải phòng hộ? Vì sáu căn là
nơi có thể giúp hiện khởi tập khí tham dục, sân giận, ngu si. Cũng là nơi tiếp
giáp thu nhận vào tạng thức những chủng nhân mới, có thể gây chướng ngại cho sự
tu tập, giải thoát. Đó là lý do cần phòng hộ sáu căn.
Con trai vị chưởng khố Soreyya,
trên đường ra ngoại thành tắm cùng bạn bè thì gặp Tôn giả Đại Ca-chiên-diên.
Thân thể vàng óng của Trưởng lão đập vào mắt Soreyya khiến anh buộc miệng: “Ồ
phải chi Trưởng lão này là vợ ta. Phải chi vợ ta có nước da như thế.” Do
không phòng hộ con mắt nên tri kiến tham dục dấy khởi. Từ đó nảy sinh thêm các
bất thiện pháp. Kẻ phòng hộ giỏi thì khi mắt thấy, chỉ là thấy, không để dục niệm
dấy khởi. Lỡ dấy khởi rồi thì tỉnh giác, sám hối, không cho nối tiếp.
Nếu phản quan tốt sẽ nhận ra rằng, nếu
không phòng bị sáu căn của mình cho kỹ, dễ sinh phiền não vô cùng. Nhìn những
vật dụng của mình bám đầy bụi nhơ và bị đảo lộn thường sinh nóng giận. Lời
ngang khiến mình sinh bực, lời thuận khiến mình sinh vui v.v… Thứ gì nếu không
phòng bị đều khiến tâm luôn sinh khởi, không thể ở thế Trung đạo.
Mắt không thể thấy những gì xảy ra
sau lưng và trong bóng tối, nhưng tai vẫn nghe những gì nó không thể thấy trong
tầm nó có thể nghe. Kinh Lăng nghiêm
phân nhãn căn chỉ có tám trăm công năng mà nhĩ căn đến một ngàn hai trăm công
năng. Vì thế, nhĩ căn có nhiều điều kiện cần chú ý và phòng hộ hơn.
Thời Phật còn tại thế, buổi sáng
chư Tỷ-kheo đắp y vào thành khất thực. Trước khi vào thành, chư Tỷ-kheo ghé qua
vườn của các Du sĩ ngoại đạo. Một Du sĩ ngoại đạo đã nói: “Sa-môn Gotama nêu rõ sự hiểu biết về các dục, chúng tôi cũng nêu rõ sự
hiểu biết về các dục. Sa-môn Gotama nêu rõ sự hiểu biết về các sắc pháp, chúng
tôi cũng nêu rõ sự hiểu biết về các sắc pháp. Sa-môn Gotama nêu rõ sự hiểu biết
về các cảm thọ, chúng tôi cũng nêu rõ sự hiểu biết về các cảm thọ… Vậy, chư
hiền, ở đây có sự khác biệt nào, có sự đặc thù nào giữa chúng tôi và sa-môn
Gotama trong vấn đề thuyết pháp hay giảng huấn?” Các Tỷ-kheo ấy không hoan hỷ
cũng không chỉ trích, từ chỗ ngồi đứng dậy ra đi với ý nghĩ: “Chúng ta sẽ học ý
nghĩa này từ Thế Tôn.”
Giữ tâm không hoan hỷ cũng không chỉ trích, không tranh cải cũng không khó
chịu, và chỉ học điều cần biết ở vị Đạo sư của mình, là một cách phòng hộ nhĩ
căn.
Thời Phật còn tại thế, Tôn giả
Moliyaphagguna sống liên hệ với các Tỷ-kheo-ni một cách quá độ. Nếu
có Tỷ-kheo nào, trước mặt Tôn giả nói xấu về các Tỷ-kheo-ni, Tôn giả liền phẫn
nộ, bất mãn, vấn tội. Nếu có Tỷ-kheo nào, trước mặt các Tỷ-kheo-ni nói xấu về Tôn
giả Moliyaphagguna, các Tỷ-kheo-ni liền phẫn nộ, bất mãn, vấn tội. Một Tỷ-kheo
đã đến trình với Thế Tôn về việc đó và Thế Tôn cho mời Tôn giả đến xác minh về
những gì ngài đã được nghe. Sau khi xác minh việc đúng như vậy, Thế Tôn dạy: “Này Moliyaphagguna! Ông hãy từ bỏ những dục
và tư duy liên hệ đến thế tục. Ông phải học tập như sau: ‘Mong rằng tâm của ta
sẽ không bị biến nhiễm, ta sẽ không nói lời ác. Mong rằng ta sẽ sống với lòng
lân mẫn, với tâm từ bi, không ôm lòng sân hận…’” Đó là cách Phật dạy Tôn
giả Moliyaphagguna phòng hộ nhĩ căn của mình, không chỉ phòng hộ nhĩ căn mà
phòng hộ cả ý căn và ngữ nghiệp, bằng cách khởi lên những tri kiến như lý tác
ý.
Trong Khóa hư lục giảng giải, Hòa thượng Trúc Lâm có kể câu chuyện về một
Sa-di ngang qua hồ sen, thấy hương
thơm liền đứng lại thưởng thức. Bị Địa thần quở. Ngay lúc đó, có mấy người ào
xuống hồ, kẻ hái gương, người nhổ ngó. Thấy vậy Sa-di hỏi Địa thần: “Tôi chỉ
ngửi một chút hương ông đã quở, còn những người kia bẻ gương móc ngó, sao ông
không rầy?” Địa thần nói: “Như người mặc
chiếc áo trắng, chỉ cần dính một điểm mực nhỏ đã thấy nhơ. Còn người mặc áo
đen, dính một bệt mực nữa cũng không thấy. Ông là người tu hạnh thanh tịnh,
ngửi một chút hương sen là đã nhơ. Còn các người kia là kẻ phàm tục, không tu
hành, dù họ có làm những điều tội lỗi cũng như vệt mực phết lên áo đen. Nên tôi
rầy ông mà không rầy họ”. Không tu hay chỉ tu phước cầu vui, không đòi hỏi
phải phòng hộ các căn như người tu giải thoát. Bởi muốn giải thoát thì lậu hoặc
phải diệt tận. Cho nên cần phòng hộ các căn. Các căn được phòng hộ kỹ thì không
tạo nhân duyên cho tập khí sinh khởi, cũng không tạo nhân duyên thu nhận thêm
những chủng nhân làm chướng ngại việc giải thoát. Không phòng hộ được thì căn
chính là nơi khiến chúng sinh lưu chuyển trong sinh tử. Trong kinh Lăng nghiêm, Phật nói: “Sáu thứ mắt tai mũi lưỡi thân ý làm mai mối
cho giặc, cướp hết gia bảo của ông. Do đây từ vô thủy, thế giới chúng sinh sinh
ra ràng buộc, không thể vượt khỏi sự vật thế gian.” Phòng hộ được thì ngay
đó là giải thoát.
Đối
với tỷ căn và thân căn cũng vậy. Những gì có nguy cơ làm tăng trưởng tham hay
sân, đều nên có tâm phòng hộ. Thân một khi làm việc nhọc quá khiến sinh căng
thẳng, sân hận, thì phải biết dừng lại, làm việc vừa sức mà phòng hộ. Ăn nếu có
khuynh hướng nảy sinh tham dục, sinh mê muội v.v… cũng phải biết mà dừng lại.
Đó gọi là phòng hộ. Nói chung, những gì có khuynh hướng khiến tham, sân, mê
muội nảy sinh từ các căn, đều phải biết mà phòng hộ. Đó gọi là phòng hộ các căn
đoạn trừ lậu hoặc.
Thọ
dụng giúp đoạn trừ lậu hoặc
Phật
dạy: “Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo như
lý giác sát, thọ dụng y phục, chỉ để che đậy sự trần truồng, ngăn ngừa lạnh,
nóng, xúc chạm của các loài côn trùng. Vị ấy như lý giác sát, thọ dụng món ăn
khất thực không phải để vui đùa, đam mê, trang sức, hay tự làm đẹp mình. Chỉ là
để thân này được dài lâu, để thân này khỏi bị hại thương, để hỗ trợ phạm hạnh...”
Như vậy thọ dụng nói đây là đối với việc ăn mặc. Ăn mặc sao cho tham dục và sân
hận không tăng trưởng. Mục đích của việc thọ dụng này là để hỗ trợ phạm hạnh.
Đây là chỗ khác với người đời, ăn là phải ngon, mặc là phải đẹp, là chỗ hướng
đến của người đời.
Như lý giác sát, là y theo lý mà tỉnh giác quán sát xem ăn thế
nào để đưa đến giải thoát, không phải ăn để ngày càng bị trói buộc. Hạnh đầu đà
chỉ ăn một bữa vào đúng ngọ và không cho ăn phi thời, là để giảm sự trói buộc
trong việc ăn uống.
Ngày
nay, vì căn nghiệp chúng sinh không được như người xưa nên việc ăn uống có thay
đổi. Nhưng muốn giải thoát, muốn việc thọ dụng trở thành hỗ trợ cho việc tu
hành thì tinh thần chính Phật dạy không thể quên. Đó là ăn để có sức mà tu, ăn để
hỗ trợ cho phạm hạnh, không phải ăn để thỏa mãn cái lưỡi, không phải ăn để làm
đẹp, cũng không phải ăn để có sức vui đùa... Tức ăn vừa đủ, không để tham dục
dấy khởi, không để phải gật gù trong các thời tọa thiền. Cũng không ăn quá
thiếu khiến thân thể lao nhọc, không thể ngồi thiền, cũng không thể lao tác,
đầu óc trở nên mù mờ, mất định tỉnh.
Những
gì dù ngon mà khiến thân thể mệt nhọc, bệnh hoạn, sinh dục v.v… đều phải từ bỏ.
Song
người tu thời nay, khi phước báu đến thì tinh thần chính của việc thọ dụng
thường bị đánh mất. Chúng ta dành hầu hết quỹ thời gian cho việc ăn uống, mất
thời gian vào việc ăn uống khá nhiều. Không phải chỉ ăn cho đủ chất mà ăn sao
cho vừa miệng, cho nhiều món, ngày càng cầu kỳ… Quên là ăn ngon không phải là
mục đích của người tu. Quên là thích ăn ngon, thích ăn bổ là nhân duyên sinh ra
tham dục và gốc nuôi dưỡng tham dục. Cho nên, hành giả tu giải thoát cần chú ý
đến con đường Trung đạo. Trung đạo là không vướng bên này cũng không mắc bên
kia. Không thiếu cũng không dư. Tùy duyên của mình mà ăn để không đánh mất tinh
thần mà Phật đã dạy trong việc thọ dụng. Đã tùy duyên thì trên mặt hiện tướng,
việc thọ dụng của người này không giống người kia. Người gầy thì phải dùng áo
ấm nhiều hơn người có da thịt. Người lao tác nhiều thì phải ăn nhiều hơn người
không lao tác, khi không lao tác cũng không thể ăn như khi đang lao tác v.v…
tùy duyên của từng người mà việc thọ dụng có khác nhau. Nhưng đều mang tinh
thần là thọ dụng sao cho phù hợp, cho vừa đủ với thân, khiến không tham trước
cũng không sân hận.
Quan
trọng thứ hai cần chú ý trong việc thọ dụng, là thói quen trong ăn uống. Nó là
phần Tập nói trong Tứ đế. Đã như lý mà giác sát thì phải chú ý đến phần Tập
này. Tập là sự tích tụ trong việc thọ dụng. Thứ gì tích tụ lâu sẽ thành thói
quen. Những gì đã thành thói quen sẽ gây chướng ngại khi ta ăn hay mặc trái với
thói quen ấy. Một khi ăn ngon mặc sướng quen rồi, cái ăn ngon mặc sướng ấy sẽ
có lực làm chướng ngại cho việc thọ dụng đơn giản. Vì thế những thọ dụng nào
mang tính tham dục chưa thành thói quen thì không nên để nó thành thói quen. Thọ
dụng nào đã thành thói quen thì cần dùng nhẫn lực phá bỏ, chớ thuận theo đó mà
sống, khiến sự tích tụ ngày càng nhiều, lực của thói quen ngày càng mạnh, việc
trừ bỏ ngày càng khó.
Hành
giả tu giải thoát, dù là xuất gia hay tại gia, khi phước báu đến nhiều, cần
tỉnh giác phòng hộ trong việc thọ dụng. Nên thọ dụng vừa đủ. Chớ thọ dụng theo
phước báu.
Các
thứ thọ dụng khác như nhà ở, tọa cụ, thuốc men v.v… đều y đó mà giải quyết.
Kham nhẫn giúp đoạn trừ lậu hoặc
Nói
đến kham nhẫn là nói đến những gì không thuận với ý mình. Ăn những món không
hợp khẩu vị mà phải ăn. Mặc những thứ không thích mà phải mặc. Không chịu được
lạnh mà trời lạnh. Không chịu được nóng mà trời nóng. Ruồi, muỗi, gián, nhện
làm phiền. Đói phải chịu. Khát phải đành. Nghe những lời không muốn nghe. Gần
những người không hợp. Xa những người thân thương v.v… rất nhiều thứ trong cuộc
đời này hiện ra rất trái ý, mà không ít thì nhiều, ai cũng phải chịu. Bởi thế
gian này có tên là Sa-bà. Nghĩa của nó là kham nhẫn. Sống ở cõi Sa-bà này thì ít
nhiều gì cũng phải kham nhẫn mới tìm thấy niềm vui, mới thoát được sân hận. Người
đời muốn có hạnh phúc còn phải như thế, huống là người tu giải thoát, phát tâm
Bồ-đề vô thượng?
Chiêm
nghiệm những gì xảy ra ở thế giới này mới thấy ý nghĩa của hai chữ Sa-bà rất
chính xác. Cái gọi là bất như ý không theo một hình tướng nhất định nào. Cái
như ý của người này có khi vẫn là bất như ý của người khác. Cho nên, ai cũng có
thể bất như ý. Đói, khát, nghèo, hèn… bất như ý. Giàu sang, phú quý… bất như ý.
Con bé, được cái tự do muốn làm gì thì làm, nhưng cơ cực. Cũng ao ước giàu sang
cho đỡ tấm thân. Lấy được chồng giàu rồi, thân hết cực, lại mơ về những ngày
còn nghèo. Nghèo, cực thiệt mà tự do, muốn làm gì làm. Thành ra con người của
thế giới Sa-bà vẫn là con người của thế giới Sa-bà. Tướng dù thay đổi, tâm vẫn
cứ bất như ý.
Giờ
muốn yên ổn, muốn hạnh phúc thì phải nhẫn được với những bất như ý này. Song
nhẫn thế nào để được an bình thật sự là cả một vấn đề. Vì không khéo, cái gọi
là nhẫn đó chỉ là sự đè nén. Đè lâu thì có ngày bung, thân tướng cũng hiện
tướng bất mãn với người, là cái nhân của xích mích, chia lìa. Tuy vậy, cái gọi
là đè này vẫn nên thực hiện. Bởi nó giúp chúng ta dừng lực khởi của sân, dừng lực
khởi của dòng tương tục. Thực hiện như thế gọi là Chỉ. Giờ bổ sung thêm phần
Quán để giải tỏa sự đè nén đó.
Muốn
nhẫn mà không rơi vào tình trạng đè nén thì phải như Phật dạy: “Này các Tỷ-kheo! Thế nào là các lậu hoặc phải
do kham nhẫn mà được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây có Tỷ-kheo như lý giác
sát…”. Phải nhờ đến cái gọi là như lý giác sát. Cái “như lý” này rất quan
trọng. Nó là loại tri kiến giúp người tu buông bỏ những bất như ý, có thể kham
nhẫn những việc khó kham nhẫn.
Như lý thứ nhất có thể giúp hành giả nhẫn mà không phải đè nén,
là thấy lỗi mình. Đó là một loại hành tác giúp mình nhẫn mà không phải đè nén.
Đã phát tâm đi con đường làm Tổ thành Phật thì phải dứt cho được trí phân biệt.
Thành trong cái duyên đang tu hành thì chẳng nói đúng, sai, phải, quấy, cứ khởi
tâm là lỗi. Trong kinh Pháp bảo đàn, Lục
tổ nhấn mạnh việc thấy lỗi mình là đó. Hành giả phải tập dối diện với mọi thứ mà
tâm bình thường, không dựa trên sở tri đời thường mà phân đúng sai. Chỉ cần
biết tâm khởi niệm là lỗi, nên niệm khởi liền giác, giác rồi liền không. Lý này
nếu thông được thì trên sự sẽ nhẫn được với mọi thứ mà không phải dồn nén hay ức
chế.
Như lý thứ hai là quán nhân duyên, nhân quả. Mọi cái quả mà mình
có hiện nay dù xấu hay tốt đều có nhân từ trước. Giờ đủ duyên ra quả. Quả này
là do mình gieo nhân, không ai gieo cho mình. Thông được lý ấy thì trên sự, tuy
nói kham nhẫn mà mọi thứ là bình thường. Tuy vậy, do nghiệp của thân tâm nên có
khi dù thông được lý rồi, trên sự nếu gặp phải việc bức hại quá sức thân tâm
chịu được thì ít nhiều cũng có sự chịu đựng, nên nói kham nhẫn. Song nhờ phần như lý đó mà mọi thứ được hóa giải. Nếu
có hiện tượng kham nhẫn hay đè nén thì chỉ là với thân tâm mình, không phải với
người khác. Nếu công phu miên mật, hiện tượng này sẽ là nhân duyên đưa đến sự
bùng vỡ tự tâm.
Nói
đến điều kiện, thì “thấp cổ bé họng” lại là điều kiện để giúp phát huy nhẫn lực
nhiều hơn kẻ “đầy đủ uy quyền tiền bạc”. Thằng nhóc rất dễ sân với người khác,
nhưng từ khi bước chân vào nghề bất động sản, sân gần như không xảy ra, ai cũng
thấy. Lý do là, nếu không nhẫn thì không thể mua bán được, tiền không có. Coi
như nhờ điều kiện thiệt thòi đó mà hắn chuyển được lực sân thành lực nhẫn. Thứ
gì đã quen thì thành bình thường. Nhờ đó việc của Đạo tràng, dù không như ý, hắn
cũng không sân như trước, cứ bình tỉnh giải quyết mọi việc. Động cơ giúp hình
thành nhẫn lực tuy chưa chân chính, nhưng đã giúp phá bỏ lực sân. Giờ nếu có
trí tuệ thì như hổ mọc cánh.
Tránh né giúp đoạn trừ lậu hoặc
Tránh
né, là một hình thức của tránh duyên.
Những
duyên nào nhắm không thể đương đầu, có thể ảnh hưởng đến thân thể khiến việc tu
hành bị đình trệ, có thể làm hiện hành và phát triển chủng tử tham dục cũng như
sân hận thì cần phải tránh. Bởi nhân đã gieo trong tạng thức muốn thành quả
phải dủ duyên. Tránh duyên là hành tác giúp không cho những nhân đã gieo trong
tạng thức có điều kiện thành quả, cũng là giúp không ghi nhận lưu giữ thêm nhân
xấu. Nên trong kinh, Phật dạy: “Thế nào
là các lậu hoặc do tránh né mà được đoạn trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây các
Tỷ-kheo như lý giác sát, tránh né voi dữ, ngựa dữ, bò dữ, chó dữ, rắn khúc cây,
gai góc, hố sâu, vực núi, ao nước nhớp, vũng nước”. Đó là những duyên bất
lợi cho bản thân, khiến việc tu hành bị đình trệ. Như lý giác sát nói đây, là
phải biết sức mình không đủ để kham nhẫn các duyên như ngựa dữ v.v…, cũng không
tạo duyên để bệnh tật đến thân như vào ao nước bẩn v.v…
Cũng
dạy: “Ở đây, các Tỷ-kheo như lý giác sát,
có những chỗ ngồi không xứng đáng ngồi, những trú xứ không nên lai vãng, những
bạn bè ác độc mà nếu giao du thì bị các đồng phạm hạnh nghi ngờ khinh thường.”
Như lý giác sát nói đây, là phải biết rõ nhân duyên mình đang an trụ. Mình đang
là người đời hay người tu, tại gia hay xuất gia, khỏe mạnh hay yếu đuối, không
dính mắc hay dễ dính mắc, chủng tử tập khí của mình là gì v.v…, biết rõ thì mới
biết duyên nào cần tránh. Tùy duyên mà hành xử sao cho hợp thời.
Những chỗ ngồi không xứng đáng là những chỗ mà phạm hạnh của mình chưa đủ
lực để ngồi. Nếu ngồi thì tổn đức. Hòa thượng Tinh Vân, trong bài “Bạn muốn làm
hạng người nào?”, nói: “Nếu ngồi không đúng chỗ, không chỉ như có kim dưới ghế, nhấp nhỏm không
yên, mà sau đó bạn phải mất điểm với người khác. Chụp hình không nên ngồi ở
giữa, vì như thế bạn không kính trọng người khác, không khiêm tốn, đánh mất sự
ủng hộ của họ. Đi đường đi phía trước là tự cao tự đại, không biết kính trọng
người già người trên, không biết khiêm tốn nhường đường. Đặc biết là tuổi trẻ
đắc chí, không nhìn thấy hầm hố và mối nguy phía trước, chúng có thể làm cho bạn
mất mạng bất cứ lúc nào. Làm người phải không nên bắt đầu từ ‘trên, giữa,
trước’ mà nên đi từ thấp lên cao, từ bên ngoài vào giữa, từ sau ra trước. Nền
tảng bên dưới chưa dày dặn, bạn không thể lên trên, lên cao, vì chỗ cao là nơi
lạnh lẽo. Bạn không bắt đầu từ phía ngoài mà trong chốc lát đã chen vào giữa.
Muốn soi rọi ra chung quanh ư, bạn đã tích đủ điện quang chưa? Tư lương phía
sau đầy đủ, chuẩn bị hậu cần chu đáo, chúng ta mới có thể từ từ đi về phía
trước.” Cho nên,
Đại sư dạy: “Người
hàm dưỡng năng lực đủ, không những có thể ‘đứng trên đỉnh cao’ mà còn có thể ‘lặn
xuống biển sâu’. Họ cao được, thấp cũng được; lớn được, nhỏ cũng được; có thể
quán xuyên mọi thứ triệt để trong thế gian.”
Những trú xứ không nên lai vãng, là những chỗ không dành cho người
tu. Như người tu giải thoát thì không nên đến những nơi như phim trường, ca
nhạc v.v... Kinh Phạm võng Bồ-tát giới
nói: “Cũng chẳng được đi xem hát, nghe nhạc, chơi cờ, đánh bạc, chơi cầu, đá bóng,
cho đến chơi bói xú v.v…” Như vậy, những ai muốn đoạn trừ lậu hoặc thì không
nên đến những nơi có các mục đó, là để tránh sinh khởi những chủng tập làm loạn
tâm, tăng trưởng hơn thua và tham, sân, si.
Tập khí, tập nghiệp là tên khác của
lậu hoặc. Vì thế, với những gì thuộc chủng tập của mình, mình cũng phải biết mà
tránh duyên để giải tỏa. Những gì thuộc tập khí, đều mang tính dính mắc, kéo
lôi, khó mà muốn tránh duyên, nên một khi mình chịu tránh duyên, cũng biểu hiện
việc đoạn trừ phần lậu hoặc có liên quan khá khả quan, nhất định có kết quả tốt
đẹp.
Trừ diệt giúp đoạn trừ lậu hoặc
Kinh nói: “Thế nào là các lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ? Này các
Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo như lý giác sát, không chấp nhận dục niệm đã khởi lên.
Từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại dục niệm ấy. Không chấp nhận sân
niệm đã khởi lên. Từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại sân niệm ấy...”
Trừ diệt là làm cho tiêu nha bại chủng. Từ bỏ, trừ diệt, diệt tận… nhấn mạnh ba
lần, cho thấy sự cương quyết tận diệt đối với các lậu hoặc. Vì sao cương quyết
tận diệt? Vì lậu hoặc một khi có điều kiện hiện hành thì cũng có nghĩa là sẽ
được huân tập trở lại vào tạng thức, giúp tăng lực dẫn hành giả theo nó, bản
tâm ngay đó mà không thể nhận, cứ bị phiền não và sở tri cuốn trôi. Cho nên, muốn
bản tâm hiện tiền thì phải phá bỏ cho được cái lực của lậu hoặc. Muốn phá bỏ
lực ấy thì phải cương quyết trừ diệt lậu hoặc. Trừ diệt cũng có nghĩa là không
huân tập nữa, không cho nó hiện hành tác yêu tác quái như trước kia.
Phần đoạn sinh tử của chúng sinh là
kết quả của phiền não chướng và nghiệp hữu lậu. Phiền não chướng ấy là lậu
hoặc. Biến dịch sinh tử của thánh nhân là kết quả của Sở tri chướng và nghiệp
vô lậu. Sở chi chướng ấy là lậu hoặc. Muốn hết phiền não, chứng Bồ-đề, phải trừ
diệt lậu hoặc. Đó là lý do vì sao phải trừ diệt lậu hoặc. Các lý do đó là một phần
lý mà hành giả phải “như lý giác sát” để trừ diệt lậu hoặc.
Trừ diệt, đơn giản chỉ là hành tác
không cho lậu hoặc hiện khởi. Với những dục niệm, sân niệm, các bất thiện pháp
khởi lên đều trừ bỏ, không cho tồn tại. Song thứ gì đã huân tập sâu trong tàng
thức thì không phải muốn bỏ là nó đã không hiện khởi, vì thế cần sự hỗ trợ của
các pháp khác như tránh duyên, kham nhẫn v.v… Tránh duyên, để không tạo duyên
cho lậu hoặc sinh khởi. Kham nhẫn, vì lỡ sinh khởi rồi thì chịu đựng, không cho
nó phát thành hành động.v.v…
Tu tập giúp đoạn trừ lậu hoặc
Các pháp trình bày trên, là những pháp
mà hiện nay chúng ta cũng xếp nó vào danh sách tu tập. Song ở đây lập riêng
phần này là để nhấn mạnh đến các pháp tu giúp hành giả tiến sâu vào thiền định,
trước là phá sạch phần niệm hiện hành, sau là phát triển định tuệ bình đẳng. Phải
có phần tu tập này thì mới có các quả chứng A-la-hán, Bích Chi và Phật quả.
Trong kinh Tất cả lậu hoặc, phần tu tập này chỉ cho Thất giác chi. Thất giác
chi còn có tên là Thất Bồ-đề phần, là 7 pháp có công năng giúp cho trí Bồ-đề
xuất hiện, là muốn nói đến phần trí vô sư của người tu. Do Thất giác chi mà “chẳng phiền não nơi tâm, tăng trưởng trí tuệ,
là minh, là chánh giác, chuyển hướng Niết-bàn.”
Thất giác chi gồm có:
1/ Niệm giác chi, là đối với các pháp chánh niệm tu tập, y chỉ tư duy, y chỉ ly dục, y chỉ tịch diệt,
nhiếp phục tranh cãi. Nghĩa của nó nằm ở mấy từ chánh niệm, phần
còn lại là duyên hỗ trợ để biết chánh niệm ra sao. Chánh niệm này lấy việc ly dục
và tịch diệt làm chỗ y chỉ và hướng đến. Công năng của nó là nhiếp phục tranh
cãi.
2/ Trạch pháp giác chi, là dùng trí tuệ để chọn chân pháp, xả tà pháp.
Kinh Tạp A-hàm 26 ghi: “Có sự lựa chọn, phân biệt, tư duy, lúc bấy giờ
tu tập Trạch pháp giác chi”.
3/ Tinh tấn giác chi, là không lười mỏi đối với việc tu hành Chánh
pháp.
4/ Hỷ giác chi, là tâm vui vì trụ trong Chánh pháp.
Kinh Tạp A-hàm 26 ghi: “Khi đã nỗ lực tinh tấn rồi thì hoan hỷ sẽ sinh,
xa lìa các tưởng về thức ăn, là tu Hỷ giác chi.”
5/
Khinh an giác chi, là thân tâm khoan khoái an ổn.
6/ Định giác chi, là nhập thiền định, tâm không tán loạn.
7/ Xả giác chi, là tâm bình đẳng, không thiên lệch, không chấp trước.
Theo kinh Tạp A-hàm 26 thì chi trước là nhân, chi sau là quả. Nhưng ở một số
kinh luận khác thì không nhất quyết theo thứ tự đó. Như Trạch pháp giác chi có thể có trước Niệm giác chi v.v…
Trong 7 pháp trên, khi tâm rơi vào
trầm một thì ba pháp Trạch pháp giác chi,
Tinh tấn giác chi và Hỷ giác chi có thể giúp tâm hết trầm
một. Khi hành đạo, nếu tâm tán loạn thì ba pháp Khinh an giác chi, Định giác
chi và Xả giác chi có thể giúp thu
nhiếp tâm.
Trong phần khế lý và khế cơ, pháp tu
tập này thuộc về khế cơ, tức do ứng cơ của chúng sinh mà lập, nên không “bất
biến” mà “tùy duyên”. Tùy duyên của chúng sinh mà có pháp. Cho nên phần tu tập
này không chỉ có Thất giác chi mà còn vô số các pháp khác, như hiện nay có Chỉ-Quán,
Tham thoại đầu, Niệm Phật, Trì chú v.v…
Kết luận
Kinh Tất cả lậu hoặc ghi:
“Này
các Tỷ-kheo, những lậu hoặc nào phải do tri kiến được đoạn trừ đã được tri kiến
đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do phòng hộ được đoạn trừ đã được phòng hộ
đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do thọ dụng được đoạn trừ đã được thọ dụng
đoạn trừ v.v… Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là đã sống phòng hộ với sự
phòng hộ tất cả lậu hoặc, đã đoạn diệt khát ái, đã thoát ly kiết sử, đã chánh
quán kiêu mạn, đã diệt tận khổ đau”. Đoạn văn trên cho thấy cần nắm rõ tính
duyên khởi của pháp thì việc dụng pháp mới có kết quả. Tức tùy loại lậu hoặc mà
có pháp đối trị tương ưng. Không phải dụng một loại là mọi lậu hoặc đều được
đoạn trừ. Phải dùng đúng pháp đối trị thì lậu hoặc đó mới được đoạn diệt. Chẳng
hạn, những duyên trúng vào tập khí của mình mà mình không biết tránh, cứ đương
đầu vào đó dùng các pháp đối trị thì khó mà đối trị được. Hoặc các lậu hoặc,
cần phải thay đổi tư duy tri kiến mới phá bỏ được mà không thay đổi thì khó mà
phá được nó.
Thời Phật còn tại thế, một Chưởng khố
xin vị Trưởng lão đến khất thực tại nhà mình dạy cho pháp giải thoát. Trưởng
lão dạy anh bố thí và cúng dường.
Sau khi thực hành vậy rồi, anh hỏi Trưởng lão nên làm gì nữa? Trưởng lão dạy
anh Tam quy ngũ giới, rồi tiến lên thập giới. Sau khi thực hành vậy rồi, anh
hỏi Trưởng lão nên làm gì nữa? Trưởng lão bảo anh xuất gia. Anh vâng lời xuất
gia và được giám sát bởi một luật sư và học hỏi với một luận sư.
Thời gian trôi qua, anh cảm thấy ngán
đời sống tu sĩ, vì khó nhọc với các nhiệm vụ đang mang trên mình. Anh muốn giải
thoát mà rốt cuộc ngay cả chỗ để duỗi thẳng tay cũng không có. Thấy đời sống cư
sĩ có khi còn được giải thoát hơn, vì thế anh có ý hoàn tục. Từ đó sinh tâm bất
mãn và khó chịu. Anh trở nên hốc hác, mệt nhọc đè nặng, ghẻ chóc đầy người… Hai
vị luật sư và luận sư phải dẫn anh lên trình Đức Phật. Nghe anh thuật lại tâm
tư, Phật bảo:
- Này Tỷ-kheo! Nếu ông chỉ làm được
việc này thôi thì không cần làm các việc khác.
- Việc đó là việc gì, thưa Thế Tôn?
- Ông có thể canh chừng tâm ý của ông
chăng?
- Dạ việc đó con làm được.
- Vậy thì chỉ cần làm việc đó thôi.
Đây gọi là dụng pháp hợp cơ, đúng
duyên, giúp vị Tỷ-kheo trừ diệt tâm chán ngán bất mãn bằng cách thay đổi tri
kiến của ông. Bởi nếu không thay đổi tri kiến, cứ buộc vị ấy trong các kiến
thức và giáo điều thường tình của luật và luận, thì dù kham nhẫn, tu tập hay
phòng hộ bao nhiêu, cũng không thể giúp vị ấy phá bỏ tâm chán ngán, bất mãn. Đó
là lý do đoạn trừ lậu hoặc có đến 7 pháp, không phải một. Các pháp cũng không
phải riêng lẻ tách biệt hoàn toàn mà có khi được dùng trợ duyên cho nhau để lậu
hoặc được đoạn tận.