Niệm Phật muốn vãng sinh
niem phat
Niệm
Phật muốn vãng sinh
Chân Hiền Tâm
Gần đây, việc hộ niệm cho
người chết thịnh hành ở một số đạo tràng Tịnh độ. Hộ niệm như thế
là việc tốt cho cả người sống lẫn người chết, là việc nên làm. Có
điều, hộ niệm là một chuyện mà vãng sinh được không là chuyện khác.
Bởi việc vãng sinh lệ thuộc vào nhiều yếu tố mà hộ niệm dù tốt
bao nhiêu cũng chỉ là một trợ duyên, chưa phải là chánh nhân để việc
vãng sinh xảy ra. Trong khi quả muốn thành tựu thì nhân và duyên phải
đầy đủ, quả mới tựu thành.
Vọng tưởng là thứ quyết
định có thân căn và cảnh giới của một chúng hữu tình
Vọng
tưởng, là muốn nói đến phần hiện hành của các chủng tử trong tạng
thức. Luận Đại thừa khởi tín
gọi nó là “Thức tương tục”. Nó biểu hiện cho cái gọi là “Phần đoạn
sinh tử” của chúng sinh, là nhân đưa đến sáu đường Người, Trời, Atula,
Ngạ qủy v.v…
Luận
Đại thừa khởi tín nói: “Tất cả các pháp chỉ nương
nơi vọng niệm mà có sai biệt. Nếu lìa tâm niệm thì không có tất cả tướng cảnh
giới”. Ngài Hiền Thủ, Tổ thứ ba tông
Hoa nghiêm giải thích: “Tướng sai biệt có, là do biến kế vọng tình của ông
tạo ra, xưa nay không thật. Như y nơi mắt bệnh mà vọng thấy hoa đốm trong hư
không, nên nói đều “nương nơi vọng niệm mà có sai biệt”.
Lại có người hỏi: “Vì sao lại biết nương nơi
vọng niệm mà sinh?”.
Tổ giải thích: “Vì khi các thánh nhân lìa vọng niệm thì không có cảnh giới này. Đã
không có cảnh giới này thì biết cảnh giới này từ vọng sinh”.
Đó là chỗ thực chứng của người xưa, giúp ta
biết thân căn và cảnh giới mà một chúng hữu tình đang thọ nhận là
do chính tâm tưởng của chúng hữu tình ấy hiện ra. Như ngủ rồi mộng, như
mắt bệnh mà thấy có hoa đốm trong hư không. Tức, không tâm niệm thì
không có thân căn và cảnh giới. Có tâm niệm thì có thân căn và cảnh
giới. Tùy tâm niệm của chúng sinh mà có cảnh giới sáu đường. Lực
của tâm bất thiện mạnh thì hiện thân căn và cảnh giới khổ. Lực của
tâm thiện mạnh thì hiện thân căn và cảnh giới vui. Như thân bệnh tâm lo
thì mộng thấy cảnh mệt nhọc lao khổ. Thân khỏe mạnh tâm thư thái thì
mộng thấy cảnh an vui v.v…
Tùy tâm niệm mà chúng sinh có thân căn và
hoàn cảnh hoặc khổ hoặc vui, nên Phật Tổ nói về ba nghiệp và dạy
người giữ giới, tu thiện để chúng ta có được thân căn an hòa và cảnh
giới an vui. Dù an vui, nhưng một khi còn tâm niệm thì vẫn còn sinh
tử.
Nói niệm Phật nhất tâm bất loạn được vãng
sinh về thế giới A Di Đà, mà không nói dứt sinh tử như chư vị La-hán,
là y cứ vào việc còn niệm hay không còn niệm này. La-hán đã dứt được
mọi sinh diệt hiện hành. Sinh diệt hiện hành mất thì thân căn cảnh
giới mất, không còn sinh không còn tử, nên nói dứt sinh tử. Niệm
Phật, dù nhất tâm bất loạn vẫn còn một niệm danh hiệu Phật hoặc
hình tướng Phật v.v... nên nói vãng sinh. Nói vãng sinh hay dứt sinh
tử, là y cứ vào việc niệm còn hay mất mà nói.
Thiền tông, đích đến là ngộ nhập trở lại
Phật tri kiến, là trở về sống với tâm chân thật của mình. Với pháp
niệm Phật thì đây là ngộ nhập cảnh giới Tự tánh A Di Đà. Muốn vậy,
tâm phải lìa nhị biên phân biệt. Tức tâm không ở trạng thái sinh diệt
của phàm phu, cũng không trụ không như tâm Nhị thừa. Nhận được tâm chân
thật thì mọi cảnh giới không phải không mà như mộng huyễn. Đây là
chỗ tâm chứng của hàng Bồ-tát Bát địa. Sao
gọi là mộng huyễn? Trong kinh Lăng-già,
Phật nói: “Các pháp chóng diệt như điện nên nói như huyễn”. Kinh Hoa nghiêm nói: “Như có người trong
mơ, thấy mình té trong sông lớn. Vì muốn thoát nạn nên phát đại dũng
mãnh, hành đại phương tiện. Do đại phương tiện và dũng mãnh nên được
thức tỉnh. Khi đã thức tỉnh, những việc trong mơ liền dứt cả”.
Cảnh giới A Di Đà là chân hay vọng
Bát-nhã tâm kinh nói: “Tướng không của các pháp không sinh
không diệt, không nhơ không sạch, không mắt, tai, mũi…”. Thứ gì là chân
thì không tướng, cũng không có chỗ nơi. Nếu có tướng thì “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”.
Với người đã sống được với Tự tánh Di Đà thì
không nói chân cũng không nói vọng. Nói chân nói vọng là do đối với
tâm chúng sinh mà nói.
Đứng ở góc độ tâm chúng sinh mà nói thì…
- Những ai đã sống được với Tự tánh Di Đà
của mình thì thế giới Di Đà thật báo. Nói thật vì đã nhận ra thực
chất của thế giới ấy. Đó là phương tiện độ sinh của Phật A Di Đà
dùng tiếp độ kẻ hậu sinh.
- Những ai vãng sinh về thế giới Di Đà mà
chưa sống được với Tự tánh Di Đà thì thế giới Di Đà cũng là thật
có với họ, như mình thấy cảnh giới như huyễn hiện nay là thật. Nhưng
thật ra nó chỉ là hóa thành như hóa thành của hàng La-hán, chưa thể
gọi đó là chân. Chính vì cái thấy thật đó mà kinh Pháp hội Vô lượng thọ Như Lai nói:
“Đầy đủ các diệu nguyện
Thành tựu cõi như thế
Biết pháp như điện ảnh
Trọn vẹn đạo Bồ-tát
Đủ các cội công đức
Thọ ký sẽ thành Phật
Thông đạt tánh các pháp
Tất cả không vô ngã”.
Phải đầy đủ diệu nguyện mới có thể thành
tựu được thế giới Di Đà, nhưng chỉ khi thể nhập được Tự tánh Di Đà,
tức biết tất cả pháp chỉ như bóng ảnh điện chớp, tánh của chúng là
không, là vô ngã, thì biết vãng sinh thế giới Di Đà chỉ mới là
phương tiện của chư Phật dùng tiếp độ kẻ hậu sinh. Biết vậy rồi mới
trọn vẹn đạo Bồ-tát, không phải chỉ vãng sinh về đó mà đủ.
Phân tích thành nhiều cái nhìn như thế là
vì pháp thế gian là pháp Duyên khởi, mọi thứ đều lệ thuộc vào
duyên. Duyên thay đổi thì pháp thay đổi. Duyên ở đây chính là tâm thức
của chúng hữu tình. Mọi cảnh giới không ra ngoài tâm thức ấy. Tùy
nghiệp thức của từng loài, từng người mà cảnh giới dù là một, có
khi thành khác nhau.
Nói theo Trung
luận thì cảnh giới Di Đà “không có cũng không không” tùy duyên mà
thành có, thành không.
“Không có không không” là nói về thực chất
của cảnh giới ấy. Chỉ cho Tự tánh Di Đà sẵn đủ trong mỗi chúng sinh,
là tâm chân như trong luận Đại thừa
khởi tín, là Phật tánh trong kinh Đại
bát-niết-bàn. Bát-nhã gọi nó là tướng không, chính là tánh
không. Tánh không của tất cả pháp thì không rơi vào nhị biên phân
biệt, không thể nói có hay không. Song không phải không ngơ, nên tùy
duyên mà hiện tướng. Ứng với hành giả niệm Phật mà tín-nguyện-hạnh
đầy đủ thì cảnh Di Đà là có. Nếu không niệm Phật cầu vãng sinh hay
niệm Phật cầu vãng sinh mà tín-hạnh-nguyện thiếu thì cảnh giới Di Đà
là không. Song cảnh giới Di Đà dù có hay không thì Tự tánh Di Đà ai
cũng sẵn đủ, chỉ do vô minh che đậy mà dạt theo sinh tử khổ đau.
Luận về cảnh giới của chúng sinh, Tổ Hiền
Thủ nói: “Nếu cảnh này chẳng phải do
vọng làm ra thì quyết định là thật có. Là thật có, mà thánh nhân không thấy thì
nên là mê đảo, phàm phu đã thấy thì nên là giác ngộ, như chẳng thấy hoa đốm
trong hư không thì nên là mắt bệnh. Nhưng không phải vậy…”.
Đó là phần lý luận mà Tổ đã dùng để biện về cảnh giới không thật
của chúng sinh. Nếu là thật thì phàm phu và thánh nhân phải luôn đồng
sở hữu. Nhưng phàm phu và thánh nhân chỉ đồng sở hữu về tánh không, không
đồng sở hữu về cảnh giới do tâm niệm mình biến ra. Cảnh giới Ngạ quỷ
thì chỉ những ai có tâm niệm Ngạ quỷ mới sở hữu. Cảnh giới Cực lạc
thì chỉ ai cầu vãng sinh và tâm được bất loạn mới sở hữu. Có niệm
Phật mà tín-nguyện-hạnh không đủ thì cảnh giới Di Đà cũng không
hiện, nói là không tín-nguyện-hạnh. Vì thế mà biết, Tự tánh Di Đà
thì chân mà cảnh giới Di Đà thì như bóng ảnh, do tín-nguyện-hạnh mà
có, không tín-nguyện-hạnh thì không.
Muốn vãng sinh, tín-nguyện-hạnh phải đủ
Trong kinh Đại
bửu tích II, phẩm Bất Động Như Lai, Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Phật: “Tạo
nhân duyên gì để được vãng sinh nước Diệu Hỷ của Đức Bất Động Như
Lai?”. Phật trả lời: “Nếu muốn sinh về nước Diệu Hỷ thì phải học
theo Đức Bất Động Như Lai hành Bồ-tát đạo, phát thệ nguyện rộng
lớn, cầu nguyện sinh về nước ấy”. Không phải chỉ với nước Diệu Hỷ
mà với mọi thế giới của chư Phật, đều phải theo lệ ấy mới vãng
sinh về nước đó được.
Cảnh giới Di Đà, thực chất chỉ là bóng ảnh
đối với người chưa sống được với Tự tánh Di Đà, nhưng
muốn thành tựu được cảnh giới ấy, Đức Di Đà đã phải “Đủ đầy các
diệu nguyện”, còn chúng sinh thì tín-nguyện-hạnh phải đủ mới về
được. Vì cảnh giới bên ngoài là quả của những tâm niệm bên trong. Cảnh
luôn tương ưng với tâm. Niệm tham sân có lực thì hiện các đường dữ.
Niệm lương thiện có lực thì hiện các đường lành. Muốn sinh cõi Phật
thì tâm phải tương ưng với cõi Phật. Như muốn thể nhập Tự tánh Di Đà
thì tâm phải lìa nhị biên phân biệt (trung đạo), vì cảnh giới ấy
không thuộc nhị biên phân biệt. Muốn vãng sinh thế giới của Phật Di Đà
thì tâm phải tương ưng với những gì mà Phật Di Đà đã nói, thông qua 48
lời nguyện.
- Lời nguyện 19:Khi tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương phát tâm
Bồ-đề, tu các công đức, chí tâm phát nguyện muốn sinh về nước tôi, lúc
họ mạng chung, tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước mắt. Nếu không
như vậy thì tôi không lấy ngôi Chánh giác.
Phát tâm Bồ-đề, là trên cầu Phật đạo, dưới
hóa độ chúng sinh. Cầu Phật đạo chính là cầu Niết-bàn Phật. Quả
muốn là Niết-bàn Phật thì nhân phải thấu đạt được Phật tánh (Tự
tánh Di Đà). Kinh Đại bát-niết-Bàn
nói: “Phật tánh là nhân. Niết-bàn là quả”. Cho nên, tu các công đức
nói đây chính là tu ba vô lậu học Giới-định-tuệ và làm các việc
lợi ích cho tha nhân. Đó là phương tiện giúp hành giả trở về với Tự
tánh Di Đà của mình.
Trong ba môn niệm Phật mà Tổ Ấn Quang nói
trong Tư quy tập, đây thuộc về “Chuyên
niệm Phật tự lực” và “Pháp tự tha đều niệm”. Hạng
này, tín và nguyện đã đủ từ vô lượng kiếp về trước. Hạnh hiện tại
là tu các công đức rồi dùng công đức có được đó nguyện sinh về nước
Ngài. Trong hai loại vãng sinh (thai sinh và hóa sinh), hạng này thuộc
hóa sinh.
Phát tâm Bồ-đề là tín chân thật.
Tu các công đức (tự lợi và lợi tha song
hành), là hạnh đầy đủ.
Chí tâm phát nguyện muốn sinh về nước tôi,
là nguyện tha thiết.
Tín-nguyện-hạnh đầy đủ nên quyết định sẽ
sinh về thế giới A Di Đà.
Điềm báo được sinh về thế giới ấy là “Tôi
và đại chúng vây quanh sẽ hiện ra trước mắt”. Việc này chỉ có người
được vãng sinh mới thấy được. Tức nó là cảnh giới của riêng người
được vãng sinh, và chỉ những ai đồng nghiệp như người ấy mới thấy
được, không phải là cảnh giới mà tất cả người sống đây đều thấy.
Nếu không hiểu được mặt duyên khởi này của pháp, sẽ cho rằng kinh
nói không chính xác, cũng không có ai vãng sinh. Vì chưa từng thấy
việc đó xảy ra. Làm thế nào thấy được, khi mọi cái thấy đều là sở
kiến của một cái năng kiến (là nghiệp thức chúng sinh) mà phần năng
kiến của mỗi người không đồng?
Dù cảnh do nhân duyên biến
là đồng thì qua sở tri của từng người, cảnh thuộc phân biệt biến
cũng chưa chắc đồng, huống là phần nhân duyên biến đã không đồng. Cho
nên, việc hiện thân tiếp dẫn kẻ vãng sinh không phải không có, chỉ là
đã đủ nhân duyên để thấy chưa? Chỉ những ai có tâm thức tương ưng với
cảnh giới ấy mới thấy được. Như người thường thấy nước là nước,
nhưng ngạ qủy thấy đó là lửa hoặc máu. Không phải ngạ qủy thì không
thể thấy lửa hoặc máu. Người không có nghiệp vãng sinh thì không thể
thấy được Phật A Di Đà và đại chúng vây quanh. Nếu không thấy mà cho
là không có thì cũng như người mù không thấy mặt trời mà cho là không
có mặt trời.
Lời nguyện 20: Khi tôi thành Phật, chúng sinh ở mười
phương nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ nước tôi, trồng các cội công đức, chí
tâm hồi hướng muốn sinh về nước tôi, nếu không được toại nguyện thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
Nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ nước tôi, là tín
sâu xa.
Chuyên nhớ nước tôi và trồng các cội công
đức, là hạnh sâu xa.
Chí tâm hồi hướng muốn sinh về nước tôi, là nguyện
tha thiết.
Hạng tín-hạnh-nguyện này, so với trên không
bằng, nhưng cũng đầy đủ tín-hạnh-nguyện, đương nhiên cũng vãng sinh.
Tùy niềm tin đối với Phật trí mà hoặc là vãng sinh theo thai sinh
hoặc là vãng sinh theo hóa sinh.
Lời nguyện 18: Khi tôi thành Phật, chúng sinh ở mười
phương hết lòng tin thích muốn sinh về nước tôi, nhẫn đến mười niệm,
nếu không được sinh thì tôi chẳng lấy ngôi Chánh giác.
Hết lòng tin thích, là tín vững mạnh.
Tin thích muốn sinh về nước tôi, là nguyện thiết
tha.
Mười niệm, là nói đến hạnh niệm Phật. Chỉ
cần mười niệm không gián đoạn thì liền sinh cõi Cực lạc. Đây có hai
trường hợp:
1/ Nhân duyên đầy đủ (trực tiếp): Muốn nói
đến mười niệm vào lúc cận tử nghiệp. Bởi cận tử nghiệp quyết định
cảnh giới đầu thai đối với một người sắp lâm chung.
2/ Nhân có mà duyên chưa đủ (gián tiếp): Muốn
nói ai từng niệm được mười niệm trong đời với chí nguyện về thế
giới A Di Đà, cũng sẽ được vãng sinh khi đủ duyên. Quan trọng nằm ở
hai chữ “đủ duyên”. Phần này sẽ được giải thích trong “Biệt thời ý
thứ và lời nguyện thứ 18 của Phật A Di Đà” nói sau.
Bình thường niệm Phật, nếu lực niệm không
mạnh thì dễ ngủ quên. Ngủ rồi, giật mình tỉnh giấc mới thấy mình
vẫn niệm mà không phải niệm danh hiệu Phật. Cho nên, vào đêm ba mươi
của đời người, là lúc tứ đại phân ly, tâm mịt mờ khó biết, dù chỉ ba
niệm cũng khó mà tỉnh giác để niệm, nói chi là mười niệm. Vì thế,
bình thường cần phải niệm Phật sao cho lực của niệm Phật phải là lực chủ đạo trong tất cả các
loại nghiệp lực mình đang có. Chỉ khi ngủ quên mà tâm vẫn niệm được
danh hiệu Phật không dứt thì mới mong cận tử nghiệp, mười niệm được
liên tục không gián đoạn.
HT.Thiền Tâm nói: “Có kẻ nghe nói chỉ cần tín nguyện chân thiết, khi lâm chung
mười niệm hay một niệm cũng quyết được sinh Tây phương, liền nghĩ rằng
cần chi phải vội gấp, để lúc sắp chết niệm Phật cũng được. Ý niệm
này thật sai lầm. Phải biết điểm quan yếu của vãng sinh là “Thị nhân
chung thời, tâm bất điên đảo tức đắc vãng sinh A Di Đà Phật Cực lạc
quốc độ”. Nếu khi lâm chung lòng không điên đảo thì niệm mười niệm hay
một niệm đều được vãng sinh. Nhưng ai dám chắc rằng khi lâm chung lòng
không điên đảo? Nếu lúc bình thường không tính chuyện dụng công, đến
khi mạng chung tứ đại phân ly, sức nghiệp dồn dập, thân tâm bị sự khổ
làm cho mê loạn, một niệm e còn không thể thực hành, nói chi là mười
niệm”. Cho nên kinh A Di Đà dạy
rất rõ: “Này Xá Lợi Phất! Nếu có
thiện nam, thiện nữ nào nghe được danh hiệu Phật A Di Đà, trì danh
hiệu ấy một ngày, hai ngày, ba ngày... cho đến bảy ngày, nhất tâm
bất loạn, thì khi thọ mệnh hết, người ấy sẽ được Phật A Di Đà cùng
các thánh chúng hóa hiện ngay trước, khiến sau khi mất liền sinh sang
nước Cực lạc của Phật A Di Đà”. Muốn mệnh chung mà có thể niệm
mười niệm không gián đoạn thì bình sinh khi còn khỏe mạnh, phải trì
danh hiệu Phật được ít nhất một ngày nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất
loạn, là ngoài lục tự A Di Đà, không có niệm nào khác. Nếu trì được
vậy thì khi lâm chung sẽ niệm được mười niệm không gián đoạn, nhất
định vãng sinh.
Xét trên thì thấy:
- Nếu không có hạnh thì không có cảnh giới
tương ưng là thế giới Cực Lạc. Vì thế hạnh là pháp không thể thiếu
trong việc vãng sinh.
- Nếu không có tín thì tâm không tha thiết
với việc hành trì, cũng không thể lập nguyện tha thiết về thế giới A
Di Đà. Khó mà định hướng đúng chỗ đến và niệm Phật cho được nhất
tâm bất loạn. Vì thế, tín không thể thiếu trong việc vãng sinh.
- Tín và hạnh dù đủ, nhưng không có nguyện,
là nguyện về thế giới A Di Đà, thì cũng không về được. Bởi nguyện
là thứ giúp định hướng mọi công đức đến chỗ cần đến. Như phát tâm
Bồ-đề là phương cách giúp ấn định mọi phước đức đang có cho con
đường hoàn thành Phật đạo, không phải phục vụ cho đời sống phước
báu ở thế gian. Vì thế, ngoài tín và hạnh còn cần có nguyện. Nguyện
vãng sinh thế giới Phật A Di Đà.
Tóm lại:
- Tín là niềm tin trợ lực cho hạnh và
nguyện trong suốt hành trình đến đích.
- Nguyện giúp xác định hay định hướng chỗ muốn
đến.
- Hạnh là phương tiện giúp ta đến chỗ cần
đến.
Muốn vãng sinh không thể thiếu một trong ba
thứ đó.
Cho nên, với người bình thường, việc hộ niệm
chỉ có giá trị giúp vãng sinh khi người sắp chết bình sinh có công
phu niệm Phật khá thường. Tức phải có tín và nguyện đối với thế
giới A Di Đà. Nhờ vậy, câu niệm Phật bên ngoài mới có tác dụng trợ
lực. Còn người sắp chết, bình sinh không niệm Phật, tai tuy có nghe
danh hiệu Phật, mắt tuy có thấy hình tượng Phật, mà tâm không niệm
Phật, không dứt nghĩ được chuyện đời, trong tâm niệm đời vẫn giữ thế
chủ đạo, thì khi lâm chung, dù có được hộ niệm, chưa chắc đủ tỉnh
táo mà nghe được câu niệm Phật. Nghe được, chưa chắc đã niệm được để
tâm không tán loạn. Dù tâm không loạn, chưa chắc đã được vãng sinh. Vì
hạnh dù có mà không có nguyện thì cũng không thể vãng sinh. Bởi tâm
còn tha thiết với đời thì không thể hồi hướng các phước đức có
được cho thế giới A Di Đà, sao có thể vãng sinh? Cho nên, trợ duyên dù
đủ mà không có chánh nhân thì quả cũng không thể thành. Bình sinh,
tín-nguyện-hạnh phải đủ cả ba, khi lâm chung việc hộ niệm mới có
giá trị.
Thành xét về việc vãng sinh thì cần kết
hợp tướng bên ngoài với việc hành trì của hành giả khi còn sống. Nếu
bình thường, hành giả không có công phu niệm Phật, không tạo công đức
để hồi hướng, cũng không có chí nguyện về thế giới Cực lạc, thì
dù tướng bên ngoài có mềm ấm, cũng không thể kết luận hành giả đã
vãng sinh. Dù vậy, việc hộ niệm luôn cần thiết. Ít nhất là gieo duyên
với người sống cũng như người sắp chết.
Biệt thời ý thú và lời nguyện thứ 18 của Phật A Di Đà
Biệt thời ý thú là một trong Tứ ý thú.
Ý Phật sâu xa, chúng sinh thời mạt pháp, chữ
nghĩa thì nhiều, tâm chứng thì kém, khó mà thông tỏ được Phật ý,
nên chư vị Tổ sư đã soạn ra các ý thú này để giúp chúng sinh thông
tỏ kinh luận. Nhiếp chánh luận, bản
dịch của ngài Huyền Trang
ghi: “Ngoài ra còn có Tứ ý thú và Tứ bí mật. Mọi lời Phật nói nên căn cứ
vào đó mà lý giải và quyết định”. Khi đọc kinh Phật,
nếu thông qua Tứ ý thú và Tứ bí mật thì ta dễ thông tỏ chính xác hơn về
những gì mà Phật muốn nói trong các kinh.
Hoa nghiêm thám huyền ký ghi: “Biệt
thời ý thú là, như nói nếu tụng danh hiệu Đa Bảo Như Lai thì đối với Bồ-đề vô
thượng chánh đẳng đã được quyết định”. Hoặc nói do chỉ phát nguyện, liền được
vãng sinh thế giới Cực lạc”.
Ngài Vô Tánh giải thích: “Vì
khuyến khích kẻ giải đãi, đối với pháp không chịu tinh cần mà nói như vậy.
Cũng là muốn trưởng dưỡng kẻ có thiện căn đời trước. Như thế gian nói chỉ nhờ
một đồng mà được đến hàng ngàn”.
Trong
các phần kinh được trích dẫn trên, ta thấy nhân và quả không tương
thích lắm. Như chỉ cần tụng Đa Bảo Như Lai, không thấy nói đến việc
phát tâm Bồ-đề hay tu Lục độ vạn hạnh v.v… mà quả Bồ-đề lại được
quyết định (tức nhất định có quả). Hoặc nói chỉ cần phát nguyện, tức
chỉ có nguyện, không thấy nói đến tín và hạnh, mà quả cũng là
vãng sinh. Để giải thích
việc đó, ngài Vô Tánh giải
thích: Một, để khuyến khích kẻ giải đãi. Hai, để trưởng dưỡng kẻ
có thiện căn đời trước.
1/ Trưởng dưỡng kẻ có thiện căn đời trước: Như Lục Tổ, tuy chỉ là người đốn
củi không biết chữ, nhưng khi nghe một câu tụng của kinh Kim cang liền sáng tỏ, đến gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, không bao lâu sau
được ấn chứng làm Tổ thứ sáu. Với người đã có thiện căn niệm Phật sâu
dày từ trước thì việc tu hành ngày nay cũng tương tự. Đối với thế
giới A Di Đà đã có niềm tin sâu xa, hạnh vốn đầy đủ, nên chỉ cần
phát nguyện vãng sinh thì liền vãng sinh. Sư Tăng Duệ, tác giả bài
tựa viết cho cuốn Trung luận của
ngài Thanh Mục, là một điển hình.
Tăng
Duệ là một cao tăng đời Đông Tấn Trung quốc. 18 tuổi xuất gia, thờ
ngài Tăng Hiền làm thầy. Năm 20 tuổi đã thông suốt kinh luận. Năm 24
tuổi đi thuyết pháp khắp nơi. Người tham dự rất đông, nhưng Sư vẫn than
rằng Thiền pháp chưa được lưu truyền.
Khi
Đại sư Cưu Ma La Thập đến Trường An thì Sư thỉnh ngài dịch cuốn Thiền pháp yếu giải, theo đó ngày
đêm tinh tấn tu học. Sư thường cùng Tăng Triệu tham dự việc dịch kinh
và là một trong bốn vị đệ tử lớn của Đại sư Cưu Ma La Thập.
Bình
sinh, Sư nguyện cầu vãng sinh Tịnh độ An dưỡng. Khi đi, đứng, nằm,
ngồi thường không quay lưng về hướng Tây. Sau, Sư biết giờ lâm chung,
cáo biệt đại chúng rồi vào phòng tắm gội, đốt hương lễ bái, xoay
mặt về hướng Tây, chắp tay thị tịch, hưởng thọ 67 tuổi.
Đây
là ứng với lời nguyện 19 của Đức A Di Đà. Mặc áo Tăng nhân tức phát
tâm Bồ-đề, là tín chân thật. Tu giới-định-tuệ, chắp tay thị tịch, thuộc
hạnh tự lợi. Dịch kinh, giảng pháp khắp nơi, thuộc hạnh lợi tha. Đi
đứng nằm ngồi thường không quay lưng về hướng Tây, nguyện cầu vãng
sinh Tịnh độ, là nguyện tha thiết. Tín chân thật, hạnh đầy đủ,
nguyện tha thiết, liền được vãng sinh. Tu giới-định-tuệ mà nguyện
vãng sinh, thì biết Sư đã từng niệm Phật cầu vãng sinh trong quá khứ
rất sâu dày.
2/ Khuyến khích kẻ
giải đãi: Giải đãi, là làm biếng, không tinh tấn. Nói
việc này, trước là gieo niềm tin với kẻ mà tín và hạnh còn yếu, sau
là khuyến khích những người giải đãi, muốn vãng sinh mà ít chịu
thực hành. Đây là nói nhân và quả mà không nói duyên. Chỉ nói mốc ban
đầu và cuối cùng mà không nói thời gian nào thì nhân thành quả. Song
pháp Phật, có nhân rồi phải đủ duyên mới thành quả, tùy lực tu hành
của hành giả mà thời gian thành ngắn hay dài.
Nói
mười niệm, tức nhân đã gieo, nhưng phải đợi đủ duyên quả mới thành.
Nếu không có mười niệm đó thì không có nhân để tâm không loạn. Không
nhân thì duyên dù đủ bao nhiêu, quả cũng không thành. Với người, tu
thì giải đãi mà muốn có quả nhanh chóng, thì đây là phương tiện
giúp gieo mười niệm vào tạng thức, là cái nhân để sau này tâm được
bất loạn, sinh về thế giới A Di Đà.
Trong
cả hai câu, “Chỉ phát nguyện liền
được vãng sinh” hay “Hết
lòng tin thích muốn sinh về nước tôi, nhẫn đến mười niệm” thì nhân không phải ba mà chỉ có một, là nguyện.
Nguyện như vậy là đã có niềm tin với thế giới A Di Đà. Phát nguyện
rồi, tùy công đức tu hành, tinh tấn thì hiện đời hay kiếp sau vãng
sinh, không tinh tấn thì vài chục kiếp về sau. Nhưng một khi đã có nguyện
thì trước sau gì cũng vãng sinh mà hạnh là thứ quyết định. Ý là
vậy.
Như vậy, khi nào đọc chánh kinh hay chánh
luận mà thấy nhân và quả có vẻ không tương thích, thì cần phải dùng
Biệt thời ý thú mà hiểu, không phải kinh luận nói sai.
Ba hạng cầu vãng sinh
1/
Kinh nói: “Này A Nan! Nếu có chúng sinh, đối với thế
giới Phật đó mà phát tâm Bồ-đề, chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ và gieo
trồng các thiện căn, tất cả đều phát
tâm hồi hướng nguyện sinh nước đó, thì người ấy khi lâm chung, Phật Vô
lượng Thọ cùng với chúng Tỳ-kheo vây quanh trước sau hiện trước mặt,
người ấy liền theo Phật Vô Lượng Thọ vãng sinh nước Phật, được bất
thối chuyển, sẽ được Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng”. Đây là hạng
thứ nhất.
2/ Kinh nói: “Này
A Nan! Nếu có chúng sinh ở các nước khác phát tâm Bồ-đề, tuy không
chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ cũng không hằng gieo trồng các thiện
căn, chỉ dựa vào việc tu hành và các thiện công đức của bản thân, dùng
đó hồi hướng Phật Vô Lượng Thọ, nguyện muốn vãng sinh, người này khi
lâm chung, Phật Vô Lượng Thọ liền khiến hóa thân cùng chúng Tỳ-kheo vây
quanh trước sau - quang minh và tướng hảo của hóa thân này không khác
chân Phật - hiện trước người ấy nhiếp thọ tiếp dẫn. Người ấy liền
theo Phật vãng sinh, được Bất thối chuyển và Bồ-đề vô thượng”. Đây là hạng thứ hai. Hạng này tuy có niệm
Phật, có gieo trồng thiện căn, nhưng chưa được chuyên ròng như hạng trên,
nên lúc lâm chung Phật tiếp dẫn có khác.
3/ Kinh nói: “Có chúng sinh trụ pháp Đại thừa, dùng
tâm thanh tịnh hướng về Phật Vô Lượng Thọ, cho đến mười niệm niệm Phật Vô Lượng Thọ, nguyện
sinh nước Ngài; Hoặc có chúng sinh nghe pháp thậm thâm, liền sinh tín
giải, tâm không nghi hoặc, cho đến có được nhất niệm tịnh tâm, phát nhất
niệm tâm niệm Phật Vô Lượng Thọ… Người này khi lâm chung, như ở trong
mộng mà thấy Phật Vô lượng Thọ, quyết định vãng sinh nước Phật,
được bất thối chuyển và Bồ-đề vô thượng”. Đây là hạng
thứ ba. Hạng này, đối với việc niệm Phật chỉ có mười niệm hoặc
nhất niệm tâm niệm Phật, nhưng vẫn được vãng sinh. Tuy vậy, phải là
người trụ pháp Đại thừa, đối với háp thậm thâm sinh tâm tin hiểu
không nghi hoặc, và dùng tâm thanh tịnh hướng về Phật Vô Lượng Thọ. Với
pháp thậm thâm sinh tâm tin hiểu (tin mình có Phật tánh), là đã tu
được mười vạn kiếp.
Dùng tâm thanh tịnh hướng về Phật Di Đà từng có duyên sâu nặng với
việc niệm Phật. Vì thế, tuy tin hiểu pháp thậm thâm mà vẫn muốn
nguyện vãng sinh. Tín-hạnh-nguyện đều đủ nên nguyện vãng sinh liền
được vãng sinh.
Nói chung, có tín-hạnh-nguyện thì trước sau gì
cũng vãng sinh. Tùy mức độ tâm thanh tịnh mà sinh về thế giới Cực lạc
thô và tế có khác nhau.
Thai sinh và Hóa
sinh
Có Thai sinh và Hóa sinh, vì tâm người cầu
vãng sinh không đồng nhất, thế giới Cực lạc thành có sai biệt.
Kinh nói: “Đối
với việc tích tập thiện căn là hy cầu Phật trí, Phổ biến trí, Bất tư
nghì trí, Vô đẳng trí, Uy đức trí, Quảng đại trí lại rơi vào nghi
hối, với thiện căn của mình chẳng thể sinh niềm tin. Do nhân duyên ấy
trong 500 năm ở trong cung điện chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp, chẳng
thấy chúng Bồ-tát và Thanh văn…, chẳng biết pháp tắc uy đức của
Bồ-tát, không thể tu tập các công đức, không có nhân duyên phụng sự vô
lượng chư Phật. Các người này đều do xưa kia có tâm nghi hối. Như con
của vua Sát-đế-lợi phạm pháp…”.
Sự sai biệt ấy nằm ở chỗ hành giả tin hay
không tin vào Phật trí, tin hay không tin mình cũng có Phật trí như
vậy.
1/ Hóa sinh: là cách vãng
sinh của người đã có tâm tin vào Phật trí, tin mình có Phật trí ấy,
tức đã phân định rõ giữa việc thể nhập Tự tánh A Di Đà và vãng sinh
thế giới Cực lạc, biết vãng sinh thế giới Cực lạc chỉ là phương
tiện Đức A-di-đà dùng tiếp độ kẻ hậu sinh, giúp kẻ hậu sinh thể
nhập Tự tánh A Di Đà.
2/ Thai sinh: là cách vãng
sinh của người chưa tin vào Phật trí, chưa tin mình cũng có Phật trí
ấy. Nhưng đã tin có nhân quả tội phước, chịu tu tập hạnh lành, nghe
Phật danh liền khởi niềm tin, cầu sinh về thế giới Cực lạc. Người
này vãng sinh theo thai sinh. Cũng vẫn sinh trong cung thất bảo, không
có hình phạt, không có một niệm ác sự, nhưng 500 năm không thấy Phật,
thấy Bồ-tát, thấy chúng Thanh văn để cúng dường, chẳng được nghe
pháp, chẳng thể tu các hạnh lành, nên tuy có các sự vui vi diệu mà
tâm không ưa thích nơi đó. Nếu các chúng sinh ấy biết nhân đời trước,
tự ăn năn biết lỗi, cầu rời chỗ ấy, liền được toại nguyện qua chỗ
Phật Vô Lượng Thọ…
Ba pháp niệm
Phật của Tổ Ấn Quang
Theo Tổ Ấn Quang, trong Tư quy tập, niệm Phật có ba pháp:
1/
Chuyên niệm Phật tự lực: Cùng
tột thật tướng, lấy việc chứng ngộ làm gốc. Đối với các pháp như 5 ấm, 6 nhập,
12 xứ, 7 đại v.v… dùng trí tuệ Bát-nhã chiếu soi, thấu rõ tất cả pháp xưa nay
đương thể toàn không, thấy được tánh chân như vi diệu tròn đầy… Đây gọi là thật
tướng niệm Phật. Thật tướng niệm Phật này tuy là thật lý tối thâm song lại
chẳng dễ tu, vì chỉ nương nhờ vào giới-định-tuệ của chính mình, không có sự trợ
giúp của tha lực. Nếu chẳng phải là người có sẵn căn duyên đời trước thì hội nó
còn chẳng dễ, huống là thực chứng.
2/
Chuyên niệm Phật tha lực: Có ba thứ.
a/ Quán
tưởng, là nương theo kinh Thập lục quán
mà quán. Hoặc chuyên quán tướng lông trắng, hoặc quán pháp thân rộng lớn v.v...
Quán đến đầy đủ 16 thứ.
b/ Quán
tượng, là đối trước hình tượng Phật mà tưởng về tướng hảo quang minh của Phật
v.v...
c/ Trì
danh, là nhất tâm xưng niệm danh hiệu A-Di Đà.
Pháp
“Quán tưởng” tuy hay nhưng phải nhớ hình tượng Phật thấy đó chỉ là sở hiện của
tự tâm. Nếu nhận nó là cảnh thật ngoài tâm thì vướng vào ma sự, sẽ sanh cuồng.
Ba pháp
này tuy hình thức thực hành không giống nhau, nhưng đều có chung một điểm là
phải đầy đủ lòng tin chân thành và ước nguyện thiết tha mới có thể cùng Phật
cảm ứng đạo giao, mới có thể quyết định được hiện đời ra khỏi Ta-bà mà sanh về
Cực lạc.
3/ Pháp
tự tha đều niệm: Còn gọi là “Thiền
tịnh song tu”, đặt nền tảng trên việc chuyên khán “Niệm Phật đó là ai?” cốt để
minh tâm kiến tánh, chẳng dùng tín nguyện cầu sanh Tây phương làm sự nghiệp. Đã
không có tín nguyện thì không thể nương vào tha lực mà vãng sanh Tây phương.
Chưa đến được chỗ nghiệp hết tình không thì cũng không thể nương vào tự lực mà
liễu thoát sinh tử. Vì thế, với pháp “Thiền Tịnh song tu” này, chỉ có người tín
nguyện đã đầy đủ mới có lợi ích. Còn không thì chẳng bằng hết lòng với một môn
trì niệm danh hiệu Phật.
Pháp Trì danh và ma sự
Tổ Ấn
Quang dạy:
Pháp “Trì
danh” hạ thủ công phu dễ nhất mà thành công mau nhất. Nếu thâu nhiếp 6 căn,
tịnh niệm được liên tục thì ngay đời này sẽ chứng được Niệm Phật tam muội. Khi
lâm chung nhất định vãng sanh thượng phẩm. Dù căn cơ có hạ liệt, chưa chứng
được tam muội mà dùng tín nguyện trì danh hiệu Phật như con nhớ mẹ không gián
đoạn, thì đến khi lâm chung, cảm ứng đạo giao, nương nhờ từ lực của Phật theo
nghiệp vãng sanh. Nếu chí tâm trì niệm, niệm đến toàn tâm là Phật, toàn Phật là
tâm, ngoài tâm không có Phật, ngoài Phật không có tâm, không niệm mà niệm, niệm
mà không niệm, tâm Phật cả hai cùng hiện rõ, rồi cả hai cùng mất, thì diệu lý
thật tướng chân thể hiển lộ. Ngay đó Tây phương hoàn toàn tròn sáng. Đây là trì
danh mà thâm đạt thật tướng, chẳng phải dùng quán mà tự thấy Tây phương. Nhiếp
cơ rất rộng, lợi ích rất nhiều, rất hợp với kẻ độn căn thời mạt pháp.
Mỗi
người tùy vào thân phận của mình mà lập, chẳng thể cố chấp cố định vào một pháp
nào. Từ sáng đến chiều, đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh, mặc áo, ăn
cơm, đi tiêu, đi tiểu… chỉ một thánh hiệu ấy không cho lìa tâm và miệng. Nếu
như ở chỗ thanh khiết thì niệm ra tiếng hay niệm thầm đều được. Còn khi ngủ,
nghỉ, tắm, rửa, đi tiêu, đi tiểu cho đến những nơi không được sạch sẽ thì chỉ
nên niệm thầm, vì niệm thầm thì công đức cũng vậy. Niệm ra tiếng thì không được
cung kính nên không niệm ra tiếng, chớ không phải ở những nơi đó không được
niệm Phật. Lại, khi ngủ mà niệm ra tiếng ngoài việc không cung kính còn bị tổn
khí.
Phương pháp
hay nhất của việc trì danh là thâu nhiếp toàn bộ 6 căn, tịnh niệm liên tục.
Thâu nhiếp toàn bộ 6 căn là tâm niệm Phật. Chuyên chú nơi danh hiệu Phật tức
nhiếp được ý căn. Miệng phải niệm rõ ràng mạch lạc là nhiếp được thiệt căn. Tai
cần nghe rõ ràng rành mạch là nhiếp được nhĩ căn. Ba căn này đã bị nhiếp bởi
danh hiệu Phật thì nhãn căn quyết chẳng thể có cái nhìn tạp loạn, tức mắt cũng
được nhiếp. Tỷ căn chẳng thể có cái ngửi tạp loạn, tức mũi cũng được nhiếp. Khi
niệm Phật, thân phải đoan nghiêm nên thân cũng được nhiếp. 6 căn đã nhiếp thì
tâm không có vọng niệm, chỉ lấy Phật làm niệm, nên là tịnh niệm. 6 căn nếu
chẳng nhiếp thì tuy là niệm Phật mà trong tâm vẫn đầy dẫy vọng tưởng, khó mà
được lợi ích thiết thực.
Một câu
A Di Đà Phật miên miên mật mật luôn thường nhớ niệm. Phàm có những niệm như háo
thắng, giận dỗi… bất ngờ manh động thì phải suy nghĩ “Ta là người niệm Phật,
sao có thể khởi các niệm này?” Niệm khởi liền ngừng, lâu ngày thì tất cả những
thứ niệm khiến ta lao thần tổn thân ấy đều không thể khởi. Do công đức bất khả
tư nghì của Phật gia trì, chưa quá 10 ngày sẽ thấy rất hiệu nghiệm. Nếu thỉnh
thoảng niệm một câu, hai câu mà muốn hiệu nghiệm ngay là tự dối mình dối người.
Tuy vẫn có công đức nhưng khỏi bệnh thì chẳng thể được.
Khi niệm
Phật cần chí thành. Niệm Phật mà tâm chẳng quy nhất là do đối với sanh tử, tâm
chẳng thiết tha. Nếu có ý nghĩ sắp bị dầu sôi lửa bỏng chẳng thể cứu viện thì
tâm tự quy nhất. Khi tâm bỗng khởi lòng thương xót thì phải biết đó là do thiện
căn khai phát, nhưng không nên nuôi dưỡng tình trạng ấy, nếu không sẽ vướng vào
ma bi. Phàm có việc gì thích ý cũng chẳng nên vui lòng. Không, sẽ vướng vào ma
vui.
Khi niệm
Phật, hai mắt cần buông xuống, không nên đề thần quá sức đến nỗi tâm bốc hỏa
sanh nóng nảy. Nếu đỉnh đầu phát ngứa, đau nhức hay có các thứ bệnh khác thì
cần điều hòa bên trong sao cho thích hợp để không bệnh hoạn. Khi niệm ra tiếng
cũng không nên niệm quá sức.
Bệnh
cùng ma đều do nghiệp đời trước gây nên, chỉ cần chí thành khẩn thiết niệm Phật
thì bệnh tự khỏi, ma sự tự lìa. Nếu chẳng chí thành hoặc khởi tà niệm thì tâm
đọa trong sự u tối, ma qủy ắt quấy nhiễu. Vào lúc niệm Phật xong, khi hồi hướng
thì nên vì tất cả những oan gia trong quá khứ mà hồi hướng, khiến mọi loài đều
nhờ vào sự lợi ích niệm Phật của mình mà siêu sanh vào đường lành.
Niệm
Phật lần hạt thì có thể ngừa giải đãi, song khi tịnh tọa niệm Phật thì chẳng
nên lần hạt. Vì lần hạt thì hướng động nên tâm chẳng thể định. Về lâu về dài
tất sẽ sanh bịnh.
Nếu chưa
được nhất tâm thì tuyệt đối không nên nảy sanh ý tưởng muốn thấy Phật. Nếu nóng
nảy muốn thấy thì tâm niệm rối rắm, cái niệm “muốn thấy” ấy sẽ động kết trong
lòng thành “đại bệnh”. Oan gia lâu đời nương cái niệm tình tưởng vọng động ấy
hiện làm thân Phật để báo oán xưa. Đó là do tâm mình không chánh kiến. Chưa kể
một khi thấy ma mà sinh hoan hỷ thì ma nhập vào tạng phủ sẽ phát cuồng. Dù gặp
được Phật sống cũng chẳng thể cứu. Cho nên, chỉ cần niệm Phật cho được nhất
tâm, chẳng cần thấy Phật hay không. Nhất tâm rồi thì tự có sự cảm ứng không thể
nghĩ bàn. Nếu niệm Phật mà bị khí muộn là do nghiệp chướng khiến ra như vậy.
Chỉ cần chí thành khẩn thiết niệm Phật thì từ từ sẽ yên.
Người tu
hành thời nay, phần lớn vướng vào ma sự đều do lấy tâm vọng động mong cầu cảnh
giới tốt.
Một khi cảnh
giới tốt xuất hiện, nếu cho cảnh giới ấy là ma thì cảnh giới ấy là cảnh giới
tốt, hễ sanh cái tâm tham trước vui mừng thì bị tổn hại chẳng chút lợi ích,
huống chưa phải là cảnh giới tốt? Nếu là người có công phu hàm dưỡng thì cảnh
giới dù có cũng như không, nên ma cảnh nếu hiện vẫn là cảnh giới tốt. Đó là vì
gặp ma mà chẳng bị ma chuyển, tức năng lực tinh tấn cao.
Phần “Niệm
phật hồi hướng” cũng không thể bỏ qua. Song chỉ nên hồi hướng sau khóa công phu
tối và đi kinh hành vào buổi trưa. Còn bình thường thì lấy việc trì niệm liên
tục làm sự hồi hướng thời thường. Mọi công hạnh ngày thường đều hồi hướng vãng
sinh và cần phát Bồ-đề tâm, thệ nguyện độ sinh. Có công đức tu trì nào đều khắp
vì bốn ân trong ba cõi và chúng sinh trong pháp giới mà hồi hướng. Đã cùng
chúng sinh kết sâu pháp duyên thì thắng hạnh Đại thừa của mình chóng thành. Nếu
chẳng thấu nghĩa này thì rơi vào tri kiến tự lợi của phàm phu và Nhị thừa, tuy
tu diệu hạnh mà cảm cái quả thấp hèn.
Phàm
người niệm Phật, tùy theo phương tiện của mỗi người cốt phải khắc phục cho được
tập khí của mình. Phàm người đáng nói thì dù cho đối nghịch với ta cũng phải vì
người mà nói, khiến người gặp được điều lành, tránh xa điều dữ, lìa khổ được
lạc. Hằng ngày phải ngay thẳng rõ ràng. Với người thì nói rõ về nhân quả báo
ứng và con đường niệm Phật liễu thoát sinh tử. Dạy dỗ con cái cũng đồng nghĩa
với việc gầy dựng nền tảng thái bình. Tâm thẳng như dây đàn căng, lời nói không
mập mờ lấp lững. Muốn giữ cái tâm có thể đối chất với qủy thần lúc lâm chung
thì làm việc gì quyết chẳng mê mờ lý trời. Như thế đến lúc lâm chung không có
hiện tượng đáng thương, đáng tiếc xảy ra.
Kết luận
Theo những gì kinh luận đã nói, thì có thể
đúc kết như sau:
1/ Niệm Phật muốn vãng sinh, phải hội đủ ba
thứ tín-nguyện-hạnh.
2/ Nói mười niệm hay một niệm được vãng sinh
đều có thể, quan trọng là tâm không loạn và nguyện về nước Phật
hiện tiền.
3/ Hạnh, hiện đời có thể là thiền v.v… nhưng
tâm cần không loạn và phải có tín và nguyện với A Di Đà thì mới có
thể vãng sinh.
4/ Muốn được vãng sinh thượng phẩm thì điều
kiện cần là phải phát tâm Bồ-đề. Vì phát tâm Bồ-đề, cũng có nghĩa
là tin mình có tánh như Phật, tin mình cũng có các loại trí như
Phật, chỉ do vô minh mà lưu chuyển trong sáu đường. Điều kiện đủ là nguyện
và hạnh phải đáp ứng được việc vãng sinh.
5/ Niệm Phật, với cái nhìn của chư thánh,
là pháp mà hàng căn cơ hạ liệt có thể hành trì. Tổ
Ấn Quang nói “Rất hợp với kẻ
độn căn thời mạt pháp”. Nghĩa là, ngay cả hàng độn căn cũng có thể
hành pháp ấy mà đạt được kết quả tốt đẹp, không phải do chỗ đến
hạ liệt mà nói như vậy. Bởi nếu niệm Phật mà tin mình có Phật tánh
thì cũng có thể kiến tánh, như Tổ Ấn Quang đã dạy trong pháp trì
danh.
Nói phù hợp với người độn căn, là do thuận với
căn nghiệp của chúng sinh thời nay, tức thuận với tập khí sinh khởi
của dòng tâm thức mà nói. Thuận với sự sinh khởi của dòng tâm thức,
là dùng sự sinh khởi của nhất niệm A Di Đà thay thế cho sự sinh khởi
của dòng vọng tưởng, tức đưa từ cái nhiều về cái một. Tuy nhiều và
một không còn đồng, nhưng sự sinh khởi của tâm vẫn đồng, vẫn không
tạo áp lực mạnh cho hành giả khi hành trì như một số pháp thiền, dứt
thẳng vào tập khí sinh khởi, đưa tâm về không, là đi thẳng từ cái
nhiều về cái không. Kiểu chim bay này, nếu không đủ lực, hành giả dễ
bỏ cuộc nửa chừng. Còn pháp niệm Phật vẫn cho thuận với tập khí
sinh khởi của chúng sinh, nên hàng độn căn vẫn có thể hành trì. Nó
là cây cầu giúp hành giả bước dần từ động qua tĩnh không quá
sốc.
Tóm lại, Thiền, Tịnh hay Mật đều là pháp
của Phật. Đúng là pháp của Phật thì nó phải vừa khế lý vừa khế
cơ. Khế lý, là đều nói đến chỗ tột cùng, dẫn bày hành giả về cội
nguồn chân thật nhất tâm. Khế cơ, là tùy tâm thức của chúng sinh mà
lập phương tiện. Lý thì không khác mà phương tiện thì có sai biệt,
vì tùy duyên. Vấn đề của người tu là biết chọn cho mình một pháp
môn phù hợp để dứt trừ sự sinh khởi của tâm, định lực và trí tuệ
đầy đủ, tự lợi và lợi tha viên mãn.
Kinh Đại Bửu Tích, phẩm 5 - Pháp hội Vô
Lượng Thọ Như Lai, Hán bộ quyển 17 đến quyển 18, Pháp sư Khương Tăng
Khải Hán dịch, HT.Trí Tịnh Việt dịch, ghi: “Hàng thượng phẩm, là
những người bỏ nhà, lìa ái dục, làm Sa-môn, phát tâm Bồ-đề, chuyên một
mặt niệm Phật Vô Lượng Thọ, tu các công đức, nguyện sinh về nước đó.
Lúc chúng sinh này lâm chung, Phật Vô Lượng Thọ cùng hàng Thánh chúng
hiện ra trước người ấy, liền theo Đức Phật sinh về nước An Lạc. Tự
nhiên hóa sinh từ sen thất bảo, ở bậc bất thối chuyển, trí tuệ dũng
mãnh, thần thông tự tại”.
Kinh Đại Bửu Tích, phẩm 5 - Pháp hội Vô
Lượng Thọ Như Lai, Hán bộ quyển 17 đến quyển 18, Pháp sư Khương Tăng
Khải Hán dịch, HT.Trí Tịnh Việt dịch, ghi: “Hạng Trung phẩm là những
người và chư thiên ở các thế giới mười phương, có ai chí tâm nguyện
sinh về nước ấy, dù không làm Sa-môn tu các công đức lớn được, nhưng phải
phát tâm Bồ-đề, chuyên một mặt niệm Phật Vô Lượng Thọ, làm lành
hoặc ít hoặc nhiều, giữ giới Bát quan trai, xây dựng tháp tượng, trai
tăng… dùng công đức đó hồi hướng nguyện sinh về thế giới An Lạc. Người này lúc lâm chung, Đức Phật Vô Lượng Thọ hóa hiện ra đủ
tướng tốt và quang minh như chân Phật, cùng Thánh chúng đến trước
người ấy, liền theo Đức Hóa Phật sinh về nước đó ở bậc bất thối
chuyển, công đức và trí tuệ kế bậc Thượng phẩm”.