Quảng Hưng – Nguyên Hiệp dịch
		
		
		I. Giới Thiệu
		
		
		Ảnh hưởng của Phật giáo vào ngôn ngữ trung quốc là rất lớn. Điều này 
		chính yếu do việc phiên dịch và truyền bá những kinh sách Phật giáo từ 
		tiếng Sanskrit và những ngôn ngữ Ấn Độ khác. Việc phiên dịch kinh Phật 
		đã kéo dài hơn một ngàn năm ở Trung Quốc với khởi đầu vào thế kỷ II TL 
		và kết thúc vào cuối triều Tống thế kỷ XII. Có vào khoảng 173 dịch giả 
		được biết đến và những người này đã dịch hơn 1.700 bản kinh với khoảng 
		hơn 6.000 quyển1. 
		Vì cách nghĩ của người Ấn Độ khác với người Trung Quốc, vì vậy cách họ 
		diễn đạt cũng khác với cách diễn đạt của người Trung Quốc. Do đó, những 
		dịch giả Phật giáo phải sáng tạo và giới thiệu nhiều từ mới để diễn đạt 
		những tư tưởng và khái niệm rất trừu tượng trong Phật giáo ngoài việc 
		tìm kiếm những từ và khái niệm tương tự ở trong ngôn ngữ Trung Quốc. 
		Theo đó những từ và khái niệm mới này dần sáp nhập vào trong ngôn ngữ 
		Trung Quốc và một số chúng thậm chí trở thành một phần của những giao 
		tiếp hàng ngày. Việc phiên dịch kinh Phật từ tiếng Sanskrit và những 
		ngôn ngữ Ấn Độ khác đã ảnh hưởng ngữ nghĩa và cú pháp của người Trung 
		Quốc trung đại cũng như làm phong phú thể loại văn học và những kỹ thuật 
		tu từ học. Ngữ âm học Sanskrit đi cùng với việc phiên dịch Phật giáo đã 
		nâng cao nhận thức của người Trung Quốc về ngữ âm học trong ngôn ngữ của 
		họ. Điều này gây nên một sự quan tâm chưa từng thấy trong nghiên cứu 
		ngôn ngữ học, cụ thể là việc diễn đạt và phân tích những giá trị ngữ âm 
		của chữ viết Trung Quốc. Kết quả là việc biên soạn vô số từ điển mà 
		chúng có giá trị to lớn cho việc tái thiết lại những giai đoạn khác nhau 
		của những hệ thống ngữ âm của tiếng Trung Quốc trung đại.
		
		
		Nhà ngôn ngữ học kiệt xuất Trung Quốc Vương Lực (王力) 
		nói rằng thuật ngữ Phật giáo đã đóng góp cho từ vựng Trung Quốc rất lớn 
		và một số trong những thuật ngữ này đã ăn sâu vào trong máu huyết của 
		ngôn ngữ Trung Quốc đến độ người ta thậm chí không biết rằng chúng có 
		nguồn gốc từ văn học Phật giáo.2 
		Ví dụ, thế giới (世界) 
		có nghĩa thế giới, nhưng người Trung Quốc cổ xưa sử dụng thiên hạ (天下) 
		để nói đến thế giới. Ý nghĩa của từ thiên hạ này được tìm thấy nơi một 
		trong những thành ngữ mà chúng ta sử dụng ngày nay:
		
		Túc bất xuất hộ tri thiên hạ sự (足不出戶知天下事), 
		có nghĩa rằng không ra khỏi nhà nhưng ta biết những gì xảy ra trong thế 
		giới. Từ Sanskrit chỉ cho thế giới là
		
		loka mà nó có nghĩa là một xứ sở hay một quốc độ hiện hữu.
		
		
		Học giả người Mỹ Victor Mair đã tóm tắt sự ảnh hưởng của Phật giáo vào 
		ngôn ngữ và văn học Trung Quốc vào trong tám khía cạnh và có ba khía 
		cạnh liên quan đến ngôn ngữ3. 
		Đó là 1. Tăng số từ vựng lên ít nhất 35.000 từ, bao gồm nhiều từ mà 
		chúng vẫn được sử dụng phổ biến (ví dụ, phương tiện/方便, 
		tiếng Sanskrit là
		
		upāya; và sát-na/刹那 
		tiếng Sanskrit là
		
		kṣaṇa); 2. Phát triển hệ thống âm vị như là một loại khoa học 
		ngôn ngữ; 3. Hợp pháp hóa một phần bạch thoại. Victor Mair còn cố gắng 
		phân tích những nguyên nhân của sự ảnh hưởng Phật giáo vào ngôn ngữ 
		Trung Quốc khi ông nói:
		
		
		“Câu hỏi chính xác về việc một tôn giáo nước ngoài như Phật giáo có một 
		sự ảnh hưởng to lớn như thế nào vào việc sử dụng ngôn ngữ ở Trung Quốc 
		là vô cùng phức tạp. Một vài yếu tố liên quan là: 1. Mong muốn của những 
		vị thầy và những nhà truyền đạo Phật giáo (bắt đầu với chính Đức Phật) 
		là nói trực tiếp với dân chúng bằng ngôn ngữ của chính họ; 2. Việc duy 
		trì những giá trị xã hội tương đối bình đẳng trong số những Phật tử trái 
		ngược với sự phân chia cấp bậc kiên cố của Nho giáo; 3. Sự nhấn mạnh vào 
		kệ tụng, truyện kể, kịch nghệ, thuyết giảng, và những loại trình bày 
		bằng khẩu ngữ khác; và 4. Sự tồn tại của học thuật phức tạp của Ấn Độ về 
		ngôn ngữ học, mà nó nhấn mạnh tầm quan trọng của ngữ pháp và vệ thống âm 
		vị như được phản ánh trong lối nói thực tế, trái ngược với nghiên cứu 
		ngôn ngữ Trung Quốc, mà nó hầu như tập trung chuyên biệt vào những ký tự 
		như là phương tiện toàn hảo cho ngôn ngữ sách vở mà về bản chất là câm 
		lặng”.4
		
		
		2. Mở rộng từ vựng
		
		
		Theo nghiên cứu của những học giả hiện đại, ước tính rằng có vào khoảng 
		35.000 từ mới được đưa vào ngôn ngữ Trung Quốc thông qua trung gian Phật 
		giáo.5 
		Sự ảnh hưởng của Phật giáo vào và đóng góp cho từ vựng Trung Quốc có thế 
		được tóm tắt, theo nghiên cứu của Tôn Xương Vũ (孫昌武), 
		ở những phương diện sau.
		
		
		Trước hết, nhiều từ Trung Quốc hiện có được sử dụng trong những bản dịch 
		kinh sách Phật giáo, nhưng ý nghĩa của chúng là mới. Chẳng hạn như những 
		từ được sử dụng để trình bày giáo pháp:
		
		không (空, 
		śunya) được sử dụng chỉ cho sự không có bản thể, nhưng ở trong tiếng 
		Trung Quốc nó có thể là không có gì cả, tương tự với chữ
		
		vô (無) 
		mà nó có nghĩa là hư vô;
		
		hữu (有, 
		asti) là ngược lại với
		
		không (空) 
		và nó có nghĩa là sự hiện hữu trong ý nghĩa Phật giáo, nhưng trong triết 
		học Trung Quốc cổ đại nó có nghĩa là sinh tồn. Sự thực,
		
		hữu có nghĩa là sinh tồn và
		
		vô có nghĩa là không sinh tồn là những thuật ngữ triết học quan 
		trọng trong triết học Trung Quốc cổ đại.
		
		Pháp (法, 
		dharma) được sử dụng để chỉ cho giáo pháp Phật giáo nói chung, sự vật cụ 
		thể nói riêng, nhưng nó có thể có nghĩa là quy tắc, luật lệ v.v… trong 
		tiếng Trung Quốc;
		
		tính (性, 
		svabhāva) được sử dụng chỉ cho bản chất của các sự vật, nhưng trong 
		tiếng Trung Quốc nó có thể là đặc điểm, giới tính v.v…
		
		Nhân (因, 
		hetu) có nghĩa là nguyên nhân trực tiếp,
		
		duyên (緣, 
		pratyaya) có nghĩa là nguyên nhân gián tiếp. Nhân giống như một hạt 
		giống, duyên là đất, mưa, ánh nắng mặt trời.
		
		Tự nhiên (自然) 
		và
		
		vô vi (無爲, 
		asaṃskṛta) là hai từ vay mượn từ triết học Trung Quốc để diễn đạt những 
		ý nghĩa của Phật giáo khi chúng tương đồng với việc sử dụng của Phật 
		giáo.
		
		
		Lại nữa, ví dụ, mười hai giai đoạn/chi phần được sử dụng trong Thập nhị 
		nhân duyên (十二因緣) 
		để giảng giải quan điểm Phật giáo về sự có mặt của con người cũng được 
		lấy từ những từ hiện có trong ngôn ngữ Trung Quốc: vô minh (無明, 
		avidyā), hành (行, 
		saṃskāra), thức (識, 
		vijñāna), danh sắc (名色, 
		nāmarūpa), lục nhập (六入, 
		saḍāyatana), xúc (觸, 
		sparśa), thọ (受, 
		vedanā), ái (愛, 
		tṛṣṇā), thủ (取, 
		upādāna), hữu (有, 
		bhava), sanh (生, 
		jāti), lão tử (老死, 
		jarāmaraṇa) v.v… Tất cả những từ này được tìm thấy trong tiếng Trung 
		Quốc cổ, nhưng chúng được trao cho những nghĩa mới để điễn đạt ý nghĩa 
		Phật giáo trong những bản dịch.
		
		
		Thứ hai là việc sáng tạo những từ mới bằng việc phiên âm. Có một số lớn 
		những từ như vậy được giới thiệu vào ngôn ngữ Trung Quốc với những bản 
		dịch kinh Phật. Đại khái nó có thể được phân thành hai phạm trù, và phạm 
		trù đầu tiên và lớn nhất là từ danh xưng chẳng hạn như Phật (佛, 
		Buddha, phiên âm đầy đủ là Phật-đà/佛陀), 
		Bồ-tát (菩薩, 
		Bodhisattva, 
		
		菩提薩埵 
		Bồ-đề-tát-đỏa), La-hán (羅漢, 
		Arhat; 
		
		阿羅漢, 
		A-la-hán), Tỳ-kheo (比丘, 
		Bhikṣu), Tỳ-kheo-ni (比丘尼, 
		Bhikṣuni), Tăng (僧, 
		Sangha, 
		
		僧伽, 
		Tăng-già), Thích Ca Mâu Ni (釋迦牟尼, 
		Śakyāmuni), tháp (塔, 
		stūpa, 
		
		塔婆), 
		cà-sa (袈裟, 
		kaṣāya), già-lam (伽藍, 
		ārāma)…
		
		
		Phạm trù thứ hai của phiên âm thì phức tạp hơn và Huyền Trang đưa ra năm 
		lý do cho phạm trù này (1) vì lý do ẩn mật chẳng hạn như darani, (2) vì 
		lý do đa nghĩa chẳng hạn như Bạc-già-phạm (薄伽梵, 
		Bhagavat, có nghĩa là bậc Thế Tôn), (3) vì lý do không có những thuật 
		ngữ như vậy ở trong tiếng Hán chẳng hạn như thiền (禪, 
		dhyāna, 
		
		禪那), 
		nghiệp (業, 
		karma), kiếp (劫, 
		kalpa), Niết-bàn (涅槃, 
		nirvāṇa), xá-lợi (舍利, 
		śarīra), diêm-phù-đề (閻浮提, 
		Jambudvīpa).v… (4) vì thuận theo truyền thống chẳng hạn như 
		A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề (阿耨多羅三藐三菩提, 
		Anuttarā-samyaksaṃbodhi), Ba-la-mật (波羅蜜, 
		pāramitā), và (5) vì làm tăng lên sự tốt đẹp chẳng hạn như bát-nhã (般若, 
		prajñā). Phạm trù lớn nhất là thứ ba, những thuật ngữ và khái niệm mới 
		mà chúng không tìm thấy trong tiếng Trung Quốc.
		
		
		Thứ ba là việc sáng tạo những từ mới bằng việc dịch nghĩa của nó để diễn 
		đạt những khái niệm Phật giáo mới được giới thiệu. Chẳng hạn những từ 
		như Như Lai (如來, 
		Tathāgata), quy y (皈依, 
		śaraṇa), Tịnh độ (淨土, 
		Sukhāvatī), giải thoát (解脫, 
		mokṣa), luân hồi (輪回, 
		saṃsāra), thật tế (實際, 
		bhūtakoṭi), chân thật (真實, 
		bhūta hay yathābhūtam), hữu tình (有情, 
		sattva), tâm địa (心地, 
		mano bhūmika), công đức (功德, 
		puññā), phương tiện (方便, 
		upāya), vô thường (無常, 
		anitya), vô ngã (無我, 
		anātma), bất khả tư nghị (不可思議, 
		acintya) v.v…
		
		
		Ví dụ thích hợp nhất của phân loại này là từ Sanskrit
		
		tathatā mà nó có nghĩa là như vậy, hay bản chất thực của hiện 
		tượng. Không có một khái niệm như vậy trong triết học Trung Quốc và 
		những dịch giả đối mặt với những khó khăn lớn trong việc tìm kiếm một từ 
		thích hợp để diễn đạt khái niệm Ấn Độ. Đầu tiên Chi Lâu Ca Sấm (支婁迦讖, 
		Lokakṣema) đã sử dụng từ bổn vô (本無) 
		để dịch nó, nhưng nó khiến người ta nhầm lẫn khi bổn vô có nghĩa rằng 
		vốn không có thứ gì trong triết học Đạo giáo. Chính Cưu Ma La Thập (鳩摩羅什, 
		Kumarajiva) đã tạo ra từ mới chân như (真如) 
		để dịch khái niệm triết học thâm sâu này.
		
		
		Thứ tư là việc tạo ra những từ mới bằng một sự kết hợp phiên âm và dịch 
		nghĩa hay một sự kết hợp phiên âm một từ Sanskrit và một từ Hán, chẳng 
		hạn như Phật khúc (佛曲, 
		ca khúc Phật; Phật là một từ phiên âm trong khi khúc là một từ hán), 
		tương tự như vậy là Phật tượng (佛像); 
		thiền sư (禪師; 
		thiền là một từ phiên âm và sư là một từ hán); tương tự như vậy là thiền 
		phòng (禪房); 
		Niết-bàn tông (涅槃宗; 
		Niết-bàn là một từ phiên âm và tông là một từ Hán).
		
		
		Phạm bối (梵唄, 
		nhạc Phật) là một ví dụ hay về việc kết hợp phiên âm và dịch nghĩa. Ở 
		đây Phạm là một dịch nghĩa chỉ cho Ấn Độ và bối là một phiên âm từ chữ
		
		bhāṇaka (bối-nặc) mà nó có nghĩa là tụng/hát. Từ khác là vạn tự (萬字, 
		svastika), một biểu tượng; vạn là một từ phiên âm và tự là một từ Hán.
		
		
		Tất cả những từ này chỉ cho những vật và khái niệm không tìm thấy trong 
		tiếng Trung Quốc vì vậy những dịch giả phải tạo ra những từ mới để diễn 
		đạt chúng, nhưng ý nghĩa của một vài chữ Hán đã được giữ lại trong khi 
		một số khác đã thay đổi hoàn toàn. Tuy nhiên, có một sự liên quan mật 
		thiết giữa ý nghĩa của những từ được tạo mới và nghĩa gốc của mỗi chữ 
		Hán. Điều này có nghĩa rằng trong sự chuyển dịch kinh Phật, nghĩa gốc 
		của những chữ Hán được vay mượn để tạo ra từ mới luôn bằng sự kết hợp 
		của hai hay nhiều hơn những chữ Hán, nhưng ý nghĩa của những từ tạo mới 
		là hoàn toàn khác với nghĩa gốc của các chữ Hán.
		
		
		Thứ năm là những diễn đạt mới được thêm vào ngôn ngữ Trung Quốc thông 
		qua sự  ảnh hưởng của Phật giáo nhưng những điều này không phải là dịch 
		trực tiếp từ Sanskrit chẳng hạn như xuất gia (出家, 
		pravrajya) là rời bỏ gia đình để trở thành người tu sĩ; xuất thế, siêu 
		việt thế giới; thế độ (剃度), 
		thụ giáo bằng việc xuống tóc; hóa duyên (化緣) 
		là khất thực hay xin thứ gì đó khác; khổ hải (苦海), 
		một biển khổ, có nghĩa đời sống thì đầy hiểm nguy như biển dữ; phương 
		trượng, nghĩa đen là một thước vuông (3.3m), những nó chỉ cho vị trụ trì 
		của một ngôi chùa.
		
		
		Thứ sáu là làm tăng thêm những thành ngữ liên quan đến Phật giáo. Khi 
		Phật giáo dần được người Trung Quốc chấp nhận, những khái niệm, tư tưởng 
		Phật giáo dần được sáp nhập vào trong ngôn ngữ Trung Quốc và kết quả 
		những thành ngữ mới được hình thành.
		
		
		Ví dụ, (1) có những thành ngữ từ những câu chuyện Phật chẳng hạn như Thiên 
		nữ tán hoa (天女散花) 
		mà nó có nghĩa là tạo nên một mớ hỗn độn;
		
		Thiên hoa loạn trụy (天花亂墜), 
		có nghĩa là nói những điều không đứng vững được;
		
		Tá hoa hiến Phật (借花獻佛), 
		có nghĩa là mượn hoa cúng Phật, nhưng thật sự nó có nghĩa là lấy những 
		thứ từ người khác để tiếp đãi khách riêng của mình;
		
		Thủy trung tróc nguyệt (水中捉月) 
		hay
		
		Thủy trung lao nguyệt (水中撈月), 
		nghĩa đen là cố câu mặt trăng ra khỏi nước, nhưng hiển nhiên nó có nghĩa 
		là sự cố gắng vô ích v.v…
		
		
		(2) Có những thành ngữ từ giáo pháp Phật giáo chẳng hạn như Đại 
		từ đại bi (大慈大悲) 
		mà nó có nghĩa là lòng từ bi rộng lớn;
		
		Lục căn thanh tịnh (六根清淨) 
		mà nó có nghĩa đen là sự thanh tịnh sáu căn, nghĩa thật: thoát khỏi 
		những tham muốn và cảm xúc con người;
		
		Bất nhị pháp môn (不二法門) 
		có nghĩa là học thuyết không hai;
		
		Nhất trần bất nhiễm (一塵不染) 
		có nghĩa là sự tinh khiết, không nhơ bẩn;
		
		Tứ đại giai không (四大皆空), 
		có nghĩa đen là tất cả bốn yếu tố chất rắn, chất lỏng, nhiệt độ và không 
		khí (đất, nước, gió, lửa) đều là vô thường. Theo giáo pháp Phật giáo 
		thân thể vật lý con người được hình thành từ bốn yếu tố (tứ đại), vì vậy 
		thân thể vật lý con người cũng không có tự tính và vô thường, chỉ như 
		một phương tiện.
		
		
		(3) Có những thành ngữ từ những so sánh Phật giáo, chẳng hạn như
		
		Mộng trung thuyết mộng (夢中說夢) 
		mà nó có nghĩa đen là nói về những giấc mơ trong một giấc mơ, ý nghĩa 
		thực sự là nói những điều vô nghĩa;
		
		Đàm hoa nhất hiện (曇花一現), 
		có nghĩa là trải qua một thời gian rất ngắn giống như hoa quỳnh nở ban 
		đêm, hay sống ngắn ngủi;
		
		Châm phong tương đối (針鋒相對), 
		có nghĩa là ăn miếng trả miếng, tấn công nhau bằng cùng ngôn ngữ cay 
		nghiệt, đốp chát lẫn nhau;
		
		Thủy nguyệt kính hoa (水月鏡花), 
		có nghĩa là những ảo giác giống như mặt trăng trong nước và hoa trong 
		gương;
		
		Tâm viên ý mã (心猿意馬), 
		có nghĩa gốc rằng tâm giống như một con khỉ hay một con ngựa mà nó rất 
		khó để kiểm soát, nó luôn hướng đến những lôi cuốn bên ngoài, tức có 
		nghĩa rằng tâm không yên tĩnh và bồn chồn.
		
		
		Thứ bảy là những cách ngôn Phật giáo và những câu nói phổ biến có liên 
		quan đến Phật giáo. (a)
		
		Cứu nhân nhất mệnh, thắng tạo thất cấp phù đồ (救人一命,
		
		
		勝造七級浮屠), 
		nghĩa là cứu một mạng người còn hơn xây một ngôi tháp bảy tầng. Điều này 
		có nghĩa rằng cứu một mạng sống thì tốt hơn làm những việc phước đức 
		khác. (b)
		
		Phóng hạ đồ đao lập địa thành Phật (放下屠刀,
		
		
		立地成佛), 
		một tên đồ tể thành Phật ngay lập tức nếu y vứt bỏ đi con dao của mình. 
		Có nghĩa rằng một người xấu ác có thể trở thành một người tốt nếu vị ấy 
		nhận ra những hành vi xấu của mình. (c)
		
		Vô sự bất đăng Tam bảo điện (無事不登三寶殿), 
		không có việc gì thì ta sẽ không đến bảo điện. Có nghĩa rằng người ta sẽ 
		không đến với bạn nếu không có mục đích. (d)
		
		Lâm thời bảo Phật cước (臨時抱佛腳), 
		có nghĩa rằng người ta làm một điều gì đó mà không có sự chuẩn bị.
		
		
		3. Tăng thêm những từ hai âm tiết và đa âm tiết
		
		
		Theo những nhà ngôn ngữ học Trung Quốc, hầu như chỉ có những từ đơn âm 
		và mỗi chữ là một từ để diễn đạt điều gì đó trong chữ viết Trung Quốc ở 
		Trung Quốc cổ đại. Nhưng với việc phiên dịch kinh Phật, có một sự gia 
		tăng nhiều từ hai âm và đa âm tiết mà chúng đóng một vai trò quan trọng 
		trong sự phát triển ngôn ngữ và từ vựng Trung Quốc từ đơn âm đến đa âm. 
		Vào thời Lục triều từ thế kỷ I TL đến cuối thế kỷ VI, một lượng lớn từ 
		hai âm tiết và đa âm tiết xuất hiện và được sử dụng, và những từ này 
		chính yếu do các Phật tử tạo ra.
		
		
		Lương Hiểu Hồng (梁曉虹), 
		người đã thực hiện một nghiên cứu về từ vựng Phật giáo, nói rằng có một 
		sự gia tăng lớn lao những từ hai âm tiết từ thời Hán đến thời Nam Bắc 
		triều và điều này chính yếu do việc phiên dịch kinh Phật mang lại. Bà 
		đưa ra ví dụ như sau: chỉ có 2.300 từ hai âm tiết trong số 210.000 từ 
		trong
		
		Luận hành (論衡) 
		của Vương Sung (王充) 
		được viết vào thời Đông Hán (25-220). Nhưng có 1.541 từ hai âm tiết 
		trong số 61.000 từ trong
		
		Thế thuyết tân ngữ (世說新語) 
		của Lưu Nghĩa Khánh (劉義慶 
		403-443) thời Nam triều.6 
		Bà cũng đưa ra trường hợp sau để chỉ ra rằng có nhiều từ hai âm tiết 
		trong kinh Phật hơn ở trong những văn bản không phải Phật giáo. 1.500 từ 
		đa âm tiết được tìm thấy trong phẩm Thí dụ (譬喻品) 
		thứ ba nơi bản dịch kinh
		
		Pháp hoa (法華經) 
		của Cưu Ma La Thập (Kumārajīva), mà nó có 7.750 từ. Có hơn 250 từ hai âm 
		tiết trong số hơn 1.400 từ của phẩm “Di Lặc thần thông” (彌勒神通品) 
		ở trong kinh
		
		Bồ-tát niệm Phật tam muội (菩薩念佛三昧經) 
		được Gunaśāra dịch vào thời Nam triều. Tuy nhiên, chỉ có hơn 60 từ hai 
		âm tiết trong số hơn 1.400 từ của thiên Chánh sự (政事篇) 
		từ
		
		Thế thuyết tân ngữ của Lưu Nghĩa Khánh (劉義慶).
		
		
		Ngoài những điều này, những dịch giả Phật giáo cũng giới thiệu những 
		từ đa âm tiết chẳng hạn như Bồ-đề tâm (菩提心), 
		tâm giác ngộ; công đức thủy (功德水), 
		nước công đức; chánh tư duy (正思維), 
		suy nghĩ đúng đắn; ba-la-mật-đa (波羅蜜多, 
		pāramitā), nghĩa là sự toàn mãn; phi tưởng phi phi tưởng (非想非非
		
		
		想), 
		có nghĩa là không có tưởng cũng không không có tưởng.
		
		
		Trong ngôn ngữ Trung Quốc cổ  đại có ít từ đa âm tiết, vì vậy việc đưa 
		vào những từ đa âm tiết tạo nên một sự thay đổi lớn lao trong ngôn ngữ 
		Trung Quốc. Tất cả những điều này cho thấy rằng những dịch giả Phật giáo 
		tạo ra không chỉ sự đa dạng từ cho ngôn ngữ Trung Quốc mà cũng tạo ra 
		những cách thức và phương pháp hình thành từ mới bằng việc tổng hợp và 
		phân tích những đặc tính của từ ngữ Phật giáo. Điều này làm cho ngôn ngữ 
		Trung Quốc trở thành một phương tiện mạnh mẽ có thể diễn đạt những khái 
		niệm và tư tưởng trừu tượng phức tạp cũng như những tiểu tiết vi tế nhất 
		của sự vật.
		
		
		Do đó, theo Khuy Cơ (窺基 
		632-682), một Tăng sĩ sống vào thế kỷ VII, những dịch giả Phật giáo thậm 
		chí giới thiệu cách giải thích từ ngữ theo tiếng Sanskrit được gọi là
		
		Lục ly hợp thích (六離合釋 
		sat samāsāḥ) mà nó có nghĩa là sáu cách thức giải thích một từ thông qua 
		việc đầu tiên giải thích mỗi từ riêng lẽ và tiếp đó bằng việc giải thích 
		ý nghĩa khi chúng được kết hợp lại. Ngày nay những từ ngữ do Phật giáo 
		sáng tạo này được sử dụng trong đời sống hàng ngày nhưng người ta không 
		còn biết gốc tích Phật giáo của chúng.
		
		
		4. Sáng chế thiết vận (切韻) 
		và tóm tắt tứ thanh (四聲)
		
		
		Kinh điển Phật giáo được dịch từ những bản văn được viết hoặc bằng tiếng 
		Sanskrit hoặc bằng những ngôn ngữ Ấn Độ khác mà chúng hoàn toàn là ký 
		hiệu ngữ âm. Tuy nhiên tiếng Trung Quốc không phải ký hiệu ngữ âm mà là 
		một ngôn ngữ tượng hình (象形文字). 
		Ký hiệu ngữ âm đề cập đến những ký hiệu được viết mà chúng mang thông 
		tin ngữ âm, trong khi chữ tượng hình là những ký hiệu được viết để thể 
		hiện nghĩa.
		
		
		Những dịch giả Phật tử Trung Quốc đã học và một số thậm chí tinh thông 
		những ngôn ngữ ký hiệu ngữ âm này để hỗ trợ trong việc phiên dịch. Điều 
		này theo đó đẩy mạnh sự nhận thức và hiểu biết về những thanh âm trong 
		ngôn ngữ Trung Quốc mà nó là một bước quan trọng trong việc phát triển 
		ngôn ngữ Trung Quốc. Học giả đời Tống Trịnh Tiều (鄭樵 
		1104-1162) nói: “Người Ấn Độ giỏi về thanh âm vì vậy họ tiếp thu kiến 
		thức của họ chính yếu từ việc nghe… trong khi người Trung Quốc giỏi về 
		chữ viết vì vậy họ tiếp thu kiến thức của họ từ việc nhìn (đọc).”7
		
		
		Một vài học giả có quan điểm rằng việc tạo ra thiết vận (切韻), 
		một cách để tìm ra thanh âm của một chữ Trung Quốc, và việc hình thành 
		lý thuyết tứ thanh (四聲) 
		trong ngôn ngữ Trung Quốc là liên quan mật thiết đến hay thậm chí ảnh 
		hưởng trực tiếp bởi việc phiên dịch kinh Phật từ tiếng Sanskrit.
		
		
		Trần Dần Khác (陳寅恪 
		1890-1969) là học giả Trung Quốc đầu tiên nói rằng bốn thanh trong ngôn 
		ngữ Trung Quốc được tạo ra sau khi việc tụng đọc kinh chú của chư Tăng 
		Phật giáo có mặt.8 
		Những biện luận của ông là như sau:
		
		
		(1) Tứ thanh của tiếng Trung Quốc được tạo ra bằng việc mô phỏng theo ba 
		thanh ở nơi việc tụng kinh của Phật giáo thời bấy giờ, mà nó là từ ba 
		thanh âm của
		
		Vệ-đà ở Ấn Độ cổ xưa. (2) Tứ thanh của Trung Quốc được tạo ra vào 
		thời Vĩnh Minh (永明, 
		489) bởi vì vua Tiêu Tử Lương (蕭子良 
		460-494) đã mời nhiều Tăng sĩ Phật giáo, những người nắm vững việc tụng 
		niệm của Phật giáo, tập họp tại nhà của ông để tạo ra âm nhạc Phật giáo 
		mới (經唄).9 
		(3) Có nhiều Tăng sĩ Phật giáo từ Trung Á, những người sống ở Kiến Khang 
		(建康, 
		nay là Nam Kinh) và thành thạo trong việc tụng đọc kinh chú.
		
		
		Tuy nhiên, những học giả khác chẳng hạn như Du Mẫn (俞敏), 
		người đã có những bài viết vào năm 1984, nghi ngờ điều này khi căn cứ 
		vào một giới luật Phật giáo mà nó cấm Tăng sĩ sử dụng phương cách của 
		ngoại đạo (Bà-la-môn) trong việc tụng đọc kinh Phật.10 
		Tuy nhiên, ông đồng ý rằng người Trung Quốc biết và hiểu được tứ thanh ở 
		trong ngôn ngữ của họ bởi nhờ nghiên cứu thanh âm Phật giáo.
		
		
		Nhiêu Tông Di (饒宗頤) 
		đã viết một bài vào năm 1987 và ông cũng thắc mắc về những quan điểm của 
		Trần Dần Khác, nhưng những câu hỏi của ông chính yếu liên quan đến ba 
		thanh. Giáo sư Nhiêu biện luận rằng: (1) Có nhiều hơn ba thanh ở trong
		
		Vệ-đà và những cách thức tụng đọc
		
		Vệ-đà đã biến mất lâu trước thế kỷ VI TL khi những Tăng sĩ Phật 
		giáo ở Trung Quốc thảo luận những cách thức tụng đọc của Phật giáo. (2) 
		Bốn thanh đã có mặt ở thời Lưu Tống (420-479). (3) Giống như Du Mẫn, 
		giới luật Phật giáo cấm Tăng sĩ sử dụng những cách thức tụng đọc của 
		ngoại đạo. (4) Vì các Phật tử sử dụng tiếng Sanskrit lai (hổn chủng) và 
		những cách thức tụng đọc của Bà-la-môn có thể được sử dụng trong việc 
		tụng đọc những bản kinh Phật giáo Sanskrit lai (Buddhist hybrid Sanskrit 
		sutras) nhưng sự nối kết với việc tụng đọc
		
		Vệ-đà là không rõ ràng. Tuy nhiên, Giáo sư Nhiêu biện luận rằng 
		bốn thanh được tạo ra sau khi 14 thanh âm được giới thiệu trong kinh
		
		Đại bát Niết-bàn (Mahāparinirvāṇa).11
		
		
		Bình Điền Xương Ti (平田昌司) 
		biện luận phản bác lại Nhiêu Tông Di và Du Mẫn và nói rằng mặc dù những 
		Tăng sĩ Phật giáo bị cấm sử dụng cách thức ngoại đạo (Bà-la-môn) để tụng 
		đọc kinh Phật, nhưng giới này không nghiêm ngặt và ví dụ như tiếng 
		Sanskrit, được tông phái Phật giáo Nhất thiếu hữu bộ (Sarvāstivāda) sử 
		dụng về sau vào khoảng thế kỷ I tr.TL, mặc dù vào thời Phật nó bị cấm sử 
		dụng.
		
		
		Ở đây tôi cũng xin bổ sung thêm chứng cứ trong việc ủng hộ biện luận của 
		Hirata liên quan đến giới luật ở trong Phật giáo. Đức Phật, ngay trước 
		khi diệt độ, đã nói với thị giả của Ngài là Tôn giả Ananda: “Sau khi Ta 
		diệt độ, hãy để các Tỳ-kheo, nếu họ muốn làm như vậy, bỏ đi những giới 
		nhỏ”.12 
		Quan điểm này đã ảnh hưởng nhiều những Phật tử về sau đến độ một giới 
		luật cụ thể đã được thiết lập được gọi là “Giới theo địa phương”, mà nó 
		có nghĩa rằng những giới luật thứ yếu có thể được thay đổi thậm chí hủy 
		bỏ theo địa phương. Du Mẫn không biết điều này vì vậy biện luận của ông 
		không có giá trị bởi vì giới luật không sử dụng cách thức ngoại đạo 
		trong việc tụng đọc được nới lỏng về sau và thậm chí việc tụng chú cũng 
		được phép vào thế kỷ VI (và sau đó) khi Kim cương thừa (Vajrayāna) xuất 
		hiện ở Ấn Độ.
		
		
		Bồ-tát Mã Minh (馬鳴菩薩, 
		Aśvaghosa, 100 TL), một Tăng sĩ Ấn Độ kiệt xuất, học giả, nhà thơ và nhà 
		soạn kịch, sử dụng cả Sanskrit và âm nhạc để quảng bá Phật pháp vào thế 
		kỷ thứ nhất TL.13 
		Ông được xem là cha đẻ của kịch nghệ Sanskrit và ông cũng phổ biến loại 
		thi ca Sanskrit được biết như là Kavya. Điều này cho thấy rằng những 
		Phật tử đã sử dụng âm nhạc và hệ thống thanh âm để quảng bá Phật pháp 
		vào thế kỷ thứ nhất TL mặc dù có giới cấm Tăng sĩ tham gia vào các buổi 
		biểu diễn âm nhạc. Vì vậy Mair khẳng định rằng:
		
		
		“Tuy nhiên, sự tiếp xúc với ngôn ngữ Sanskrit và những nhà ngôn ngữ Ấn 
		Độ khác trong nhiều thế kỷ đã giúp cho người Trung Quốc biết nhiều hơn 
		về đặc điểm hệ thống âm vị nơi ngôn ngữ của họ. Kết quả đầu tiên là việc 
		sáng chế ra phương pháp phiên thiết (反切) 
		đánh vần (đó là, lấy thanh đầu của một chữ và thanh cuối của một chữ thứ 
		hai để trình bày việc đánh vần một chữ thứ ba)”.14
		
		
		Mặc dù việc sáng chế hay hình thành tứ thanh có thể không nối kết trực 
		tiếp với
		
		Vệ-đà, nhưng sự ảnh hưởng tiếng Sanskrit là hoàn toàn rõ ràng và 
		Sanskrit được truyền vào Trung Quốc cùng với Phật giáo. Nghiên cứu ngôn 
		ngữ học tiếng Sanskrit đã tạo cảm hứng cho người Trung Quốc xem xét ngữ 
		âm học ở trong ngôn ngữ của họ. Ít nhất, người Trung Quốc biết đến tứ 
		thanh ở trong ngôn ngữ của họ do sự ảnh hưởng của tiếng Sanskrit được sử 
		dụng trong kinh sách Phật giáo.
		
		
		Ngày nay, nhiều học giả Trung Quốc ủng hộ quan điểm này chẳng hạn như 
		Vương Bang Duy (王邦維), 
		một chuyên gia về Sanskrit và nghiên cứu Phật giáo tại Đại học Bắc Kinh 
		và biện luận với chứng cứ từ những ghi chép lịch sử rằng văn nhân nỗi 
		tiếng Trung Quốc Tạ Linh Vận (謝靈運 
		385-433) đã để hết tâm trí vào việc nghiên cứu 13 ký hiệu ngữ âm vào 
		thời của ông.15
		
		
		Tùy thư kinh tịch chí 
		(隋書
		
		
		經籍志, 
		Lịch sử triều Tùy) tường thuật điều này:
		
		
		“Phật giáo đến Trung Quốc từ triều Hậu Hán và ở đó xuất hiện những mẫu 
		tự nước ngoài từ Tây Vực (西域/Xiyu). 
		Người ta có thể trình bày tất cả thanh âm với mười bốn mẫu tự. Chữ này 
		thì ngắn gọn và súc tích và được gọi là chữ Phạn. Chữ này khác với chữ 
		của chúng ta mà nó được chia tành tám thể (八體) 
		và sáu loại (六文)”.16
		
		
		Theo Quán Đính (灌頂 
		561-632), kinh
		
		Đại bát Biết-bàn (Mahāparinirvāṇa Sūtra) được Đàm Vô Sấm 
		(Dharmakṣema) dịch ở vùng Tây bắc Trung Quốc, được truyền đến miền Nam 
		vào thời Tống Văn Đế (宋文
		
		
		帝), 
		người rất yêu thích bản kinh này đến độ yêu cầu Huệ Quán (慧觀), 
		Huệ Nghiêm (慧嚴) 
		và Tạ Linh Vận (謝靈運) 
		biên tập lại kinh này.17 
		Ba người họ đọc duyệt lại kinh và chia phẩm Trường thọ thành bốn phẩm và 
		phẩm Như Lai tánh thành mười phẩm mà ở đó có một phẩm tên Văn tự (文字品). 
		Chỉ có mười ba phẩm trong bản dịch gốc và 25 phẩm trong bản được duyệt 
		lại mà nó chứng minh sự thật khi hai bản hiện còn được kiểm chứng.
		
		
		Theo Phí Trường Phòng (費長房), 
		một người cùng thời với Quán Đính, lý do cho việc đọc duyệt lại bản dịch 
		của Đàm Vô Sấm là rằng bản dịch này là một bản dịch văn học và ngôn ngữ 
		không được tao nhã để phổ biến.18 
		Điều này có nghĩa rằng Huệ Quán (慧觀), 
		Huệ Nghiêm (慧嚴) 
		và Tạ Linh Vận (謝靈運) 
		đã thêm tựa của phẩm Văn tự cho một mục mà nó thảo luận về 14 ký hiệu 
		hay nguyên âm trong bảng chữ cái Sanskrit. Điều này hoàn toàn ý nghĩa và 
		chứng minh rằng Tạ Linh Vận không chỉ biết mà hoàn toàn quen thuộc với 
		việc thảo luận 14 chữ ở trong bản dịch kinh
		
		Đại bát Biết-bàn của Đàm Vô Sấm.19
		
		
		Theo
		
		Cao tăng truyện (高僧傳) 
		của Huệ Hiệu (慧皎 
		497-554),
		
		
		“Tạ Linh Vận ở Trần huyện yêu thích nghiên cứu Phật giáo, đặc biệt là sự 
		am hiểu những âm thanh khác nhau từ những người bình thường. Ông tham 
		vấn Huệ Nhật (慧日, 
		355-439) về các chữ trong kinh và những thanh âm khác nhau với những 
		biến đổi trong ý nghĩa và ông đã viết Thập tứ âm huấn tự (十四音訓序, 
		một nghiên cứu về 14 ký hiệu ngữ âm). Ông giảng giải nó rõ ràng bằng 
		việc liệt kê ra những chữ Trung Quốc và Sanskrit để những chữ được viết 
		có được chứng cứ của chúng”.20
		
		
		Cao tăng truyện 
		của Huệ Hiệu cũng cho chúng ta biết rằng Huệ Nhật đã đi qua nhiều vương 
		quốc để đến Nam Ấn và học những ký hiệu ngữ âm khác nhau, các thể loại 
		văn học và sự phiên dịch. Rõ ràng rằng Tạ Linh Vận đã viết
		
		Thập tứ âm huấn tự dựa trên 14 âm vận ở trong kinh
		
		Đại bát Biết-bàn sau khi tham vấn với Huệ Nhật. Theo nghiên cứu 
		của Vương Bang Duy được đề cập ở trên, 14 âm tiết ở trong
		
		Thập tứ âm huấn của Tạ Linh Vận đề cập đến 14 nguyên âm của ngôn 
		ngữ Sanskrit được dựa trên
		
		Kātantra của Sarvavarman, một cuốn sách ngữ pháp Sanskrit.
		
		
		Như được thảo luận ở trên, chính ở trong một tình huống như vậy mà vua 
		Tiêu Tử Lương (蕭子良) 
		đã mời nhiều Tăng sĩ thành thạo việc tụng đọc Phật giáo tụ họp ở nhà của 
		ông để tạo ra nhạc Phật giáo mới (經唄).21
		
		
		Thẩm Ước (沈約 
		441-513) và Chu Ngung (周顒) 
		cả hai là những Phật tử và đều quan tâm đến ngữ âm học. Vị Tăng người 
		Nhật Không Hải (Kukai 
		
		空海 
		774-835) nói ở trong cuốn sách của mình
		
		Văn kính bí phủ luận (文鏡秘府論, 
		Bunkyo Hifuron):
		
		“Từ cuối đời [Lưu] Tống (420-479) bốn thanh đã có mặt. Ông Thẩm đã viết 
		một tiểu luận để thảo luận về bảng phả hệ (譜) 
		mà ở đó ông nói rằng nó đến từ Chu Ngung.”22 
		Theo
		
		Nam sử (南史), 
		một cuốn sách lịch sử, Chu Ngung đã viết
		
		Tứ thanh thiết vận (四聲切韻, 
		Một nghiên cứu về bốn thanh và thiết vận).23
		
		
		Tất cả những chứng cứ này cho thấy rằng việc sử dụng Sanskrit của Phật 
		giáo đã  ảnh hưởng trực tiếp đến việc sáng chế ra thiết vận, một cách để 
		tìm âm vận của một từ, và hình thành nên tứ thanh. Điều này thúc đẩy 
		người Trung Quốc quan tâm vào việc nghiên cứu ngôn ngữ. Điều này cũng 
		ảnh hưởng trực tiếp đến việc nghiên cứu và sử dụng vần trong thơ Trung 
		Quốc.
		
		
		Chính nương vào kinh
		
		Đại bát Biết-bàn và kinh
		
		Hoa nghiêm (Avataṃsaka) mà cuối triều Đường vị Tăng sĩ Phật giáo 
		tên là Thủ Ôn (守溫) 
		lần đầu tiên tạo ra 30 chữ cái với ký tự Trung Quốc cho việc nghiên cứu 
		những ký hiệu ngữ âm và về sau nó được bổ sung thành 36.24 
		Bảng ngữ âm của Thủ Ôn được phát hiện ở Đôn Hoàng.
		
		
		5. Việc biên soạn các từ điển về vần
		
		
		Những người Trung Quốc mà họ quan tâm ngữ âm Sanskrit đã gia tăng sự 
		quan tâm chưa từng thấy vào những nghiên cứu ngôn ngữ học, cụ thể là 
		những miêu tả và phân tích những giá trị ngữ  âm của chữ viết Trung 
		Quốc. Điều này đưa đến việc biên soạn vô số những từ điển về vần. Mặc dù 
		những từ điển này chính yếu được biên soạn cho mục đích đọc và nghiên 
		cứu kinh điển Phật giáo nhưng chúng cũng có giá trị cho việc nghiên cứu 
		ngôn ngữ và lịch sử mang tính học thuật.
		
		
		Sự thực, có một truyền thống nghiên cứu hình thể, âm thanh và ý nghĩa 
		của chữ viết Trung Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Những Phật tử Trung 
		Quốc đã chọn truyền thống này và vay mượn từ những tác phẩm không phải 
		Phật giáo để biên soạn nhiều từ điển về vần. Ngay từ thời Bắc Tề (北齊 
		550-577), một Tăng sĩ có tên là Đạo Huệ (道慧) 
		đã biên soạn một quyển sách có tựa là
		
		Nhất thiết kinh âm (一切經音) 
		và sau đó Trí Khiên (智騫) 
		đã biên soạn
		
		Chúng kinh âm (眾經音). 
		Nhưng vào đời nhà Đường ở đó đã xuất hiện nhiều tác phẩm quan trọng do 
		những nhà ngôn ngữ Phật giáo xuất chúng biên soạn chẳng hạn như Huyền 
		Ứng (玄應), 
		Huệ Lâm (慧琳), 
		và Pháp Vân (法雲) 
		vào đời nhà Tống.
		
		
		Huyền Ứng là một người uyên bác, thậm chí là một trong mười Tăng sĩ Phật 
		giáo chủ đạo được hoàng đế tuyển chọn hình thành nên ủy ban phiên dịch 
		của Huyền Trang. Huyền Ứng sáng tác
		
		Nhất thiết kinh âm nghĩa (一切經音義) 
		và giải thích những chữ Hán khó ở trong 456 bản kinh Phật. Theo Đạo 
		Tuyên (道宣 
		596-667), Huyền Ứng không hài lòng về tác phẩm của Đạo Huệ được đề cập ở 
		trên vì vậy ông biên soạn tác phẩm của mình và trích hơn 112 tác phẩm 
		Trung Quốc ngoài văn học Phật giáo.25 
		Đây là một tác phẩm giá trị đối với những học giả hiện đại khi việc soạn 
		thảo và nghiên cứu của ông có chất lượng cao.
		
		
		Thứ hai, Huệ Lâm biên soạn một tác phẩm với cùng tựa đề Nhất 
		thiết kinh âm nghĩa (一切經音義) 
		trong một bộ sách 100 quyển. Huệ Lâm vốn là người Kashgar và đến Trung 
		Quốc nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của Amoghavajra. Vì vậy ông thông thạo 
		ngữ âm học Ấn Độ và những kinh sách Nho giáo. Huệ Lâm ở trong tác phẩm 
		của mình đã giải thích những từ khó ở trong 1.300 bản kinh Phật. Giống 
		như Huệ Nghĩa, Huệ Lâm cũng trích hơn 100 tác phẩm Trung Quốc và một số 
		chúng đã bị thất lạc. Hầu hết những nhà ngôn ngữ học đời Thanh đã xem 
		tác phẩm của Huệ Lâm như là nguồn sách chính của họ.
		
		
		Về sau vào đời nhà Tống, Pháp Vân đã biên soạn
		
		Phiên dịch danh nghĩa tập (翻譯名義集). 
		Cuốn sách bao gồm 2.040 mục phiên dịch từ có gốc từ tiếng Sanskrit với 
		giải thích cẩn thận về nguồn gốc và ý nghĩa. Tác giả cũng trích hơn 400 
		tác phẩm không thuộc Phật giáo.
		
		
		Tác phẩm quan trọng khác có tên là Phạm 
		ngữ thiên tự văn (梵語千字文) 
		của Nghĩa Tịnh (義淨 
		635-713), người đã đến Ấn Độ qua ngã biển Nam Trung Quốc vào thế kỷ 
		VIII. Đây là một cuốn từ điển song ngữ. Tất cả những từ điển Phật giáo 
		này đẩy mạnh việc nghiên cứu ngôn ngữ Trung Quốc và đưa ra ánh sáng mới.
		
		
		6. Sử dụng bạch thoại
		
		
		Victoria Mair nói:
		
		
		“Những gì cả Zurcher và Zhu Qinzhi chỉ ra cho thấy rõ rằng, từ khởi đầu 
		của Phật giáo ở Trung Quốc, những bản văn được phiên dịch từ tôn giáo 
		mới này thể hiện một mức độ nội dung bạch thoại cao hơn những bản văn 
		không thuộc Phật giáo. Không có bản văn nào từ cùng thời có thể bắt đầu 
		để so sánh với những bản dịch kinh Phật ban đầu về số lượng lớn những từ 
		địa phương mà chúng có. Sự thực, rất hiếm trong những
		
		bản văn không thuộc Phật giáo cùng thời kỳ tìm ra thậm chí việc sử dụng 
		một phương ngữ rõ ràng duy nhất.”26
		
		
		
		Những Phật tử Trung Quốc là những người đầu tiên sử dụng bạch thoại để 
		phiên dịch kinh Phật ở Trung Quốc và điều này đã  ảnh hưởng việc sử dụng 
		bạch thoại trong những người Trung Quốc. Mair còn nghĩ rằng về sau nó 
		trở thành quốc ngữ của Trung Quốc.27
		
		
		Mair liệt ra sáu lý do tại sao Phật giáo sử dụng bạch thoại và một trong 
		số những lý do của ông là hoàn toàn thuyết phục.28 
		Tôi nghĩ những lý do chính để Phật giáo sử dụng bạch thoại là như sau: 
		Lý do đầu tiên và quan trọng nhất là chính sách ngôn ngữ của Đức Phật. 
		Như Mair chỉ ra rằng huấn thị của Đức Phật là truyền bá giáo pháp của 
		Ngài khắp thế giới bằng ngôn ngữ của những vùng miền khác nhau, thay vì 
		bằng ngôn ngữ cổ của các
		
		Vệ-đà như được ghi chép ở trong luật tạng 
		(vinaya). Bởi vì Đức Phật muốn tất cả mọi người, hầu hết là người 
		bình dân, học và hiểu giáo pháp của Ngài. Mair gọi đó là những giá trị 
		xã hội theo chủ nghĩa bình đẳng của Phật giáo mà nó ủng hộ những hình 
		thái ngôn ngữ địa phương hơn là những hình thái dành riêng cho giới ưu 
		tú, tu sĩ.
		
		
		Chính sự ủng hộ việc sử dụng phương ngữ này được phản ánh trong việc 
		phiên dịch Hán ngữ các kinh Phật. Theo lời nói đầu cho bản dịch Hán ngữ 
		kinh
		
		Pháp cú, khi Vighna vừa đến Trung Quốc vào năm 224, ông được mời 
		đến dịch kinh Phật với người bạn của ông là Trúc Tương Diễm (竺將焰) 
		nhưng Trúc Tương Diễm chưa thông thạo Hán ngữ mặc dù ông giỏi tiếng 
		Sanskrit, vì vậy việc phiên dịch đơn giản và không súc tích. Nhưng 
		Vighna nói:
		
		“Đức Phật nói, ‘Hãy theo nghĩa mà không theo đồ trang hoàng, hãy nhận 
		Pháp mà không nhận đồ trang trí’. Thật tốt nếu người phiên dịch làm cho 
		nó dễ hiểu mà không đánh mất nghĩa”.29 
		Do vậy họ đã dịch kinh Phật bằng phương ngữ. Tuy nhiên, phương ngữ này, 
		một mặt, được kết hợp với việc vay mượn lớn từ những từ Ấn Độ và thậm 
		chí sử dụng quy tắc ngữ pháp và cấu trúc cú pháp và mặt khác được thay 
		đổi bởi những Phật tử Trung Quốc, những người đã giúp trong việc phiên 
		dịch vì vậy nó trở thành một sự trộn lẫn bạch thoại và thể loại văn học. 
		Những học giả gọi nó là Tiếng Trung Quốc lai Phật giáo (Buddhist Hybrid 
		Sinitic). 
		
		
		Có một số lớn những bản chữ viết bằng phương ngữ được lưu giữ ở  thư 
		viện hang động Đôn Hoàng mà chúng được tìm thấy vào đầu thế kỷ XX. Toàn 
		bộ phần chính của những thể văn kể chuyện bằng phương ngữ ở Đôn Hoàng 
		được đề cập đến như biến văn (變文), 
		mà nó bao gồm giảng kinh văn (講經文, 
		những bản văn giảng kinh, những chú thích tỉ mỉ về các kinh cụ thể), áp 
		tọa văn (押座文, 
		những bản văn bố trí việc ngồi, những mở đầu cho những bài thuyết 
		giảng), nhân duyên (因緣, 
		hoàn cảnh, câu chuyện minh họa nghiệp quả), và duyên khởi (緣起, 
		nguyên nhân, những câu chuyện minh họa những nghiệp quả) v.v…
		
		
		Bản chất của bộ sưu tập văn học này cho thấy rằng chúng được sử dụng cho 
		những bài thuyết trình công cộng, giảng pháp, câu chuyện minh họa giáo 
		pháp Phật giáo và thậm chí kịch nghệ. Vì sử dụng bạch thoại nên chúng dễ 
		hiểu và do đó trở thành phương tiện tốt nhất cho việc truyền bá giáo 
		pháp Phật.
		
		
		Lý do quan trọng thứ hai cho việc sử dụng bạch thoại là triết lý của 
		Thiền tông không dựa vào văn tự, mà thực hiện một sự truyền bá đặc biệt 
		ngoài kinh sách. Do vậy những Thiền sư truyền bá lời dạy của họ bằng 
		khẩu ngữ chẳng hạn như thuật lại những câu chuyện ngộ đạo mà chúng được 
		gọi là
		
		công án (公案). 
		Tuy nhiên, về sau, những đệ tử tập hợp lại những câu chuyện và những bài 
		giảng của thầy họ và biên soạn thành những cuốn sách được gọi là
		
		Ngữ lục (語錄). 
		Vì những Thiền sư sử dụng những phương ngữ và thậm chí ngôn ngữ thông 
		tục để hướng dẫn đệ tử của họ vì vậy bạch thoại được sử dụng trong Ngữ 
		lục để ghi chép lời nói của thầy họ đúng như thật.
		
		
		Sử dụng bạch thoại trong văn học Phật giáo được mở rộng vào triều Tống 
		khi có một số lớn những bộ sưu tập được lưu giữ. Có hai loại sưu tập như 
		vậy: Đăng lục (燈錄) 
		mà nó có nghĩa là “Ghi chép dưới ngọn đèn” và Ngữ lục (語錄) 
		mà nó có nghĩa là “Ghi chép những lời nói”. Tác phẩm đại diện của Đăng 
		lục vào triều Tống là
		
		Cảnh Đức truyền đăng lục (景德傳
		
		
		燈錄) 
		do Đạo Nguyên (道原) 
		biên soạn vào thời Cảnh Đức (景德 
		1004-1007). Đại diện của “Ngữ lục” là
		
		Bích nham lục (碧岩錄) 
		do Khắc Cần (克勤1069-1135) 
		biên soạn, ông đã viết những giới thiệu ngắn cho mỗi câu chuyện và thậm 
		chí thêm những ghi chú và bình luận đối với một số câu chuyện quan 
		trọng.
		
		
		Sử dụng bạch thoại của Phật giáo trong Ngữ lục cũng ảnh hưởng những Nho 
		gia vào triều Tống nên họ cũng dùng bạch thoại với cùng thể loại văn 
		chương như Giang Phiên (江藩1761-1831), 
		một học giả triều Thanh, đã nói:
		
		“Thiền tông có Ngữ lục thì các Tống Nho cũng có Ngữ lục; Thiền tông sử 
		dụng bạch thoại (nghĩa đen: ngôn ngữ đường phố) ở trong Ngữ lục thì các 
		Tống Nho cũng sử dụng bạch thoại trong Ngữ lục của họ”.30 
		Lại nữa, Tiền Đại Hân (錢大昕 
		1728-1804) nói:
		
		“Việc sử dụng Ngữ lục của Phật giáo bắt đầu từ đời Đường trong khi việc 
		sử dụng Ngữ lục của Nho giáo bắt đầu từ đời Tống”.31 
		Giống như Mair nói:
		
		“Như vậy, với sự ủng hộ sử dụng bạch thoại của Phật giáo, một chuỗi 
		những phát triển thay đổi đã xảy ra mà chúng biến đổi triệt để văn học 
		Trung Quốc mọi thời đại. Thêm nữa, liên quan chặt chẽ với bạch thoại đi 
		đến những phát triển mang cảm hứng Phật giáo khác trong văn học Trung 
		Quốc”. Do vậy chúng ta thấy Ngữ lục của các Tống Nho Trình Di (程頤1033-1107), 
		Trương Cửu Thành (張九成1092-1159), 
		và Chu Hi (朱熹1130-1200).
		
		
		Tuy nhiên,
		
		“Những văn nhân Nho giáo dòng chính không bao giờ chấp nhận bất cứ thứ 
		gì khác ngoài cổ văn/văn ngôn như là phương tiện hợp pháp cho việc viết 
		lách. Đối với họ, bạch thoại là thô tục, hạ thấp phẩm giá của một người 
		quân tử khi thưởng ngoạn”, như được Mair chỉ ra.32 
		Nhưng người bình dân không để ý đến ý kiến này và tiếp tục sử dụng bạch 
		thoại cho kịch nghệ, truyện kể, trên những cơ sở mà chúng được những 
		Phật tử ở Trung Quốc trung đại đưa ra. Chính sau phong trào Mùng bốn 
		tháng Năm năm 1919 mà giới trí thức Trung Quốc bắt đầu sử dụng bạch 
		thoại trong những bài viết của họ và do đó nó trở thành quốc ngữ. Vì vậy 
		Mair khẳng định rằng
		
		“Thật chắc ăn để nói rằng Phật giáo đã hợp pháp hóa việc viết bạch thoại 
		ở Trung Quốc”.33
		
		
		
		Ngay cả việc phát triển của quốc ngữ Hàn Quốc và quốc ngữ Nhật Bản cũng 
		chịu ảnh hưởng của Phật giáo như Mair đã chứng minh trong nghiên cứu của 
		mình “Phật giáo và sự xuất hiện bạch thoại viết ở Đông Á: Sự tạo thành 
		các Quốc ngữ” (Buddhism and the Rise of the Written Vernacular in East 
		Asia: The Making of National Languages).
		
		
		Tóm lại, ảnh hưởng của Phật giáo vào ngôn ngữ Trung Quốc có phạm vi rất 
		lớn từ ngôn ngữ đến ngữ âm chẳng hạn như tứ thanh và phiên thiết và ngay 
		cả việc sử dụng bạch thoại. Nghiên cứu ngữ âm Sanskrit đã khiến người 
		Trung Quốc quan tâm hơn vào nghiên cứu ngôn ngữ và cuối cùng đưa người 
		Trung Quốc phát minh ra vận luật học về âm giống như được Mair chỉ ra và 
		sáng tác nhiều từ điển về vần. Do vậy nó làm xuất hiện loại vận luật học 
		gần đây mà nó giữ một vị trí đặc biệt trong những hình thức thơ ca Trung 
		Quốc. 
		
		
		Nguồn: 
		Guang Xing (Quảng Hưng), “Buddhist Impact on Chinese Language”, trong
		
		
		Journal of the Centre for Buddhist Studies (Sri Lanka), 
		Vol.X
		
		2012, tr.155-176.
		
		
		Tài liệu tham khảo
		
		
		Primary
		
		
		CBETA DVD (Chinese Buddhist Electronic Association) 2011. This is a 
		digitized version of volumes 1-55 and 85 of the Taisho Shinshu Daizokyo《大正新
		
		
		脩大藏經》 
		(CBETA, T [vol. no.]) eds. Takakusu Junjiro and Watanabe Kaigyoku 
		(Tokyo: Taisho Issaikyo Kanko kai, 1924-1932) and the Shinsan Zokuzokyo 
		(卍續藏經) 
		volumes 1-88 (CBETA, X [vol. no.]) in Taiwan.
		
		
		Jiang, Fan, 1983.
		
		Guochao Hanxue Shicheng Ji《
		
		
		國朝漢學師承記》 
		Appendix: Guochao Jingshi Jingyi Mulu 
		
		《國朝經師經義目錄》 
		and Guochao Songxue Yuanyuan Ji《國朝宋學淵源記》 
		Beijing: Zhonghua Shuju. Kukai 
		
		空海 
		1983. Wenjing Mifu Lun Jiaozhu《文鏡秘府論校注》 
		edited annotated by Wang Liqi 
		
		王利器校注. 
		Beijing: Zhongguo Shehui Kexue Chubanshe. Nan Shi, 1975.《南史‧周顒傳》 
		Vol. 2. Beijing: Zhonghua Shuju.
		
		
		Nanqi Shu, 1972.
		
		Nanqi Shu--Xiaozi Liang Zhuan《南齊書‧武十七王‧蕭子良傳》 
		Vol.2. Beijing: Zhonghua Shuju.
		
		
		Qian Daxi 
		
		錢大昕, 
		2000.
		
		Shijiazai Yangxing Lun《十駕斋養新錄》 
		edited and annotated by Song Xianjun 
		
		宋顯軍 
		and Chen Wenhe 
		
		陳文和點校.
		
		
		Nanjing: Jiangsu Guji Chubanshe.
		
		
		Sui Shu, 1973.《隋書•經籍志》 
		Vol.4. Beijing: Zhonghua Shuju.
		
		
		Zheng, Jiao 
		
		鄭樵 
		1987.
		
		Tongzhi Shierlue《通志二十略》2 
		volumes edited and annotated by Wang Shuming 
		
		王樹民點校. 
		Beijing: Zhonghua Shuju.
		
		
		Vighna, trans. 224.
		
		Dharmapāda《法句經》 
		CBETA.
		
		
		Secondary
		
		
		Chen, Yinke 
		
		陳寅恪 
		2001. “Sisheng Sanwen”〈四聲三問〉 
		Jingming Guan Congshu Gao Chubian《金明館叢稿初編》Beijing: 
		Sanlian Shudian, 367-381. Reprint.
		
		
		Jao, Tsung-I 
		
		饒宗頤 
		1993. “Yindu Boerxianni zi Weituo Sansheng Lunlue: Sisheng Wailai Shuo 
		Pingyi”〈印度波儞尼仙之圍陀三聲論略—四聲外來
		
		
		說平議〉 
		Fanxue Jin《梵學集》. 
		Shanghai Giju Chubanshe, 79-92.
		
		
		Karashima, Seishi. 2006. “Underlying languages of early Chinese 
		translations of Buddhist scriptures”, in Christoph Anderl and Halvor 
		Eifring edited.
		
		Studies in Chinese language and culture: Festschrift in honour of 
		Christoph Harbsmeier on the occasion of his 60th birthday. Oslo: 
		Hermes Academic Publication.
		
		
		Khoroche, Peter. 2004. “Aśvaghoṣa” in Robert E. Buswell edited,
		
		Encyclopedia of Buddhism. Vol. 1. New York: Macmillan Reference 
		USA.
		
		
		Liang, Xiaohong 
		
		梁曉虹 
		1994. Fojiao Ciyu de Gouzhao yu Hanyu Cihui de Fazhan《佛敎詞語的構造與漢語詞彙的發展》(The 
		Structure of Buddhist Vocabulary and the Development of Chinese 
		Vocabulary). Beijing: Beijing Yuyan Xueyuan Chuban.
		
		
		Mair, Victor H. and Tsu-Lin Mei. 1991. “The Sanskrit Origins of Recent 
		Style Prosody.” Harvard 
		Journal of Asiatic Studies, Vol. 51, No. 2 (), 375-470.
		
		
		Mair, Victor H. 1992. “A Hypothesis Concerning the Origin of the Term 
		fanqie (“Countertomy”)” Sino-Platonic 
		Papers. No.34. Department of East Asian Languages and 
		Civilizations, University of Pennsylvania, Philadelphia, PA 19104-6305 
		USA.
		
		
		Mair, Victor H. 1994. “Buddhism and the Rise of the Written Vernacular 
		in East Asia: The Making of National Languages.” The 
		Journal of Asian Studies, Vol. 53, No. 3, 707-751.
		
		
		Mair, Victor H. 2001. “Language and Script.” 19-57, and 
		Schmidt-Glintzer, Helwig and Victor H. Mair, “Buddhist Literature.” 
		160-172 in
		
		The Columbia history of Chinese literature, edited by Victor H. 
		Mair. New York: Columbia University Press.
		
		
		Mair, Victor H. 2004. “Buddhist Influences on Vernacular Literature in 
		Chinese.” Encyclopedia of Buddhism. Ed. Robert E. Buswell, Jr. Vol. 1. 
		New York: Macmillan Reference USA, 2004. 154- 157. 2 vols. Gale Virtual 
		Reference Library. Gale. University of Hong Kong Libraries. 24 May. 
		2010.
		
		
		Nanjio Bunyin. 1989. Compiled,
		
		A Catalogue of the Chinese Translation of the Buddhist Tripitaka: The 
		Sacred Canon of Buddhists in China and Japan. First Published by 
		the Oxford University Press 1883. Reprint Delhi: Classics of India 
		Publications.
		
		
		Qian Daxi 
		
		錢大昕 
		1997.
		
		Shijiazhai Yangxing Lu《十駕齋養新錄》 
		Nanjing: Jiangsu Guji Chubanshe.
		
		
		Sun, Changwu 
		
		孫昌武 
		2006. “The contribution of Buddhism to the development of the Chinese 
		language and linguistics”, in Christoph Anderl and Halvor Eifring 
		edited.
		
		Studies in Chinese language and culture: Festschrift in honour of 
		Christoph Harbsmeier on the occasion of his 60th birthday. Oslo: 
		Hermes Academic Publication, 331-353.
		
		
		Wang, Bangwei 
		
		王邦維 
		1998. “Xian Linyun Shisi YinXun Xu Jikao”〈謝靈運〈十四音訓敘〉輯考〉 
		Beijing Daxue Baizhouyian Guoxue Wenchui— Yuyan Wenxian Juan《北京大學百年國學文粹-語言文獻卷》 
		Beijing: Beijing University Press, 631-646.
		
		
		Wang, Li 
		
		王力 
		1990.
		
		Wangli Wenji: Hanyu Cihui Shi《王力文集-漢語詞匯史》Jinan: 
		Sandong Jiaoyu Chubanshe.
		
		
		Warder, A. K. 2004.
		
		Indian Buddhism. India: Motilal Banarsidass Publisher. Reprint.
		
		
		Yu, Min, 
		
		俞敏 
		1999. “Houhan Sanguo Fanhan Duiyin Pu”〈後漢三國梵漢對音
		
		
		譜〉
		
		Yu Min Yuyanxue Lunwenji《
		
		
		俞敏語言學論文集》 
		Beijing: Shangwu Yinshuguan, 1-62. It was originally published in
		
		Zhonguo Yuwenxue
		
		
		Lunwenxuan《中國語文學論文選》,
		
		
		日本光生館, 
		1984 
		
		年 
		6 
		
		月版。
		
		
		Zhu, Qingzhi 2003. “The Impact of Buddhism on the Development of Chinese 
		Vocabulary”, Part One, Universal Gate Buddhist Journal, Vol.15, 1-41; 
		Part Two, Vol.16, 1-35.
		
		
		Zurcher, E. 1977. “Late Han vernacular elements in the earliest Buddhist 
		translations”, Journal of the Chinese Language Teachers Association. 
		12-3, 177-203.
		 
		 
		
		1 Con số các dịch giả 
		được đưa ra ở trong Nanjio 1989: Phụ lục II. Theo ấn bản Tripitaka 
		Taisho, có tổng cộng 1.692 bản dịch sang Hán ngữ các kinh văn Ấn Độ. 
		Nhưng có nhiều bản dịch Hán ngữ các kinh Phật hơn được tìm thấy ở Đôn 
		Hoàng và những nơi khác.
		
		2 Wang Li 1990: 
		678-686.
		
		3 Mair 2001: 56-57.
		
		4 Mair 2001: 154.
		
		5 Mair 2004: 154. 
		Điều này được dựa trên Đại từ điển Phật giáo (佛教大辭典) 
		do Mochizuki Shinkō (望月信亨 
		1869-1948) biên soạn.
		
		6 Liang Xiaohong 
		1994: 175.
		
		7 Zheng Jiao 352.
		
		8 Chen Yinke 2001: 
		367-381.
		
		9 Nanqi Shu, Vol. 2, 
		698. 
		招致名僧,講語佛法,造經唄新聲。
		道俗之盛,江左未有也。
		
		10 Yu Min 1999: 43.
		
		11 Jao Tsung-I 1993: 
		79-92.
		
		12 Dīghanikāya ii, 
		154. Những bản dịch Hán ngữ kinh
		
		Đại bát-niết-bàn (Mahāparinirvāṇa Sūtra) của Dīrghāgama (T1, 
		no.1, 26, a28-29),
		
		Mahīśāsaka-vinaya (T22, no.1421, 191, b3-4),
		
		Mahāsāṃghika-vinaya (T22, no.1425, 492, b5-6), 
		
		Dharmaguptaka-vinaya (T22, no. 1428, 967, b12-13), và
		
		Sarvāstivādavinaya (T23, no. 1435, 449, b13-14).
		
		13 Khoroche 2004: 35. 
		Warder 2004: 323-4.
		
		14 Mair 1991: 392.
		
		15 Wang Bangwei 1998: 
		631-646.
		
		16 Sui Shu Vol.4: 
		947.
		
		17 CBETA, T38, no. 
		1765, p. 14, b3-10.
		
		18 CBETA, T49, no. 
		2034, p. 89, c27-p. 90, a6.
		
		19《大般涅槃經》
		卷 
		8〈 
		13 文字品〉:
		「
		善男子,
		有十四音名為字義。」 
		(CBETA, T12, no. 375, p. 653, c24).
		
		20 CBETA, T50, no. 
		2059, p. 367, b13-17.
		
		21 Nanqi Shu Vol.2: 
		698.
		
		22 Kukai 1983: 80.
		
		23 Nan Shi Vol.3: 
		895.
		
		24 Cihai: Yuyan Wenzi, 
		44.
		
		25 CBETA, T55, no. 
		2149, p. 283, b22-28.
		
		26 Mair 1994: 712.
		
		27 Mair 2004: 154.
		
		28 Mair 2001: 30.
		
		29 CBETA, T04, no. 
		210, p. 566, c4-22.
		
		30 Jiang Fan 1983: 
		190.
		
		31 Qian Daxi 1997: 
		488.
		
		32 Mair 2004: 156.
		
		33 Mair 2004: 157.