Tín ngưỡng Dược sư và ý nghĩa thời đại
tin nguong
Thích
Hạnh Định
Tóm
tắt:
Trong quá trình tiếp nhận và phát
triển Phật giáo Bắc truyền, tín ngưỡng Dược Sư vẫn luôn là một nội dung quan trọng
trong giáo lý nhà Phật. Bài viết đã đứng trên các góc độ như triết học phương Tây,
văn hóa học và tôn giáo học để phân tích các nội dụng cốt lõi trong tín ngưỡng Dược
Sư, nhằm đưa ra cách nhìn có hệ thống đối với văn hóa tín ngưỡng này, qua đó có
liên hệ thực tế ở Việt Nam để góp tiếng nói nhằm đưa ra một số gợi ý tích cực để
việc hoằng dương Phật pháp tiếp cận thực tiễn với tinh thần tốt đời – đẹp đạo.
1.
Ý
nghĩa cơ bản của tín ngưỡng Dược Sư
Tín
ngưỡng Dược Sư là một hình thái tín ngưỡng về một cõi Tịnh độ, nó tạo nên ý
nghĩa trung tâm của kinh Dược Sư. Tín
ngưỡng này được hình thành ngay vào thời kỳ đầu khi đạo Phật truyền vào Trung
Quốc. Quyển bốn “Thập nhị nghiên trai kim
thạch quá nhãn tục lục” viết: “Ngày
16 tháng 8 niên hiệu Thái Khang năm thứ 6 (285), Đông tác sứ Trương Dương Kích
sinh được một bé trai, … lưu ở đây, đúc tượng Phật Dược Sư, nguyện cha mẹ đã mất,
quyến thuộc hiện tiền, pháp giới hữu tình, đời đời sinh ra gặp Phật, kiếp kiếp
nghe pháp, đạo tâm kiên cố, cho đến khi thành đạo Bồ-đề.” Ông Lý Ngọc Mân cho rằng
“Đấy là phát hiện sớm nhất ghi lại về tín ngưỡng Dược Sư ở Trung Quốc, nay tượng
này đã không còn tung tích. Bởi thời kỳ Thái Khang kinh Dược Sư vẫn chưa được dịch,
vì thế nội dung tín ngưỡng Dược Sư thế nào? Trước mắt chúng ta vẫn chưa thể suy
đoán” (Lý Ngọc Mân, “Đôn Hoàng Dược Sư kinh biến nghiên cứu”, Đài Loan “Cố
cung học thuật kỳ khán”, quyển 7 số 3, tháng 4 năm 1990). Nếu như điều này là
thật, có thể nói vào thời kỳ kinh Dược Sư
chưa được phiên dịch thì tín ngưỡng Dược Sư đã bắt đầu được lưu hành.
Theo
bản kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai bổn
nguyện công đức của ngài Huyền Trang, thì nội dung cơ bản của tín ngưỡng Dược
Sư bao gồm những phương diện sau:
Thứ nhất, cõi Tịnh độ của Phật Dược sư Lưu Ly Quang Như
lai là một thế giới tịnh lưu ly ở phương Đông. “Phật cáo Mạn Thù Thất Lợi: Đông phương khứ thử quá thập căn già sa đẳng Phật thổ, hữu thế giới
danh Tịnh Lưu Ly, Phật hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như lai, Ứng cúng, Chánh đẳng giác, Minh hạnh viên mãn, Thiện
thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Bạc
già phạm.”
(Đức Phật bảo Mạn Thù Thất Lợi:"Ở phương Đông,
cách đây hơn mười căng già sa đẳng cõi Phật, có thế giới tên là Tịnh Lưu Ly, Đức Phật hiệu là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng cúng, Chính đẳng
giác, Minh hạnh viên mãn, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô Thượng sĩ, Điều ngự trượng
phu, Thiên nhân sư, Phật, Bạc già phạm). Thế giới Tịnh Lưu Ly nằm ở phương Đông có vô lượng công đức trang nghiêm, “Ngã nhược nhất kiếp, nhược nhất kiếp dư, thuyết bất năng tận”. (Nếu
Ta dùng một kiếp hoặc hơn một kiếp, nói chẳng thể hết).
Với tư cách là một thế giới Tịnh độ, thì điều đầu tiên phải
nói đến là tính chất “nhất hướng thanh tịnh” (hoàn
toàn trong sạch), kế đến là “vô hữu nữ nhân, diệc
vô ác thú cập khổ âm thanh” (không có người nữ, cũng không có nẻo ác với
tiếng khổ), chính là nói nơi thế
giới Cực Lạc
này, trong đó không có sự phân biệt và vô số ô nhiễm nơi thế gian, cũng không
có mọi sự thống khổ. Cấu thành thế giới ấy là “Lưu ly vi địa, kim thừng giới đạo, thành, quyết, cung, các, hiên,…giai thất
bảo thành” (Lưu ly làm đất, dây
vàng chăng lối đi, cổng thành, cung điện, lầu gác, mái hiên, lưới giăng... đều do bảy báu tạo thành). Thế giới này không khác gì với thế giới Tây
phương Cực Lạc trang nghiêm, cho nên nói: “Diệc
như Tây phương Cực lạc thế giới, công đức trang nghiêm, đẳng vô sai biệt.”
(Cũng như thế giới Cực Lạc (Sukha-vati)
ở phương Tây, công đức trang nghiêm ngang bằng không có sai khác).
Thứ hai, bên cạnh Đức Phật Dược Sư có hai vị Bồ-tát,
một là Nhật Quang Biến Chiếu, hai là Nguyệt Quang Biến Chiếu, là hai vị Bồ-tát đứng đầu thế giới Đông
phương Tịnh Lưu Ly. Đồng thời giữ gìn Chánh pháp bảo tạng (kho báu Chánh pháp) của
Phật Dược Sư. Chính là nói họ đều nắm vững tinh túy Phật pháp của Phật Dược Sư.
Thứ ba, mười hai đại nguyện của Phật Dược Sư.
Phát đại nguyện là một trong những thể hiện quan trọng của Phật giáo Đại thừa, như Tứ hoằng thệ nguyện của Phật, Bồ-tát
phát nguyện cứu độ tất cả chúng sanh, tức “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền
não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô tận
thệ nguyện tri, vô thượng bồ đề thệ nguyện chứng”. Trong các loại tín ngưỡng Tịnh độ, phát nguyện cũng là
một bộ phận cấu thành quan trọng. Ví dụ như trong tín ngưỡng Tịnh độ cõi Phật
A-di-đà có phát ra 48 lời nguyện, còn
ở tín ngưỡng Dược Sư tại cõi Đông phương thì có 12 đại nguyện:
“Mạn Thù Thất Lợi, bỉ Phật Thế tôn Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai, bổn hành Bồ-tát đạo
thời phát thập nhị đại nguyện lệnh chư hữu
tình sở cầu giai đắc”. (Này Mạn Thù Thất Lợi!
Đức Phật Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ấy
lúc tu hành đạo Bồ-tát phát mười hai nguyện
lớn khiến cho các hữu tình đều được sự mong cầu).
“Mười
hai đại nguyện này lần lượt là: (xem thêm 12 lời nguyện của phật Dược Sư)
Mười hai lời nguyện này, có thể phân thành 3 loại lớn:
Thứ nhất, liên quan đến nguyện vọng được khỏe mạnh, thân tướng trang
nghiêm; tất cả chúng sanh đều có tướng hảo, thân thể thanh tịnh, đoan chính
không có bệnh khổ.
Thứ hai, liên quan đến việc thỏa mãn dục vọng (sự ham muốn), như được diệu y (quần áo đẹp tốt), các thứ trang sức trang nghiêm.
Thứ ba, liên quan đến nguyện vọng đạt được sự giải thoát tinh thần, như đắc
vô thượng Bồ-đề, không đọa ác thú (không rơi vào nẻo ác), tu Đại thừa, cụ đại trí huệ (đủ đại trí
tuệ).
Tổng hợp lại mà nói, mười hai nguyện này cơ bản hàm chứa tất cả sự theo đuổi
mọi dục vọng từ sắc thực đến
tinh thần của con người, tức dục vọng (sự
ham muốn) về vật chất và tinh thần; có thể nói mọi loại dục vọng (ham muốn) và
nhu cầu đều được thỏa mãn.
2.
Tính
siêu việt của tín ngưỡng Dược Sư
Siêu việt là một khái niệm
được sử dụng khá rộng rải. Khi nó được dùng trong lĩnh vực tôn giáo và triết học
thì được dịch từ tiếng Anh transcend.
Siêu việt không chỉ là từ dùng riêng cho tôn giáo, nó có liên quan trực tiếp với
khái niệm siêu nghiệm, tiên nghiệm trong triết học: chúng đều được dịch từ tiếng Anh là transcend và một số từ phái sinh của transcend. Do ngữ cảnh sử dụng không giống
nhau mà trong tôn giáo dịch là siêu việt, còn triết học thì dịch là siêu nghiệm,
tiên nghiệm. Từ góc độ triết học mà nói, siêu việt chính là siêu việt kinh nghiệm.
Trong chủ nghĩa lý tính của tâm lý học nó đều được sử dụng với tầng nghĩa này.
Vĩnh hằng và bất hủ, là siêu việt có giới
hạn, là một loại theo đuổi hiện thực siêu việt, cũng là lý tưởng chung cho toàn
nhân loại. Trong phạm vi thế giới, vừa có sự theo đuổi sự bất hủ của linh hồn,
vừa có xu hướng truy cầu sự vĩnh hằng của nhục thể. Từ góc độ bất hủ của linh hồn
mà nói, triết học gia cổ đại người Hy Lạp là Plato đã sử dụng luận chứng bất hữu
của linh hồn để trình bày quan niệm vĩnh hằng lưu hành ở Tây phương. Đến Kant
cũng phân sự bất hữu của linh hồn thành một trong ba giả thiết (sự bất hủ của
linh hồn, sự tự do của ý chí, sự tồn tại của Thượng Đế). Tư tưởng Nho gia
thì chủ trương theo đuổi 3 điều bất hủ nơi một đời người: lập đức, lập công, và
lập ngôn. Đạo giáo thì chủ trương biến nhục thể thành tiên, hy vọng có được
thân thể vĩnh hằng. Những điều như thế chính là sự siêu việt và phê phán hiện
thực.
Còn
trong Phật giáo, các loại tín ngưỡng về cõi Tịnh độ cũng là một thể hiện về
tính siêu việt. Đặc điểm của tín ngưỡng Tịnh độ nằm ở sự tồn tại của uế độ, cõi
uế độ chính là thế gian, nơi mà chúng ta đang sinh sống. Nói chung, do nhằm vào
những cảm giác bất mãn của ta ở cõi này mà hình thành nên tín ngưỡng và mong muốn
đến một không gian Tịnh độ. Điều này có nghĩa là cõi Tịnh độ kỳ thực là một loại
phê phán và phủ định của yếu tố tinh thần; loại phê phán và phủ định này hình
thành nên những cõi Tịnh độ không giống nhau. Tín ngưỡng Dược Sư được xem như
là một hình thức của tín ngưỡng Tịnh độ, cũng như vậy nó hàm chứa sự phủ định
và phê phán về mặt tinh thần. Loại phê phán và phủ định này chính là lấy việc
không thỏa mãn về tâm linh và thân thể làm nền tảng. Việc già, bệnh, chết của
nhục thể và tham, sân, si của tâm linh đã cố định cái khổ của con người trong
cuộc sống hiện thực.
Tín
ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu Ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự
với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc phát đại nguyện lực để làm xuất phát điểm
giải quyết mọi đau khổ ở hiện thực, lấy việc giải cứu tất cả chúng sanh làm mục
tiêu cuối cùng, thể hiện được tấm lòng bi mẫn, đại từ đại bi của Phật giáo.
Phật Dược Sư phát ra đại nguyện
to lớn, nghĩa là nguyện lực mà không phải người thường có thể phát ra được, là
nguyện lực mang tính siêu việt. Nói chung, nguyện vọng luôn gắn liền với lý tưởng
và hy vọng tốt đẹp của con người, và cũng có thể nói là bản thân lời nguyện đó
mang tính siêu việt. Nguyện vọng của con người thông thường thì xây dựng trên
góc độ của cá nhân người đó, dựa trên lập trường hữu hạn của con người để hướng
đến điều vô hạn. Còn Phật Dược Sư thì lấy cảnh giới của người đã giác ngộ mà hồi
hướng về mọi chúng sanh tồn tại trong hiện thực, lấy sự vô hạn để dẫn dắt cái hữu
hạn. Vì thế mà nguyện lực có khác nhau về độ sâu và rộng. Nếu như nói nguyện vọng
của nhân loại là hữu hạn, thế thì đại nguyện của Phật Dược Sư là không có giới
hạn; mười hai lời nguyện không chỉ hạn chế ở chúng sanh mà thôi.
Từ
góc độ của người được cứu vớt mà nói, tính siêu việt của tín ngưỡng Dược Sư được
triển khai cả ở hiện tại lẫn tương lai. Từ hy vọng vào tương lai mà nói, thế giới
Tịnh Lưu Ly ở phương Đông được xây dựng bằng
thất bảo trở thành mục tiêu của tín ngưỡng và tu hành, là nơi mà chúng
sanh thực hiện lý tưởng sau cùng muốn đạt đến. Từ tính hiện thực mà nói,
tín ngưỡng Dược Sư bao hàm quá trình thực hiện nguyện vọng, tức là trước khi
chúng sanh vãng sinh về cõi Tịnh
độ phương Đông cần thực hiện nguyện vọng ở kiếp này, cõi này. Trong kinh nói:
“Ta cùng quyến thuộc (mười hai Dược Xoa) hộ vệ cho ngươi giải thoát mọi khổ nạn,
tất cả mong cầu đều được thỏa mãn.” Tức nói, Phật Dược sư và mười hai vị Dược Xoa
sẽ tùy thời xuất hiện cứu độ chúng sanh, thỏa mãn mọi nguyện cầu của chúng
sanh.
Từ tính chất mà nói, tính siêu việt cấu thành nên nền tảng
của tín ngưỡng Dược Sư. Con người được xem là sản phẩm của nhân duyên, là một sự
tồn tại hữu hạn, không tránh khỏi tử vong, sinh tử đại hạn là nguy cơ luôn tồn
tại mà con người phải đối mặt, nó làm sản sinh ra sự sợ hãi và lo lắng. Triết học
gia người Mỹ là Tillich từng nói: “Không tồn tại sự khẳng định tự ngã về mặt thực
thể, vận mệnh là tương đối, tử vong là tuyệt đối, không tồn tại sự khẳng định tự
ngã về yếu tố tinh thần, cảm giác trống rỗng là tương đối, vô ý nghĩa là tuyệt
đối.”. Đời
người có 3 điều nguy hiểm, chính là cảm giác lo lắng, cảm giác trống rổng, và cảm
giác tội ác. Vì thế ông cho rằng, sự lo lắng về cái chết là một đường thẳng
vĩnh hằng, sự lo lắng về vận mệnh là một ảnh hưởng trên đường thẳng đó. Phật
giáo đối với những phán đoán về cuộc đời có tính căn bản. Bản chất đời người là
sự tụ hội các duyên, duyên tụ thì thành, vì thế đời người là không bản chất và
không tự do. Bản thân con người đối diện với sinh lão bệnh tử là sự thống khổ về
mặt cơ thể vật chất (sinh lý), cũng có những nổi khổ về tinh thần như cầu bất đắc (mong muốn không
được thỏa mãn), ái biệt ly (xa
lìa chúng sinh với vật mà ta thương mến), oán tắng hội (phải gặp chúng sinh và vật mà ta oán ghét).
Loại khổ này còn đến từ việc ngũ ấm hình thành nên cái ta giả tạm này. Vì thế
chúng ta cần vượt qua cái khổ để đi đến cái lạc, ly khổ đắc lạc, hướng đến vĩnh
hằng. Tín ngưỡng Dược Sư bao hàm đặc điểm trị bệnh, trừ tội, diên thọ (kéo dài tuổi thọ) đã
thành tựu nên tính siêu việt vượt ra khỏi cái hữu hạn tồn tại của tự thân con
người, chính là siêu việt trên phương diện vật chất và sinh lý, tinh thần.
3.
Ý
nghĩa sinh thái tiềm ẩn trong tín ngưỡng Dược Sư
Từ góc
độ sinh thái học và Phật giáo mà nói, tín ngưỡng Dược sư bao gồm các phương diện
sau:
Thứ nhất,
sự bảo vệ thân thể tùy bệnh mà cho thuốc. Địa cầu mà con người sinh sống là một
môi trường sinh thái rộng lớn do cộng nghiệp của chúng ta tạo thành. Thân người
là một hệ sinh thái nhỏ bé trong hệ thống sinh thái đó. Thân người có muôn vàn
bệnh tật, ở ý nghĩa nào đó nó là sự thể hiện của sự mất cần bằng sinh thái
trong cơ thể người. Trong Phật giáo, lý tưởng cứu khổ cứu nạn, giải cứu chúng
sanh bao gồm cả việc đối trị bệnh tật trên thân của chúng sanh. Đức Phật thường được xưng là Đại Dược Vương, Đại
Y Tôn, như “Phật bổn hạnh tập kinh” có nói: “Nơi này xuất hiện đại y tôn, khéo
trị tất cả bệnh của chúng sinh, nếu có người gặp phải khổ sinh lão bệnh tử, thì
sẽ chữa trị giúp bình phục.” Trong các khổ nạn của chúng
sanh mà Phật nói, sinh, lão, bệnh, đều là những đau đớn trên thân. Vì thế giải
trừ sự đau đớn trên thân thể chính là bảo vệ môi trường sinh thái trong phạm vi
hẹp, cũng là nghĩa lý trong Phật giáo, cũng là ý nghĩa của tín ngưỡng Dược sư.
Về việc giải trừ những bệnh khổ nơi thân, trong kinh Dược Sư có nói rõ:
“Đại Đức!Nhược hữu bệnh nhân dục thoát bệnh khổ,đương vị
kỳ nhân,thất nhật thất dạ,thọ trì
bát phần trai giới,ưng dĩ ẩm thực cập dư tư cụ,tùy lực sở biện,cúng dường Bí-sô Tăng;trú dạ
lục thời,lễ bái cúng dường bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai;độc tụng thử kinh tứ thập cửu biến;nhiên tứ thập cửu đăng tạo bỉ Như Lai hình tượng thất khu, nhất nhất tượng
tiền các trí thất đăng, nhất nhất đăng lượng Đại như xa luân, nãi chí tứ thập cửu
nhật,quang minh bất tuyệt tạo ngũ sắc thải phan, trường
tứ thập cửu trách thủ,ưng phóng tạp loại chúng sanh chí tứ thập cửu;
khả đắc quá độ nguy ách chi nạn,bất vị chư hoạnh ác quỷ sở trì.” (Ðại đức! Nếu có người bệnh muốn khỏi bệnh khổ,
nên vì người ấy, bảy ngày bảy đêm thọ trì tám phần trai giới. Nên đem thức ăn uống với vật dụng khác, tuỳ
theo sức mà bày biện, cúng dường Tỳ-kheo Tăng, ngày đêm sáu thời lễ bái cúng dường
Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai ấy, đọc tụng kinh này 49 biến, thắp 49
ngọn đèn, làm bảy pho hình tượng của Đức Như Lai ấy, trước mỗi một tượng đều để
bảy ngọn đèn, mỗi một ngọn đèn lớn như bánh xe, cho đến 49 ngày, ánh sáng chẳng
dứt, làm cành phan lụa ngũ sắc dài 49 gang tay, nên thả đủ loại chúng sinh đến
49 loài thì có thể được vượt qua nạn nguy ách, chẳng bị các tai nạn, quỷ ác bắt
giữ). Đoạn
kinh này cho thấy rằng trong tín ngưỡng Dược Sư việc giải trừ bệnh trên thân cần
thực hiện các bước sau: Đầu tiên trong bảy ngày bảy đêm cần thọ trì Bát quan
trai giới; sau đó thì dùng thức ăn nước uống cúng dường Tăng chúng; kế đến là
ngày đêm sáu thời lễ bái Phật Dược Sư; và tiếp tục tụng kinh này bốn mươi chín
biến. Sau đó tôn tạo bảy pho tượng Phật, trước mỗi một pho tượng đặt bảy ngọn
đèn, thời gian là 49 ngày; và cuối cùng là tạo cờ ngũ sắc bề dài 49 gang tay,
phóng sinh 49 loài vật. Trong quá trình này, bệnh của thân thể sẽ được giải trừ
theo sự lễ bái cúng dường. Phương thức tùy bệnh cho thuốc thể hiện vi tế trong
khuôn mẫu ấy.
Cùng với việc thân người chịu khổ do bệnh tật còn có các loại hoạnh họa tạo
nên mối nguy hiểm cho sinh mạng. Trong kinh có nói đến “cửu hoạnh” (9 cách chết
đột ngột).
Thứ hai, bảo hộ
sinh thái bằng cách tịnh hóa và thăng hoa tâm linh. Từ cách nhìn Phật giáo, con
người là do ngũ ấm tạo thành, tức có sắc thân mang tính nhục thể, cũng có thọ
tưởng hành thức cấu tạo nên tình cảm, ý chí, ý thức. Sắc thân không điều hòa, bệnh
tật theo thân. Còn sự ô trược của tâm linh, mất cân bằng trong tình cảm, tham,
sân hoành hành, vô minh chướng đạo, ái dục lôi kéo là những bệnh tật về mặt
tinh thần. Nó là chướng ngại cần được hóa giải. Thân tâm nhất thể, khổ nơi thân
tất ảnh hưởng đến tâm linh, đau khổ ở tâm linh cũng khiến thân mang bệnh tật.
Vì thế tịnh hóa tâm linh, thăng hoa tinh thần là tiền đề giúp thân tâm cân bằng,
là nội dung quan trọng trong việc giữ gìn sinh thái tâm linh. Phật bổn hạnh
tập kinh nói: “Thử xứ kim xuất
đại dược vương, đương trị chúng sanh phiền não độc, nhược hữu bi ai tiễn sở xạ,
thử tượng kim tất năng bạt trừ.” (Nay nơi xứ này, xuất hiện Đại Dược Vương sẽ chữa trị độc
phiền não của chúng sinh. Nếu có bị mũi tên buồn thương bắn trúng thì tượng này, nay đều hay nhổ bứt trừ bỏ). Đối
trị độc hại phiền não tham, sân, si, bạt trừ tên tham ái, mới có thể bảo vệ được
tâm linh.
Quan niệm bảo vệ tâm linh, đầu tiên là do Pháp sư Thánh Nghiêm ở Pháp Cổ
Sơn Đài Loan đưa ra. Pháp sư cho rằng: “Sự ô nhiễm hoàn cảnh vật chất không
tách rời hành vi của con người, mà hành vi của con người không tách rời với tâm
linh. Nếu như mọi người có tâm linh thuần khiết thì hoàn cảnh vật chất sẽ không
bị ô nhiễm”. Vì thế, ông cho rằng trong kinh điển Phật giáo có rất nhiều cách
nói lấy yếu tố tâm linh làm trung tâm. Lý luận sâu xa của việc bảo vệ tâm linh
được thể hiện trong kinh Duy
Ma: “Tùy kỳ tâm tịnh tắc
Phật độ tịnh”; trong kinh
Hoa nghiêm: “Tâm Phật cập
chúng sanh, thị tam vô sai biệt” (Tâm, Phật với chúng sinh, ba điều
này không có sai khác), “Tâm như
công họa sư, họa chủng chủng ngũ ấm” (Tâm như người thợ vẽ, vẽ mọi loại
5 Ấm), “Ứng quan pháp giới tính, nhất
thiết duy tâm tạo” (Nên quán pháp giới tính, tất cả chỉ do tâm tạo ra). Đương nhiên, tuy Pháp
sư Thánh Nghiêm có nhắc đến tác dụng ngoại hóa của tâm thanh tịnh, nhưng nội
dung trọng tâm của việc bảo vệ tâm linh là khiến tâm được hoàn thiện và thăng
hoa. Vì thế, ông đặc biệt nhấn mạnh yếu tố lành mạnh của tâm lý. Ông nói: “Bảo
vệ tâm linh kỳ thực rất đơn giản, chính là làm vệ sinh tâm mình, làm cho tâm được
khỏe mạnh. Làm sao để tâm ta được thanh tịnh, an định, tiến tới nữa là làm ảnh
hưởng đến cuộc sống của người khác giúp họ được an vui, đó chính là mục đích của
việc bảo vệ tâm linh”.
Trong tín ngưỡng Dược Sư cũng có sự miêu tả về hiện trạng tinh thần
và tâm linh của con người, ví dụ như có người có sự tham luyến hết sức vào tiền
tài: “Đa tụ tài bảo, cần gia thủ hộ; kiến
khởi giả lai, kỳ tâm bất hỷ, thiết bất hoạch dĩ nhi hành thí thời, như cắt thân
nhục, thâm sinh khổ tiếc”. (Phần lớn gom chứa tài bảo, siêng năng bảo
vệ. Nhìn thấy người đến xin, tâm họ chẳng vui. Nếu chẳng đặng đừng phải đem cho
thời như cắt thịt trên thân, sinh lòng đau tiếc.) Có người lại keo kiệt,
tích góp tiền tài, ngay cả bản thân còn không dám thọ dụng huống hồ là đến cha
mẹ, vợ con, nô tỳ. ” Lại
có người sinh tâm ngạo mạn “Tuy đa văn
nhi tăng thượng mạng, do tăng thượng mạn cái tế tâm cố, tự thị phi tha, hiềm
báng Chánh pháp, vi ma bạn đảng.” (Tuy đa văn nhưng tăng thượng mạn,
do tăng thượng mạn che lấp tâm nên tự cho mình đúng còn kẻ khác là
sai, nghi ngờ chê bai Chánh pháp, làm bạn đảng của ma). Loại trạng thái tâm
linh này còn có cái bị tài sắc bao trùm, vì ngạo mạn thiên kiến đã che lấp nên
không sinh chánh kiến, ngu si vô minh, không chỉ đời này tâm thái mất cân bằng.
Kinh nói: “Nhược chư
hữu tình, xan
tham tật đố, tự tán hủy tha, đương đọa tam ác thú trung,
vô lượng thiên tuế thọ chư kịch khổ,
thọ kịch khổ dĩ, tòng bỉ mạng chung, lai
sanh nhân
gian, tác ngưu, mã, đà, lư, hằng bị tiên thát,
cơ khát bức
não; hựu thường phụ trọng,
tùy lộ nhi hành. Hoặc đắc vi nhân,
sanh cư hạ tiện, tác nhân nô tỳ,
thọ tha khu dịch,
hằng bất tự tại”. (Nếu các hữu tình tham lam, keo kiệt,
ganh ghét, chỉ khen mình chê người sẽ đọa vào trong ba nẻo ác, vô lượng ngàn
năm chịu các nỗi khổ đau. Chịu nhiều đau khổ xong, từ nơi đó chết đi, sinh vào nhân
gian làm bò, ngựa, lạc đà, lừa... luôn bị roi gậy đánh đập, đói khát dày vò, lại
thường phải chở nặng tuỳ theo đường mà đi. Hoặc được làm người, thì sinh ở chốn
hèn kém, làm đày tớ cho người, chịu sự sai khiến của kẻ khác, luôn luôn chẳng
được tự tại.) Rất rõ ràng, nếu như tâm này sinh trưởng thì thiện hành hoang
vô, không chỉ tự do tâm linh, bảo vệ tâm linh không thực hiện được, ngay cả nhục
thể cũng bị khổ. Vì thế Phật Dược Sư muốn chúng sanh ý thức được vô minh phiền
não, nghe danh Phật Dược Sư “Tiện xả ác
hành, tu chư thiện pháp, bất đọa ác thú, thiết hữu bất năng xá chư ác hành, tu
hành thiện pháp, đọa ác thú giả, dĩ bỉ như lai bổn nguyện uy lực, linh kì hiện
tiền tạm văn danh hiệu, tòng bỉ mệnh chung hoàn sinh nhân thú, đắc chứng kiến
tinh tấn, thiện điều ý lạc, tiện năng xả gia thú ư phi gia, như lai pháp trung,
thọ trì học xứ, vô hữu hủy phạm; chánh kiến đa văn, giải thậm thâm nghĩa, ly
tăng thượng mạn, bất báng chánh pháp, bất vi ma bạn, tiệm thứ tu hành chư Bồ-tát
hạnh, tốc đắc viên mãn.” (Liền bỏ hạnh ác, tu các pháp lành, chẳng bị
đoạ ở nẻo ác. Giả sử có kẻ chẳng buông bỏ các hạnh ác, tu hành pháp lành, bị đoạ
ở nẻo ác, do uy lực bản nguyện của Đức Như Lai ấy, khiến kẻ đó hiện tiền tạm
nghe danh hiệu thì từ mạng ấy chết đi, sinh trở lại cõi người, được chánh
kiến tinh tiến, khéo điều ý ưa thích, liền hay bỏ nhà, chí hướng ở chỗ
không nhà, trong pháp của Đức Như Lai, thọ trì chỗ học không có huỷ phạm, chánh
kiến , đa văn, hiểu nghĩa thâm sâu, lìa tăng thượng mạn, chẳng chê Chánh pháp,
chẳng làm bạn của ma, dần dần lần lượt tu hành các hạnh của Bồ-tát mau được
viên mãn). Cũng có thể “Dĩ Phật thần
lực, chúng khổ giải thoát, chư căn thông lợi, trí tuệ đa văn, hằng cầu thắng
pháp, vĩnh đọa ma quyển, phá vô minh noãn, kiệt phiền não hà, giải thoát nhất
thiết sanh, lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não.” (Dùng thần lực của Đức Phật
mà thoát khỏi mọi khổ, các căn thông lợi, trí tuệ đa văn, luôn cầu thắng pháp,
thường gặp bạn lành, chặt đứt hẳn lưới ma, đập nát vỏ vô minh, khô cạn sông phiền
não, thoát khỏi tất cả sinh, già, bệnh, chết, lo buồn, khổ não.)
Thân tâm hợp nhất cấu thành nên chỉnh thể nhân loại, nhân loại và tự nhiên
cấu thành nên việc bảo vệ sinh thái. Các loại thiên tai trong giới tự nhiên,
cho dù là mãnh liệt đến đâu, đến mức trời long đất lở cũng sẽ còn một bộ phận
con người với tư cách là người tham gia. Nếu không có con người thì không có
cái gọi là bảo vệ môi trường. Vì thế, thân, tâm, tự nhiên - ba điều này cần hài
hòa, hợp ba làm một, thực hiện nhân thiên hợp nhất, đạt được mục tiêu cân bằng
tự nhiên, hài hòa tâm linh, thân thể khỏe mạnh, cũng chính là giá trị văn hóa
sinh thái của tín ngưỡng Dược Sư.
4.
Khả
năng lan tỏa liên văn hóa của tín ngưỡng Dược Sư
Samuel
Phillips Huntington trong tác phẩm “Sự đột phá của nền văn minh và sự xây dựng
lại trật tự thế giới” của mình có nói: Tôn giáo là một đặc trưng chủ yếu trong
việc giới định văn minh. Giống như Christopher Dawson từng nói: “Một tôn giáo
vĩ đại là nền tảng để xây dựng một nền văn minh vĩ đại.” Trong năm tôn giáo
mang tính quốc tế mà Webber đề ra, có bốn tôn giáo là Cơ Đốc giáo, Hồi giáo, Ấn
Độ giáo và Nho giáo là kết hợp cùng với nền văn hóa. Tôn giáo thứ năm là Phật
giáo thì có khác. Tại sao lại như vậy? Giống Hồi giáo và Cơ Đốc, Phật giáo sớm
đã phân thành hai chi. Từ thế kỷ thứ nhất, Đại thừa Phật giáo truyền đến Trung
Quốc, sau đó đến Triều Tiên, Việt Nam, Nhật Bản. Trong các xã hội này, con người
với những phương thức khác nhau đã khiến Phật giáo thích ứng và hấp thu vào nên
văn hóa bản địa, đồng thời cũng áp chế nó. Vì thế, tuy Phật giáo vẫn là một bộ
phận cấu thành quan trọng nên nền văn hóa của những xã hội này, nhưng những xã
hội này không cho rằng bản thân mình là một bộ phận của nền văn minh Phật giáo.
Có thể nói rằng văn minh Phật giáo Nam truyền thật sự tồn tại ở Sri Lanca, Miến
Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia. Ngoài ra, các vùng Tây Tạng, Mông Cổ và Bhutan
trong lịch sử đã từng chấp nhận Phật giáo Đại thừa và sau đó chuyển thành Phật
giáo Mật tông. Những xã hội này cấu thành nên khu vực thứ hai của nền văn minh
Phật giáo. Do đó, trên thực tế Phật giáo ở Ấn Độ đã tuyệt chủng và nó thích ứng
và được tiếp nhận khi truyền đến Trung Quốc, Nhật bản, có nghĩa là nó tuy là một
tôn giáo chủ yếu, nhưng vẫn không phải là nền tảng của một nền văn minh chủ yếu.
Thật
giống như Huntington đã nói, Phật giáo không phải là nền tảng của nền văn minh
chủ yếu, nhưng nó là yếu tố hình thành nên các loại văn minh. Từ khi Phật giáo
truyền bá từ nơi sản sinh ra nó là đất nước Ấn Độ đến Đông Nam Á và Nam Á, nó
đã hình thành nên cho bản thân mình ý nghĩa văn hóa xuyên lãnh thổ và chủng tộc,
trở thành một tôn giáo có tính chất quốc tế. Pháp môn Dược Sư với hình thức biểu
hiện là tín ngưỡng Phật giáo trong quá trình truyền bá mang đặc điểm văn hóa vượt
ra ngoài phạm vi lãnh thổ. Ở Trung Quốc, các vùng Nam Bắc đều tồn tại tín ngưỡng
và sùng bái Phật Dược Sư. Ở Nhật Bản và Hàn Quốc cũng có những di tích và sự
phát triển tín ngưỡng Dược Sư. Theo nghiên cứu của Lam Kiết Phú, ở Nhật Bản ngoài
Thiên Thai tông, Chân Ngôn tông có sự giải thích và hoằng dương kinh Dược Sư, pháp môn Dược Sư được thịnh
hành trong phần đông dân chúng: “Trong dân gian cũng lưu hành không ít phong tục
tu trì pháp môn Dược Sư để trị bệnh, ví dụ như mỗi năm vào ngày mùng 8 tháng Giêng,
mùng 8 tháng 4, mùng 8 tháng 12 đều tiến hành pháp hội giảng kinh Dược Sư, với mục đích tín ngưỡng là trị
bệnh và cầu diên thọ.” Ngoài ra, đặc biệt hơn cả là ở Nhật Bản, có giáo đoàn
chuyên thờ phụng Phật Dược Sư, tức “Giáo đoàn Dược Sư nhất” (Ichibata), giáo
đoàn này thành lập năm 1951, lấy chùa Ichibata làm nơi hoạt động chính, kết hợp
tư tưởng Thiền tông, ra sức hoằng dương quan niệm Phật Dược Sư hiện thế cứu độ.
Tín đồ của giáo đoàn này chủ yếu tập trung ở khu vực phía Tây Nhật Bản. Vào năm
1990, tín đồ có khoảng 26 vạn người, tự viện thuộc giáo đoàn có 28; kinh điển chính
là “Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai bổn nguyện
công đức kinh”. Ở Hàn Quốc, tín ngưỡng Dược Sư cũng thịnh hành như thế. Phần
lớn chùa đều có điện Dược Sư. Khu vực Deagu có một ngôi cổ sát ngàn năm từ thời
Tân La, đó là Đồng Hoa tự thuộc tông Tào Khê, trong đó có thờ Phật Dược Sư tư
thế đứng. Ngoài ra, trong Phật giáo Tạng truyền, Phật giáo Nam truyền đều có sự
tồn tại của tín ngưỡng Dược Sư.
Từ
góc độ quan hệ quốc tế, tôn giáo là phương thức giao lưu văn hóa quốc tế với
nhau, cũng là con đường quan trọng để văn hóa các nước, các dân tộc có chung những
hình thái đặc điểm xích lại gần nhau. Trải qua thời gian dài hình thành và phát
triển, Phật giáo đã hòa vào nền văn hóa Đạo giáo, văn hóa Nho giáo. Văn hóa Việt
Nam bên cạnh bản sắc bản địa cũng phần nào chịu sự ảnh hưởng bởi văn hóa Trung
Quốc, và văn hóa Phật giáo Bắc truyền cũng phần nào ảnh hưởng sâu sắc đến tập tục
lễ nghi, văn học nghệ thuật, quan niệm triết học, tín ngưỡng tôn giáo của Việt
Nam. Công cuộc kiến thiết đất nước hiện nay đã có nhiều tác động đến đời sống
tâm linh tín ngưỡng của người dân theo chiều hướng tích cực, nhưng qua đó lối sống
thực dụng và chuộng vật chất cũng góp phần ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tâm
linh của con người. Đối diện trước thực trạng này, Phật giáo cần áp dụng nhiều
hình thức và phương pháp tích cực truyền bá tín ngưỡng, hoằng dương văn hóa Phật
giáo. Và trong muôn vàn hình thức đó, văn hóa và tín ngưỡng Dược Sư cũng là một
cách tuyên truyền quan trọng. Có thể xem tín ngưỡng Dược Sư là một nơi khơi nguồn
tín ngưỡng, một tư lương cho tinh thần, giúp con người đương đại xóa bỏ cảm
giác trống rỗng, cảm giác vô ý nghĩa.
Tóm
lại, pháp môn Dược Sư triển khai tín ngưỡng Tịnh độ bao gồm sự mong ước đối với
thế giới Tịnh độ, cũng bao hàm cả mười hai đại nguyện nhằm thỏa mãn mong muốn của
chúng sanh. Xem xét về tín ngưỡng Dược Sư, chúng ta có thể nhìn thấy trong đó
có tính siêu việt. Tính siêu việt này nhằm thỏa mãn mong cầu vượt ra khỏi hiện
thực khổ đau và bệnh khổ, hướng đến cõi Cực Lạc. Trong tín ngưỡng Dược Sư bao
hàm tư tưởng bảo vệ sinh thái, đối với hiện thực ngày nay có tác dụng gợi mở.
Chúng ta đối diện không chỉ với việc ô nhiễm môi trường, sương mù chứa độc tố, mà
đáng sợ hơn là sự sa mạc hóa tâm linh và đạo đức. Vì thế, tín ngưỡng Dược Sư vừa
phải chữa trị những vết thương của thế giới tự nhiên, càng phải cứu rỗi bệnh khổ
trong tâm linh. Từ góc độ văn hóa vượt ra ngoài phạm vi lãnh thổ mà nói, Phật
giáo trong tương lai nên gánh thêm càng nhiều trọng trách. Mục tiêu là thực hiện
việc truyền bá đối ngoại thông qua các hình thức tín ngưỡng Phật giáo. Tín ngưỡng
Dược Sư được xem làm một bộ phận quan trọng hình thành nên tín ngưỡng Phật
giáo, nó đối với việc khắc phục các chướng ngại tâm lý mà con người phải đối mặt
có tác dụng quan trọng, trừ đi cảm giác trống rỗng, cảm giác hư vô và cảm giác
không tồn tại của con người. Từ phương diện lớn hơn mà nói, có thể cung cấp một
loại lựa chọn tín ngưỡng mới; từ phương diện nhỏ mà nói có thể dùng nó làm công
cụ điều trị tâm lý.
Bảo La, Đế
Lợi Hy: “Tồn
tại đích dũng khí”, Nxb
Nhân Dân Quý Châu, trang 41, 2009.
Đại Chánh tạng, T14, P407c.