Vai trò của tri thức và sáng tạo trong quá trình Thành đạo của Đức Phật
vai tro
VAI
TRÒ CỦA TRI THỨC VÀ SÁNG TẠO TRONG
QUÁ
TRÌNH THÀNH ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT
Liên Trí
Sự kiện thành đạo của Đức Phật là kết
quả của một chuỗi dài nhân duyên thánh thiện. Theo mô tả trong kinh điển, chuỗi
nhân duyên thánh thiện ấybao gồm những tiềm năng tâm linh mà Ngài đã tích lũy từ
nhiều kiếp trước và nỗ lực tu luyện với một ý chí phi thường ngay trong kiếp sống
hiện tại này... Với những ghi nhận lịch sử, chúng ta thấykinh điển Pāli còn lưu
lại nhiều chi tiết rất đặc biệt phản ánh sự kiện thành đạo của Đức Phật. Nhờ
nguồn kinh điển này, chúng ta hiểuhơn về vai trò của tri thức và sáng tạocủa
Ngài trong quá trình hướng đến và đạt được quả vị giác ngộ giải thoát.Những đoạn
tiểu sử tự thuật của Đức Phật và nhiều chi tiết xuất hiện trong những bài giảng
của Ngài sau khi thành đạo, được ghi lại trong các bản kinh Pāli,đặc biệt là kinh
Thánh cầu(Trung bộ kinh, số 26), Đại kinh Saccaka (Trung bộ kinh, số 36),
kinh La-ma (Trung A-hàm số 204)phản
ánhphần nàosự kiện lịch sử sống động này.
Tiếp thu tri thứcvà học hỏi kinh nghiệm
Tuy kinh điển Pāli không có nhiều chi
tiếtmô tả về thời niên thiếu của Đức Phật (khi còn là thái tử Siddhattha), những
đoạn tự thuật và nhiều bài giảng của Ngài cho thấy, thái tử Siddhattha (Sĩ-đạt-ta)
đã thọ học rất nhiều từ một nền giáo dục đượm nhuần văn hóa Veda (Vệ-đà) của xã hội Ấn Độ vào thế kỷ
thứ VI tr.TL. Thái tử được học với những vị thầy giỏi nhất hoàng cung vốn được
tuyển chọn kỹ càng (Schumann, 1989, tr.
22). Khả năng tiếp nhận tri thức và rèn luyện nội tâmcủa thái tửkhiến các vị
thầy của mìnhtừ ngạc nhiên đến kính nể.Theo tài liệu nghiên cứu của Schumann, thái
tử Siddhattha đã được học hầu như đầy đủ các lãnh vực kiến thức và kỹ năng cần trang
bịcho một thái tử trong nền văn hóa xã hộiẤn thời bấy giờ. Tuy nhiên, thái tử
Siddhatthacó nhiều thiên hướng đặc biệt về tri thức và tâm linh so với các kỹ
năng khác (1989, tr. 22).
Về tâm linh, thực hành thiền định để trau
luyện tâm thức là một xu hướng mới do các đạo sư cấp tiến bấy giờ chủ trương. Thái
tử Siddhattha được nuôi dưỡng trong nền văn hóa ấy nên ít nhiều có khuynh hướng
này trong tâm từ thuở bé. Lời tự thuật của Đức Phật trong bài Đại kinh Saccaka cho thấythái tử
Siddhatthacó kỹ năng thực hành thiền định từ rất sớm:“Ta nhớ lại, trong khi phụ thân Ta, thuộc dòng họ Thích Ca đang cày và
Ta đang ngồi dưới bóng mát cây hồng táo, Ta không bận tâm đến các dục lạc trần
gian, từ bỏ các trạng thái tâm xấu ác, chứng đạt và trú an ổn ở Thiền thứ nhất, một trạng thái bình an và hoan hỷ,
thân và tâm đều thấm nhuần an lạc do không còn tham dục mà có” (Trung bộ kinh,
số 36). Điều này chứng tỏthiên hướng tâm linh của thái tử Siddhattharất đặc biệt,
sở thích thiền quán được thể hiệnở thái tử ngay khi còn rất trẻ. Rất có thểthái
tử Siddhattha ít nhiều cũng đã học được phương pháp thực hành tâm linh căn bản,
như ngồi tĩnh tâm chẳng hạn, từ các vị thầy được mời dạy trong hoàng cung.
Về tri thức, vào thời điểm này ở Ấn Độ,
nền giáo dục tốt nhất là trang bị cho người học khả năng thông hiểu các bộ kinh
Veda và các nghi thức tế lễ. Thái tử
Siddhattha cũng được đào tạo trong một nền giáo dục như thế. Schumann tổng hợp
các cứ liệu trong kinh điển Pāli ghi nhận rằng thái tử Siddhattha rất thích
nghe các vị đạo sư minh triết thời bấy giờ xướng ca thơ kệ Vedavà bàn về triết thuyết của họ (Schumann, 1989, tr.28-29). Những kiến thức tiếp thutrong giai đoạn
này được Đức Phật sử dụng rất sáng tạo trong quá trình giảng giải con đường
chuyển hóa mà Ngài đã thực hiện thành côngtrong quá trình giáo hóa. Những khái
niệm của Bà-la-môn giáo sau này được Đức Phậtvận dụng rất linh hoạt để giáo
pháp của Ngài được tiếp nhận một cách thuyết phục trong nhiều tầng lớp xã hội. Tuy
nhiên, tri thức mà thái tử Siddhattha tiếp nhận trong hoàng cung và quá trìnhtự
trải nghiệm với cuộc sống thực tế không đủ cho thái tử trả lời câu hỏi căn bản vốn
là là câu hỏi muôn thuở của loài người: làm sao thoát khổ? Đây là động lực chính
đưa thái tử Siddhattha, trên nền tảng của tri thức học được và kinh nghiệm thường
tình, dấn thân sâu hơn vào con đường chuyên tâm thực nghiệm tâm linh. Điều này
lý giải tại sao thái tử Shiddhattha quyết định đến cầu học với hai vị thầy lỗi
lạc và sau đó lạirẽ hướng sang một con đường khác.
Những đoạn tự thuật của Ngài về kinh
nghiệm học hỏi và tu tập với hai vị đạo sĩ cấp tiến nhất được ghi lại trong kinh
Thánh cầu (Trung bộ kinh, số 26) rằng,
Ālāra Kālāma và Uddaka Rāmaputta là những “bậc
trí thức, uyên bác, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm bụi đời.”Khi chọn và
tìm đến học với hai vị thầy này, thái tử Siddhattha thể hiện rõ tinh thần cầu học
của một hành giả vừa có thiên hướng tâm linh vừa có chiều sâu tri thức.Ở những
vị thầy này, Ngài học được rằng “pháp này
làm cho người có trí, không bao lâu, trải nghiệm và trú an ổn trong pháp, tự thân chứng nghiệm bằng chínhkinh nghiệmmà
Thầy của mình đã chứng đạt” (Trung bộ kinh, số 26, kinh Thánh cầu). Với Ālāra Kālāma, Ngài học
và thực hành theo đúng như pháp được học, chẳng bao lâu, Ngài đã chứng đạt trạng
thái thiền định ngang bằng thầy của mình, đó là trạng thái siêu việt cả không
gian và tâm thức, đi đến chỗ quán tưởng hết thảy sự tồn tại đều không có. Những
đặc tính nào cần thiết cho sự thực hành và chứng đắc trong pháp này, Ngài đã
thành tựu đủ. Quá trình này được diễn tả như sau:
“Không phải chỉ có Ālāra
Kālāma có lòng tin, tinh tấn, niệm lực,
địnhlực và trí tuệ; ta cũng có lòng tin, tinh tấn, niệm lực, định lực và trí tuệ.
Vậy với nỗ lực, liệu Ta có chứng được pháp mà Ālāra Kālāma tuyên bố không?Rồi không bao lâu, bằng kinh
nghiệm của chính mình, Ta nhanh chóng trải nghiệmvà trúan ổntrong pháp mà Ālāra Kālāma tuyên bố đã chứng được bằng kinh nghiệm củachính
vị ấy” (Trung bộ kinh, số 26).
Như vậy, với khả năng tiếp nhận nhạy
bén, với sự nỗ lực có phương pháp và nghệ thuật,chẳng bao lâu, Sa-môn Gotama đã
lãnh hội trọn vẹn phương pháp tu tập mà vị thầy tâm linh đầu tiên truyền trao.
Cùngvới quyết tâm cao độ, tinh tấn không ngừng, Ngài đã thực hành rốt ráo các
phương pháp thiền định vừa học được.Trong thời gian học với Ālāra Kālāma, mặc
dù chứng đạt đến trình độ tâm linh cao ngang bằng vị thầy nàyvà trúan ổn trong pháp ấy,Ngài không hài lòng với những gì chứng được. Ngài nhận thấy rằng
“pháp này không đưa đến từ bỏ ham
muốn, dứttham chấp, dừng nghỉ, an tịnh, trí tuệ tự mình thể nghiệm, giác ngộ và
Niết bàn” (Trung
bộ kinh, số 26). Thế
là Ngài giã từ vị thầy tâm linh đầu tiên và tìm đến một vị khác danh tiếng hơn,
đó là Uddaka Rāmaputta.
Đến với vị thầy mới này, Ngài cũng nỗ lực,
tinh tấn không ngừng. Trong một thời gian ngắn, Ngài đã nhanh chóng chứng đạt
được trạng thái thiền định cao nhất trong pháp này, mà theo lời xác chứng của
Uddaka Rāmaputta, thì ngang bằng với thầy của ông. Đó là trạng thái định vượt
ngoài cả tưởng-và-không-tưởng. Mặc dù trạng thái thiền này cao hơn trạng thái
thiền đã chứng đắc trước đó, thêm một lần nữa,thái tử Siddhattha không thỏa mãn
những gì vừa đạt được với lý do tương tự như đối với vị thầy đầu tiên: Pháp này
không đưa đến giác ngộ giải thoát. Thế là Ngài lại từ giã thầy ra đi. thái tử
Siddhattha ra đi, với một lý do đơn giản là những gì các vị đạo sư này chỉ dạy
và hướng dẫn, Ngài tu tập và chứng đạt hoàn toàn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được
những gì Ngài cần.
Từ khi bước chân ra khỏi hoàng cung và
dấn thân trên hành trình tâm linh, thái tử Siddhattha đã gặp nhiều vị thầy. Với
người thầy nào, Ngài cũng dốc chí tu học và thành đạt cao nhất trong giáo pháp
của các vị thầy ấy. Những gì nền giáo dục truyền thống thời ấy truyền trao, thái
tử đã thấu triệt, nhưng rồi Ngài vẫn chưa hài lòng với thành quả thực nghiệm của
mình. Ngài lần lượt giã từ các đạo sĩ nổi tiếng thời ấy để theo đuổi mục đích
cao quý hơn. Có lẽ hoài bão cao vời ấy đang cần sự nỗ lực nhiều hơn với những đột
phá đáng kể trong tư tưởng của một hành giả dốc tâm tìm cầu chân lý tối thượng.
Thực nghiệm sáng tạovà thành công
Song song với xu hướng học thuật mà
chương trình chính là nội dung Veda,
tìm kiếm chân lý bằng sự du hành rày đây mai đó bằng cách thể nghiệm cuộc sống
theo cách của cá nhân là một khuynh hướng phổ biến khác trong xã hội Ấn Độ xưa.
Theo trào lưu du hành giải thoát thời bấy giờ, thái tử Siddhattha từ bỏ hoàng
cung, trở thành một hành giả du phương, và từ đó, thái tử được gọi là Sa-môn
Gotama (Cồ-Đàm). Giai đoạn học hỏi và tu luyện này đặc biệt phản ánh tinh thần
tiếp nhận tri thức phóng khoáng và thực nghiệm tâm linh sâu sắc của Sa-môn
Gotama.
Cũng theokinh Thánh cầu, chúng ta thấy, với những pháp học và thực hành rập khuôn
theo thầy, Sa-môn Gotama đã chứng đắc các trạng thái thiền định như thầy mình
đã chứng đắc. Theo truyền thống, một người đệ tử có sở học và sở chứng bằng thầy
đã là điều mơ ước của bao người. Nhưng với Sa-môn Gotama, như thế vẫn chưa đủ.
Niềm khát khao tìm cầu chân lý giải thoát thật sự là động lực thôi thúc người đạo
sĩ không dừng chân tại đây. Vẫn không thỏa mãn với những gì đạt được,sau khi học
thông các phương pháp hành thiền từ hai vị thầy giỏi nhất thời ấy mà vẫn không
đạt đến giải thoát trọn vẹn, Sa-môn Gotama quyết định làm một cuộc cách mạng đời
mình: rẽ lối mới để cho những khát khao cháy bỏng kia có cơ hội được thử thách
và chuyển thành hiện thực.
Ngài tìm đến con đường tu khổ hạnh bằng
nhiều hình thức khác nhau mà một số đạo sĩ thời ấy thường thực hành. Chi tiết
này được ghi lại trong Đại kinh sư tử hống(Trung
bộ kinh, số 12) mà mỗi lần đọc, chúng ta không khỏi ngậm ngùi thán phục ý chí
và quyết tâm cao độ của một con người vĩ đại. Đến với pháp tu khổ hạnh vốn hoàn
toàn khác với cách tu mà Ngài vừa từ bỏ, Sa-môn Gotama cũng nỗ lực hết mình, trải
nghiệm những cái “nhất” trong mỗi hình thức tu tập. Ngài tự nhận rằng: “Ta từng sống đời khổ hạnh, đầy đủ về bốn
phương diện: ta thực hành khổ hạnh, khổ hạnh nhất trong các hình thức khổ hạnh;
ta thực hành sống dơ dáy, dơ dáy nhất trong các hình thức sống dơ dáy; ta thực
hành chú tâm thận trọng, thận trọng nhất ngay cả trong những việc nhỏ nhặt; ta
thực hành sống biệt ly, sống ở nơi vắng vẻ nhất trong các nơi vắng vẻ” (Trung
bộ kinh, số 12).
Giã từ hai người thầy để tiếp bước trên
đường tu tập tâm linh, Sa-môn Gotama có thêm nhiều hiểu biết và bề dày kinh
nghiệmcũng nhiều thêm. Tương tự như vậy, cứ mỗi lần tìm đến với một pháp môn thực
hành mới, Sa-môn Gotama học được nhiều điều quý báu và những trải nghiệm mới mẻ.
Với pháp tu sống biệt lập và thực hành khổ hạnh, Sa-môn Gotama học được cách cảm
nhận và chế ngự các cảm thọ. Ngài còn học được một kinh nghiệm từ sự trải nghiệm
thực tế bản thân là, khi ép xác quá mức, thân thể không đủ khỏe thì không thể
duy trì sự tinh tấn để có thể chứng đạt những gì cần chứng đạt trên lộ trình giải
thoát. Trong quá trình khổ hạnh đến mòn hơi kiệt sức, Ngài có sự đối chiếu,
liên tưởng và so sánh với kinh nghiệm thiền quán khi Ngài còn nhỏ trong dịp theo
vua cha trong lễ hạ điền năm xưa, để kịp thời điều chỉnh nhận thức và phương
pháp thực hành. Ngài quán chiếu: “Rồi Ta
suy nghĩ như sau: ‘Ta nhớ lại, trong khi phụ thân Ta, thuộc dòng họ Thích-ca
đang cày ruộng và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây hồng táo, Ta từ bỏ các dục lạc
trần gian, từ bỏ các trạng thái tâm xấu ác, chứng đạt và trú an ổn ở Thiền thứ
nhất, một trạng thái bình an và hoan hỷ, thân và tâm đều thấm nhuần an lạc do
không còn tham dục mà có’. Khi trú an ổn như vậy, Ta nghĩ: ‘liệu con đường này
có thể đưa đến giác ngộ không?’ Và tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi
Ta: ‘Đây là con đường đưa đến giác ngộ.’”Trong trạng thái suy nhược cơ thể
trầm trọng, Ngài suy nghĩ: “‘Nay thật
không dễ gì chứng đạt niềm an lạc ấy, với thân thể ốm yếu kinh khủng như thế
này. Ta hãy ăn ít thức ăn khô, như cơm và bánh’. Rồi Ta ăn ít thức ăn khô, như
cơm và bánh” (Đại kinh Saccaka, Trung
bộ kinh, số 36).
Sau khi thấy rõ hậu quả bế tắc trong
các hình thức thực hành khổ hạnh, Sa-môn Gotama nhận xét rằng:“Trong khá khứ, nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn
trải nghiệm sự đau đớn, thống khổ, nhói đau khốc liệt thì cũng đến mức này là
cùng, không thể hơn được. Trong tương lai, nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn trải
nghiệm sự đau đớn, thống khổ, nhói đau khốc liệt thì cũng đến mức này là cùng,
không thể hơn được. Hiện tại, nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn trải nghiệm sự
đau đớn, thống khổ, nhói đau khốc liệt thì cũng đến mức này là cùng, không thể
hơn được. Nhưng khi thực hành khổ hạnh khốc liệt đến mức độ này, Ta vẫn không
chứng đạt được pháp của người cao quý. Vậy thì liệu có con đường nào khác đưa đến
giác ngộ chăng?”(Đại kinh Saccaka, Trung
bộ kinh, số 36). Như vậy, khi Sa-môn Gotama thực hành khổ hạnh, Ngài cũng dốc sức,
khổ hạnh đến tận cùng của khổ hạnh mà vẫn không có kết quả, Ngài bắt đầu đặt dấu
hỏi lớn. Ở đây, Ngài không phải chỉ biết tuân phục tuyệt đối thực hành theo
truyền thống như hầu hết bao người tu khác thời bấy giờ. Thay vào đó, Ngài kiểm
tra lại thành quả đạt được, tự hỏi mình, quán xét lại cách thực hành, so sánh với
những kinh nghiệm Ngài đã từng trải qua và điều chỉnh tìm con đường đi hợp lý
hơn khi thấy những gì mình đang thực hành không có hiệu quả. Mặc dù đã dồn hết
sinh lực vào con đường thực nghiệm tâm linh, khi nhận ra con đường ấy không hiệu
quả, lệch lạc, Ngài sẵn sàng dừng lại, chuyển hướng thực hành mới.
Với kinh nghiệm quý báu từ việc thực
hành các hạnh tu ép xác, Ngài có sự chuyển biến đáng kể trong nhận thức và trải
nghiệm tâm linh. Từ bỏ cực đoan ép xác khổ hạnh, như đã từng từ bỏ sự rập khuôn
theo thầy trong phương pháp thiền định thuần túy, Ngài quyết định tìm lối đi
riêng cho mình. Ngài bắt đầu kết hợp khả năng tư duy quán sát và định lực để
nhìn sâu vào bản chất của mọi sự vật hiện tượng. Đây là bước ngoặt đáng kể phản
ánh khả năng sáng tạo trong nhận thức và thực nghiệm của Sa-môn Gotama. Và đây
cũng là bước ngoặt có tính lịch sử trong hệ thống triết học và tôn giáo Ấn Độ,
tạo ra một hướng mới mà không chỉ biết tuân phục theo truyền thống.
Sa-môn Gotama dung hợp tất cả các lý
thuyết học được và những phương pháp thực hành qua thể nghiệm bản thân từ các cực
đoan vừa được trình bày, và mở ra một con đường thực hành tâm linh mới trong đó
cả hoạt động nhận thức và năng lực định tâm đều đóng vai trò quan trọng. Với sự
tinh tấn không ngừng nghỉ và có phương pháp, Sa-môn Gotama đã phát triển kỹ
năng định tâm và khả năng quán chiếu tâm thức đến mức cao nhất và thuần thục nhất,
đạt được trí tuệ giải thoát tối thượng, trở thành bậc Giác Ngộ Thích-ca Mâu-ni.Đến
đây, câu hỏi “làm sao thoát khổ?” đã có câucâu trả lờithỏa đáng, rốt ráo trên cả
hai phương diện tri thức và thực nghiệm. Đó là con đường chuyển hóa tâm thức bằng
phương pháp thanh lọc thân tâm, trau giồi định lực và phát triển trí tuệ.
Như vậy, trên hành trình đi tìm chân lý,
Sa-môn Gotama đã tiếp thu nguồn tri thức của thời đại,đặc biệt thông qua quá
trình học trực tiếp với hai vị thầy tâm linh cũng như thực hành thiền định và
thực hành khổ hạnh như các đạo sĩ thời bấy giờ. Với những tri thức học được, với
nhận định đúng đắn về các triết thuyết và các phương pháp thực hành tâm linh, với
kinh nghiệm cá nhân và với sự nỗ lực thực hành và nỗ lực từ bỏ đúng cách,
Sa-môn Gotama đã sử dụng các kỹ năng thiền định đã học được, vận dụng hoàn toàn
sáng tạo trong cách thanh lọc tâm, điều phục tâm và chuyển hóa tâm. Ngài đã
sáng tạo trong việc vận dụng nguồn tri thức của nền giáo dục đương thời, từ các
vị thầy Bà-la-môn đến kinh nghiệm tự thân để phát triển trí tuệ giải thoát.
Vai trò của tri thức và sáng tạo
Cho đến thế kỷ thứ VItr.TL, khả năng nhớ
hiểu kinh điển Veda và thông thạo kỹ
năng tế lễvẫn được đề cao trong môi trường tri thức Ấn Độ. Tuy nhiên, theo
Dasgupta (1922, tr.13), vào khoảng giữa thế kỷ thứ VI tr.TL, sự đề cao đó dần dần
bị thay thế bởi một chủ trương mới, đó là thiền định thuần túy. Đại diện tiêu
biểu cho xu hướng này chính là Ālāra Kālāma và Uddaka Rāmaputta với khả năng đạt
đến trình độ định tâm cao nhất trong số các đạo sĩ đương thời. Tuy nhiên, theo
Phật giáo, tâm định tự nó không phải là cứu cánh, mà chỉ là phương tiện và là nền
tảng để đưa đến cứu cánhgiác ngộ giải thoát. Đồng thời một kết luận khác có thể
rút ra từ bài viết này rằng, mặc dù trí tuệ được nói đến trong kinh điển Phật
giáo thời kỳ đầu không đơn thuần là tri thức, nhưng tri thức và sáng tạo góp phần
quan trọng như là một bệ phóng trên con đường hướng đến và đạt được trí tuệ.
Qua quá trình tu tập của Sa-môn Gotama
với sự hướng dẫn của hai vị đạo sư Bà-la-môn, chúng ta không thể phủ nhận sự tồn
tại của một môi trường tri thức gây ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức của Ngài,
cũng như tất cả những ai sống trong môi trường văn hóa đó, bởi vì “tri thức không thể tách ly môi trường sống”
(Mitchell & Sackney, 2000, tr.33).
Điều cần nhấn mạnh ở đây là sự khác nhau trong quá trình tiếp nhận cũng như thái
độ học đạo củaSa-môn Gotamavới hai vị thầy của Ngài so với số đông những người
kháctrong môi trường tri thức đó. Sự rẽ lối của Đức Phật – lúc bấy giờ là
Sa-môn Gotama, sau khi đã đạt đến trình độ nhận thức và tâm linh ngang bằng thầy
mình, là một minh họa cho sự khác biệt đó. Thay vì chỉ một chiều chấp nhận những
gì thầy truyền trao, Sa-môn Gotama có sự sáng tạo và bản lĩnh khi dám từ giã những
bậc thầy tâm linh thời danh và đây là nền tảng cho quá trình chứng đạt quả vị giác
ngộ tối thượng diễn ra sau đó với sự nỗ lực không ngừng của Ngài.
Chúng ta có thể nói rằng, trong khi đề
cao cả tri thức Vedavàchuyên tâm thực
hành thiền định thuần túy dựa trên kinh nghiệm tự thân vốn là hai khuynh hướng
đối lập tồn tại trong giới trí thức và hiền sĩ của xã hội Ấn Độ bấy giờ,Đức Phậtlà
người đầu tiênthành công trong việc kết hợp một cách sáng tạo giữa thực hành
thiền định thuần túy và hoạt động nhận thức trong quá trình hướng đến giác ngộ.
Đây là nền tảng làm nên ý nghĩa trung đạo
hàm chứa trong bài học thành đạo của Đức Phật.Trên cơ sở này, chúng ta có thể lập
luận rằng tri thức và sáng tạo có thể được xem là các yếu tố thánh thiện không
chỉ góp phần quan trọng trong quá trình tiếp thu kinh nghiệm của người đi trước
và những bài học thực tế của cuộc sống, mà còn là cơ sở để đưa con người tiến gần
đến địa vị giác ngộ giải thoát hơn.
Chúng ta có thể lấy một dẫn chứng cho lập
luận này từ kinh điển Pāli. Lời dạy của Đức Phật sau khi thành đạo được ghi lại
trong Kinh Tậpphản ánh khá rõ quan điểm
của Ngài về sự kết hợp giữa hoạt động tư duy và thiền định thuần túy.Khi được hỏi
giải thoát bằng trí tuệ cần được hiểu như thế nào, Đức Phật trả lời rằng tỉnh
thức và thanh lặng để nhìn nhận rõ các trạng thái tâm thức là giải thoát bằng
trí tuệ (Kinh Tập, câu số 1107).Đối với
Ngài, việc dùng định lực để thanh lọc tâm, phát triển và duy trìtỉnh thức nhằm
hướng đến nguồn tuệ giác và đạt được trí tuệ giác ngộ ấy là vô cùng quan trọng.
Trên nền tảng của sáng tạo, Đức Phật thiết lập một hệ thống triết lý và phương
pháp thực hành đặc trưng để đạt đến trí tuệ siêu tuyệt. Có thể xác quyết rằng,
yếu tố sáng tạo là sợi chỉ thắm xuyên suốt quá trình tu chứng và hành đạo của
Ngài sau này.
Thêm nữa, như nhiều bài kinh ghi nhận, trong
những cuộc đối thoại với các đạo sư Bà-la-môn, chúng ta đều thấy Đức Phậthiểu
biết rất rõ về các phương pháp thực hành của họ. Mặc dù điều này có thể là biểu
hiện của một trí tuệ siêu vượt của một bậc siêu phàm không cần học cũng có thể
tinh thông nhiều điều, sự thật này không thể loại trừ khả năng Đức Phật đã có
quá trình tích lũy một tri thức sâu rộng về cả các phương pháp lẫn nền tảng triết
lý đằng sau các phương pháp thực hành đó. Một dẫn chứng sinh động nhất là trong
các bài pháp,Đức Phậtthường xuyên sử dụng chính xác ngôn từ và khái niệm quen
thuộc với các đạo sư ấy trong những ngữ cảnh cụ thể (ví dụ như các khái niệm
liên quan đến thiền định thuần túy nói trên).Từ nguồn kinh điển Pāli, chúng ta
thấy Đức Phật đã nhiều lần sử dụng tri thức về triết học Veda để chỉ ra những hạn chế trong tư tưởng đó và làm mới nguồn triết
thuyết vốn được cho là truyền thống bằng chính trí tuệ của Ngài (Trường bộ kinh,số
11,kinh Kevaddha; số 3,kinh Ambattha; Tăng chi bộ kinh, chương V, kinh số 192:kinh Bà-la-môn
Dona). Trong rất nhiều bài pháp được ghi lại trong kinh điển, Đức Phật thường
đề cập đến các vị thần linh trong triết thuyếtVeda như Prajapati, Sakka (Trường bộ kinh, số 19, số 21), Yama(Trung
bộ kinh,số 130; Tăng chi bộ kinh, 8.43) và Brahman(Trường bộ kinh, số 19; Trung
bộ, số 26;Pháp cú,câu 391, 406;kinh Phật thuyết như vậy)và các tên tuổi như
Atthaka, Vamaka, Vamadeva, Vessamitta, v.v…(Trường bộ kinh, số 3).
Những gì vừa trình bày ở trên cho phép
chúng ta hiểu rằng, Đức Phật là người biết kết hợp nhuần nhuyễn tri thức tiếp
thu bên ngoài và kinh nghiệm tự thân trong quá trình học và thực hành để thành
tựu đạo quả giác ngộ mà sự kiện thành đạo của Ngài là một minh chứng sống động
nhất. Ryan & Cooper (2000) cho rằng “tri
thức không thể truyền trực tiếp từ người thầy cho trò, mà người học phải tự kiến
tạo và tái kiến tạo tri thức khi tiếp thu một nguồn thông tin mới” (tr.346).
Điều này không chỉ đúng trên phương diện tích lũy tri thức thế thường mà còn
chính xác cả trong phương diện học và thực hành tâm linh. Hơn nữa, “kiến tạo tri thức là một quá trình phức tạp
gồm các mối liên kết các nguồn tri thức mà người học thường xuyên tái kiến tạo
trong môi trường sống” (Prestine
& LeGrand, 1991, tr.67). Điều này cho phép chúng ta hiểu rằng trong từng
giai đoạn của hành trình tâm linh cho đến khi chứng đạt trí tuệ tròn đầy, Đức
Phật luôn vận dụng những tri thức thu thập được, cùng với sự thể nghiệm các trạng
thái chứng đạt được qua thực hành thiền định, với trí tuệ sáng tạo đặc biệt,
Ngài luôn tìm hướng đi mới để chứng nghiệm các cấp độ tâm linh cao hơn. Cuối
cùng, Ngài đạt đến đỉnh cao nhất trên lộ trình tâm linh: thành tựu trí tuệ giải
thoát với ca khúc khải hoàn qua sự kiện thành đạo. Đạo quả viên mãn của Đức Phật
là thành quả của quá trình nhận thức và sáng tạo, nỗ lực và kiên định phi thường
của Ngài trong quá trình quán sát và chuyển hóa tâm thức.
Tóm lại, sự kiện thành đạo của Đức Phậtlà
kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc, có hệ thống và có phương pháp.
Quá trình đó trải dài theo thời gian qua nhiều kiếp sống mà trong đó giai đoạn
ngắn nhất chúng ta có thể hiểu được phần nào là kiếp sống cuối cùng của Ngài
trước khi thành chánh giác. Trong giai đoạn này, nỗ lực tự thân của Ngài là hạt
nhân chính trong chuỗi dài nhiều nhân duyên thánh thiện. Và trong nỗ lực đó, tri
thức và sáng tạo đóng một vai trò quan trọng, là yếu tố chính trong quá trình
dung hợp một cách minh triết khả năng nhận thức và thực nghiệm tâm linh của Sa-môn
Gotama trên con đường hướng đến đạt được quả vị giác ngộ giải thoát tối thượng.
Ghi
chú
Tất cả các phần trích dẫn trong bài viết
này do người viết dịch từ các tác phẩm và bản dịch tiếng Anh được liệt kê trong
mục Tài liệu tham khảo.
Tài liệu tham khảo
Bodhi,
Bhikkhu (2000). The connected discourses of the Buddha: A new translation of
the Samyutta Nikāya[Tương ưng bộ
kinh].Boston: Wisdom Publications.
Dasgupta,
S. (1922). A history of Indian philosophy. (Vol. 1). Cambridge: Cambridge University Press.
Hare,
E. M. (1988). The book of the gradual sayings: A translation of the
Anguttara Nikāya[Tăng chi bộ kinh].
Oxford: Pali Text Society.
Mitchell,
C., & Sackney, L. (2000). Profound
improvement: Building capacity for a learning community. Lisse,
Netherlands: Swets & Zeitlinger.
Nanamoli,
Bhikkhu,& Bodhi, Bhikkhu. (1995). The Middle length discourses of the
Buddha: A new translation of the Majjhima Nikāya[Trung bộ kinh].Boston: Wisdom Publications.
Norman,
K. R. (1995). The group of discourses of the Buddha: A translation of the
Sutta-Nipata[Kinh Tập].Oxford:
Pali Text Society.
Prestine,
N.A.,& LeGrand, B.F. (1991). Cognitive learning theory and the preparation
of educational administrators. Educational Administration Quarterly,
Vol. 27 No.1, pp.61-89.
Ryan,
K., & Cooper, J. M. (2000). Those who can, teach (9thed.).
Boston: Houghton Mifflin.
Schumann, H. W. (1989). The Historical Buddha. London: Penguin.
Thanissaro, Bhikkhu (2005). This was said (by the Buddha)[Kinh Phật thuyết
như vậy]. Truy cập tại:http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/iti/iti.4.100-112.than.html#iti-109
Walshe,
M. (1987). The long discourses of the Buddha: A translation of the Dīgha
Nikāya[Trường bộ kinh]. Boston:
Wisdom Publications.