Định luật của nghiệp
dinh luat
Định luật của nghiệp (The Law of
Karma)
Dr. Peter
Della Santina - Thích Nữ Tịnh Quang dịch
Chúng ta đã biết đến một
cặp tư tưởng tương quan với nhau bao gồm trong giáo lý Phật giáo, đó là hai học
thuyết Nghiệp và Tái sinh. Hai tư tưởng này có sự liên quan mật thiết, nhưng vì
chủ đề là một lĩnh vực khá rộng, hôm nay chúng tôi sẽ bắt đầu giải thích với
các ý tưởng về Nghiệp, chủ đề Tái sinh sẽ dành trong bài giảng khác.
Chúng ta biết rằng những
gì dẫn khởi chúng ta trong vòng luân hồi sinh tử (samsara) là tâm ô nhiễm- tham
muốn, sân hận và thiếu hiểu biết. Chúng ta đề cập về điều này khi chúng ta bàn
về Chân lý thứ hai - sự thật về nguyên nhân của đau khổ. Phiền não ô nhiễm là
những gì mà tất cả chúng sanh trong vòng luân hồi đều tham dự, cho dù chúng ta
bàn đến con người hay động vật hoặc chúng sinh ở trong các cảnh giới khác mà
chúng ta không thể biết đuợc. Trong cảnh giới này, tất cả chúng sinh là như
nhau, nhưng đối với tất cả chúng sinh chúng ta có thể hiểu rằng có rất nhiều sự
khác biệt. Ví dụ, một số người trong chúng ta giàu có, một số khác thì nghèo
khó, một số người khỏe mạnh, những người khác thì bị bệnh tật và vv. Có rất nhiều
sự khác biệt giữa các chúng sinh, và thậm chí có nhiều sự khác biệt hơn giữa
thú vật và con người. Những sự khác biệt này là chiêu cảm bởi nghiệp.
Tất cả chúng ta đều có
tham, sân và si, vốn dĩ đối với tất cả chúng sinh, nhưng các nhân duyên đặc
trưng mà trong đó chúng ta tìm thấy chính mình là kết quả của biệt nghiệp tạo
thành hoàn cảnh mà chúng ta hiện diện, hoàn cảnh của chúng ta có thể là giàu
có, khỏe mạnh, và vân vân. Những hoàn cảnh này được quyết định bởi nghiệp.
Chính trong ý nghĩa này mà nghiệp giải thích sự khác biệt giữa các chúng sinh.
Nó giải thích tại sao có người may mắn trong khi những người khác thì kém may mắn,
có người thì giàu có hạnh phúc, người khác lại bất hạnh. Đức Phật đã trình bày
cụ thể rằng nghiệp tạo nên sự khác biệt giữa các chúng sinh. Bạn cũng có thể nhớ
lại rằng sự hiểu biết về nghiệp như thế nào tác động sự ra đời của chúng sinh
trong hoàn cảnh hạnh phúc hay không hạnh phúc - sự hiểu rõ đối với chúng sinh
lưu chuyển như thế nào từ tình trạng hạnh phúc đến tình trạng bất hạnh, và ngược
lại, từ hoàn cảnh bất hạnh đến hạnh phúc như là kết quả của nghiệp - là một phần
kinh nghiệm của Đức Phật vào đêm giác ngộ của Ngài. Đó là nghiệp, biểu lộ những
những hoàn cảnh mà chúng sinh đang hiện hữu.
Có nhiều sự luận bàn về
các chức năng của nghiệp, chúng ta hãy xem xét kỹ hơn đối với những gì là nghiệp.
Chúng ta hãy minh định nghiệp. Có lẽ chúng ta có thể định nghĩa nghiệp tốt nhất
bằng sự xác định đầu tiên đó là những gì không phải là nghiệp. Nó luôn là trường
hợp mà chúng ta thường thấy mọi người hiểu lầm ý tưởng về nghiệp. Điều này đặc
biệt đúng trong việc sử dụng thuật ngữ bình thường hàng ngày của chúng ta.
Chúng ta hay nghe người khác nói rằng kẻ ấy không thể thay đổi hoàn cảnh của y
vì nghiệp chướng của chính y. Trong ý nghĩa này, nghiệp trở thành một loại của
sự thoát ly thực tế. Nó sẽ trở thành tương tự như tiền định hay định mệnh. Đây
hoàn toàn không phải là sự hiểu biết chính xác về nghiệp. Có thể sự hiểu lầm đối
với nghiệp như thế đã hình thành bởi các ý niệm thông thường mà chúng ta đã gán
cho may mắn và số phận. Nó có thể là vì lý do này mà ý tưởng về nghiệp đã bao
trùm tư tưởng phổ biến với khái niệm của tiền định. Nghiệp không phải là số mệnh
hay tiền định.
Nếu nghiệp không phải là
số mệnh hay tiền định thì nó là gì? Chúng ta hãy nhìn vào thuật ngữ của chính
nó. Karma có nghĩa là tạo tác, nghĩa là “hành động". Ngay lập tức chúng ta
có một sự nhận diện đối với ý nghĩa thực sự của nghiệp không phải là số mệnh,
vì karma là hành động. Nó là động lực. Nhưng đúng hơn chỉ đơn giản là hành động
bởi vì nó không phải là tác động cơ học. Nó không phải là hành động vô thức hoặc
không tự nguyện. Nó là hành động tác ý, có ý thức, có chủ ý, cố ý. Nó chủ ý như
thế nào? Hành động sẽ làm nhân duyên hoặc quyết định tình trạng của chúng ta?
Đó là bởi vì mọi hành động phải có một phản ứng, một hiệu ứng. Sự thật này đã
được thể hiện liên quan đến vũ trụ vật lý học của nhà vật lý vĩ đại Newton, người
thành lập định luật với tuyên ngôn rằng mọi hành động phải có một phản ứng
ngang bằng và đối lập. Trong lĩnh vực đạo đức của các hành động có ý thức,
chúng ta có một đối tác định luật vật lý của hành động và phản ứng, định luật
mà tất cả sự cố ý, có tạo tác phải có hiệu lực. Đây là lý do tại sao đôi khi
chúng ta nói về karma – vipaka (nghiệp báo), hành động có chủ ý và có hiệu lực
chín muồi của nó, hay karma – phala (nghiệp quả), hành động cố ý và kết quả của
nó. Đây là khi chúng ta nói về hành động có chủ ý cùng với hiệu ứng hoặc kết quả
của nó khi bàn về định luật của nghiệp.
Chúng ta có thể hiểu bằng
ý nghĩa của cách giới thiệu chung này rằng nghiệp có thể thuộc về hai loại - thiện
nghiệp hay nghiệp tốt và bất thiện nghiệp hay nghiệp xấu, Như thế chúng ta
không phải hiểu lầm với lối diễn tả này đối với nghiệp, nó rất hữu ích cho
chúng ta để nhận ra thuật ngữ ban đầu. Trong trường hợp này, nó là kushala hoặc
akushala karma, nghiệp mang ý nghĩa là tốt hay không tốt. Để hiểu những thuật
ngữ được sử dụng như thế nào, điều quan trọng là chúng ta biết được ý nghĩa thực
sự của kushala (thiện) và akushala (bất thiện). Kushala có nghĩa là thông minh
hay khéo, trong khi akushala có nghĩa là không thông minh, không khéo léo. Điều
này giúp chúng ta nhận rõ các thuật ngữ đang được sử dụng, không phải nằm trong
thuật ngữ tốt và xấu nhưng trong ý ngữ khéo léo và vụng về, ý ngữ của thông
minh và không thông minh, ý ngữ của điều thiện và bất thiện. Như thế điều thiện
và bất thiện là như thế nào? Thiện, theo nghĩa là những hành động mang lại lợi
ích cho chính mình và người khác, những hành động đó không chỉ vượt ra khỏi
tham lam, sân hận và si mê, nhưng không ngoài sự quên mình, lòng nhân ái, lòng
từ bi và trí tuệ.
Người ta có thể hỏi làm
thế nào để biết được một hành động thiện hay bất thiện sẽ tạo nên hạnh phúc hay
bất hạnh. Thời gian là câu trả lời. Chính Đức Phật đã trả lời câu hỏi này. Ngài
đã giải thích rằng, khi một hành động bất thiện chưa mang lại kết quả đau khổ,
người ngu ngốc sẽ cho rằng đó là những hành động tốt. Nhưng khi hành động bất
thiện phát sinh hoa trái của đau khổ thì y mới nhận ra rằng hành động này là bất
thiện. Tương tự như vậy, khi một hành động lương thiện chưa mang lại kết quả của
hạnh phúc, một người tốt cũng có thể cho rằng hành động này bất thiện. Khi nó
phát sinh hoa trái của hạnh phúc, y mới nhận ra rằng hành động này là tốt. Vì vậy,
người ta cần nên đánh giá hành động thiện và bất thiện từ quan điểm của hiệu quả
lâu dài. Rất đơn giản, hành động thiện dẫn đến hạnh phúc cuối cùng cho chính
mình và những người khác, trong khi các hành động bất thiện có kết quả ngược lại,
hậu quả là đau khổ cho chính mình và những người khác.
Cụ thể, những hành động bất
thiện có thể tránh được liên quan đến ba cửa hay phương tiện của hành động là
thân, khẩu và ý. Có ba hành động bất thiện thuộc về thân, bốn thuộc về miệng,
và ba thuộc về ý có thể từ bỏ. Ba hành động bất thiện của thân cần phải tránh
là sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Bốn hành động bất thiện của lời nói cần phải
tránh là nói dối, nói vu khống, nói lời thô lỗ và nói những lời độc hại. Ba
hành động bất thiện của ý cần nên tránh là tham, sân và si. Bằng cách tránh mười
hành động bất thiện này chúng ta sẽ tránh được những hậu quả của chúng. Các
hành động bất thiện tạo ra đau khổ với kết quả của chúng. Kết quả của những
hành động bất thiện có thể có các sự biểu hiện khác nhau. Quả chín hoàn toàn của
các hành động bất thiện bao gồm việc tái sinh trong các cõi thấp kém, cảnh giới
của đau khổ - địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Nếu những hành động bất thiện
không đủ dẫn đến tái sinh trong các cõi thấp, chúng sẽ dẫn đến những nỗi bất hạnh
trong cuộc sống làm người. Ở đây chúng ta có thể nhìn thấy ngay nơi công việc theo
nguyên tắc của một nhân dẫn đến một hiệu ứng tương tự. Ví dụ, việc sát hại thường
xuyên bị thúc đẩy bởi ác ý và sự giận dữ và kết quả cướp mất cuộc sống của các
chúng sinh khác sẽ dẫn đến sự tái sinh trong cõi địa ngục nơi mà kinh nghiệm của
người đó được bão hòa bởi sự giận dữ và ác ý, và nơi có thể y bị giết một cách
lặp đi lặp lại. Nếu việc giết hại là không đủ nặng hoặc thường xuyên để dẫn đến
sự tái sinh vào địa ngục, nghiệp sát hại này sẽ dẫn đến tuổi thọ ngắn khi làm
con người, bị chia lìa những người thân yêu, sợ hãi hoặc hoang tưởng. Ở đây
chúng ta cũng có thể thấy hiệu quả là tương đương với nguyên nhân. Sát hại rút
ngắn cuộc sống của người khác, tước đoạt người thân yêu của người khác và v.v…,
và vì vậy nếu chúng ta sát hại, chúng ta sẽ chịu trách nhiệm để trải nghiệm những
hiệu ứng này. Tương tự như vậy, việc trộm cắp thì được phát sinh trong tâm ô
nhiễm ham muốn, có thể dẫn đến sự tái sinh như một con ma đói hoàn toàn thiếu
thốn đối với các vật thể mong muốn. Nếu điều này không đủ để dẫn đến sự tái
sinh như một con ma đói, nó sẽ dẫn đến sự đói nghèo, phụ thuộc vào người khác để
kiếm sống của một kiếp làm người và v.v… Hành vi tà hạnh tình dục có kết quả
đau khổ hừng hực hay cuộc hôn nhân không hạnh phúc.
Trong khi hành động bất
thiện tạo ra kết quả bất thiện - đau khổ, hành động thiện đưa đến quả lành - hạnh
phúc. Điều này có thể giải thích hành động thiện trong hai cách. Một cách đơn
giản có thể coi hành vi thiện như việc tránh các hành động bất thiện, tránh sát
sinh, trộm cắp, tà dâm và phần còn lại. Hoặc hành động thiện là những hành vi
tích cực. Ở đây có thể liên quan đến sự đặc trưng về hành vi thiện bao gồm bố
thí, gìn giữ đức hạnh, thiền định, sự tôn kính, phục vụ, tạo phước, vui mừng nơi
công đức của người khác, nghe Pháp, dạy Pháp và tu tập. Cũng giống như hành động
bất thiện phát sinh đau khổ, những hành động lành mạnh mang lại lợi ích. Những
phản ứng ở đây cũng tương tự đối với các hành động. Ví dụ, bố thí dẫn đến sự
giàu có. Nghe Pháp đưa đến trí tuệ. Những việc làm thiện có những kết quả của
chúng giống như việc làm bất thiện tạo nên kết cục không tốt.
Nghiệp, là thiện hay bất
thiện, được biến đổi bởi các điều kiện dưới những hành động được hình thành.
Nói cách khác, một hành động thiện hay bất thiện có thể thêm sức mạnh nhiều hoặc
ít còn phụ thuộc vào điều kiện nó được thực hiện. Điều kiện xác định trọng lượng
hoặc sức mạnh của nghiệp (nghiệp lực) có liên quan đến chủ thể - người tạo tác,
và liên quan đến đối tượng- việc tạo tác đã được hoàn thành. Vì thế các điều kiện
xác định trọng lượng của nghiệp được ứng dụng với chủ thể và đối tượng của hành
động. Cụ thể, chúng ta lấy ví dụ về sát hại, để quyết định hành động sát hại có
sự hoàn tất và chủ lực hoàn thành, năm điều kiện phải có mặt: đối tượng bị giết
là một chúng sinh (hữu tình), biết đó là sự tồn tại của một chúng sinh, có ý định
giết chúng sinh, dùng phương tiện hay hành động giết chết chúng sinh đó, và dẫn
đến cái chết của chúng sinh đó. Cũng vậy, ở đây chúng ta có thể thấy các điều
kiện chủ thể và đối tượng. Các điều kiện chủ thể là nhận biết đó là chúng sanh,
ý định giết và hành động giết. Các điều kiện khách quan (đối tượng) là sự hiện
diện của chúng sinh và cái chết của chúng sinh ấy.
Tương tự như thế, có năm
điều kiện biến chuyển nghiệp lực: hành động thường xuyên, lặp đi lặp lại, hành
động đã thực hiện với ý định và quyết tâm lớn; hành động đã thực hiện mà không
hối tiếc; hành động đã thực hiện đối với những người đạt được những phẩm chất
phi thường, và hành động đã thực hiện đối với những người làm điều thiện trong
quá khứ. Ở đây cũng có những điều kiện chủ quan và khách quan. Điều kiện chủ
quan là hành động liên tục, hành động được thực hiện với ý định, và hành động
thực hiện mà không hối tiếc. Nếu người ta làm một việc bất thiện mà cứ lặp đi lặp
lại với một quyết tâm lớn mà không hối tiếc, năng lực của hành động sẽ được
tăng cường. Điều kiện khách quan là đặc trưng của đối tượng được thực thi và bản
chất của mối quan hệ này. Nói cách khác, nếu người ta tạo tác một hành vi thiện
hay bất thiện đối với hữu tình có phẩm chất vĩ đại như các bậc A-la-hán, hay Đức
Phật thì hành động thiện hay bất thiện được thực hiện sẽ có năng lượng lớn hơn.
Cuối cùng sức mạnh của hành động thiện hay bất thiện được tạo tác đối với những
người được hưởng phước từ quá khứ, chẳng hạn như cha mẹ, thầy cô giáo và bạn bè
của người đó (trong hiện kiếp) sẽ tốt hơn…
Những nhân duyên khách
quan và chủ quan cùng xác định nghiệp lực. Điều này thật quan trọng, bởi vì sự
nhận thức này sẽ giúp chúng ta hiểu rằng nghiệp không chỉ đơn giản là một vấn đề
của đen và trắng, hoặc xấu hay tốt. Nghiệp là hành động đạo đức và trách nhiệm
đạo đức. Nhưng sự vận hành của quy luật của nghiệp được điều chỉnh rất tinh vi
và cân bằng với nhân quả tương ứng, vì thế khi xét đến các điều kiện chủ quan
và khách quan chúng ta có thể xác định bản chất của một hành động. Điều này đảm
bảo rằng kết quả của hành động là ngang bằng và tương tự như bản chất của
nguyên nhân.
Nghiệp quả có thể có tác
dụng trong thời gian ngắn hoặc trong thời gian dài. Theo truyền thống, chúng ta
chia nghiệp thành ba loại có liên quan đến số lượng của thời gian về các kết quả
của hành động với chính sự biểu hiện. Nghiệp có thể biểu hiện ảnh hưởng của nó
trong đời sống này hoặc trong đời sau, hoặc biểu hiện trong vài kiếp sống sau nữa.
Khi nghiệp biểu hiện kết quả của nó trong đời sống này, chúng ta có thể nhìn thấy
kết quả của nghiệp trong một thời gian tương đối ngắn. Loại nghiệp này thì dễ
dàng kiểm chứng bởi bất kỳ ai trong chúng ta. Ví dụ, khi một người nào đó không
chịu học hành, khi một ai đó đam mê những trò tiêu khiển có hại như rượu và ma
túy, khi ai đó bắt đầu ăn cắp để phục vụ cho những thói quen có hại của chính
mình; quả báo sẽ được biểu hiện trong một thời gian ngắn. Họ sẽ nhận chịu việc
mất việc làm, bạn bè, và sức khỏe và v.v… Chúng ta không thể nhìn thấy quả báo
lâu dài của nghiệp, nhưng Đức Phật và các đệ tử của Ngài, những vị đã có tuệ
nhãn có thể cảm nhận trực tiếp được những quả báo dài hạn. Ví dụ, khi ngài Mục
Kiền Liên bị những tên cướp đánh đến chết, Đức Phật đã bảo rằng sự cố này là quả
báo mà Mục Kiền Liên đã tạo tác trong kiếp trước khi ông đã đưa cha mẹ già của
mình vào rừng và đã đánh chết họ, sau đó thì thông báo rằng họ đã bị giết bởi bọn
cướp. Sự ảnh hưởng của hành động bất thiện này được thực hiện trong nhiều đời sống
trước đã chịu báo ứng duy nhất trong đời sống cuối cùng của Mục Kiền Liên. Vào
lúc chết chúng ta phải rời khỏi tất cả mọi thứ - tài sản và những người thân
yêu của chúng ta, nhưng nghiệp của chúng ta sẽ đi cùng chúng ta như một cái
bóng. Đức Phật đã nói rằng không nơi nào trên trái đất hay trên trời cao mà người
ta có thể thoát khỏi nghiệp của chính mình. Vì vậy, khi nhân duyên đúng thời,
phụ thuộc vào tâm và thân, kết quả của nghiệp sẽ biểu hiện chính nó giống như sự
phụ thuộc vào một số điều kiện nào đó mà trái xoài sẽ xuất hiện trên một cây
xoài. Chúng ta có thể thấy rằng ngay cả trong thế giới của thiên nhiên, có những
tác dụng nhất định cũng phải mất nhiều thời gian để xuất hiện hơn những cái
khác. Chẳng hạn, nếu chúng ta trồng hạt giống đu đủ, chúng ta sẽ có được những
quả đu đủ trong thời gian ngắn hơn là chúng ta gieo hạt giống sầu riêng. Tương
tự như vậy, ảnh hưởng của nghiệp biểu hiện trong chu kỳ ngắn hạn hoặc dài hạn.
Ngoài hai loại nghiệp: thiện
nghiệp và bất thiện nghiệp, chúng ta nên chú ý đến vô ký nghiệp - nghiệp trung
tính hoặc vô hiệu quả. Vô ký nghiệp là nghiệp mà không có hậu quả đạo đức hoặc
vì chính bản chất của hành động hầu như không có tác dụng về đạo đức, hoặc bởi
vì nó được thực hiện không có cố ý và một cách vô tình. Ví dụ, ngủ, đi bộ, hít
thở, ăn uống, làm nghề thủ công và v.v… Ở chúng không có hậu quả đạo đức. Tương
tự như vậy, hành động không có chủ tâm là vô ký nghiệp. Nói cách khác, nếu người
ta vô tình đạp phải một con côn trùng, trong tình trạng là không ý thức về sự tồn
tại của nó, điều này cũng tạo thành vô ký nghiệp, vì không có ý định - yếu tố
chủ ý là không có.
Những lợi ích về sự nhận
thức định luật của nghiệp là sự hiểu biết khích lệ con người thay đổi những
hành vi bất thiện đưa đến hậu quả khổ đau cho mình. Một khi chúng ta hiểu rằng
trong cuộc sống của chính mình, mỗi hành động sẽ có một phản ứng tương đương và
công bằng, một khi chúng ta hiểu rằng chúng ta sẽ trải nghiệm kết quả của hành
động đó, tốt hoặc xấu, chúng ta sẽ kiềm chế hành vi bất thiện, không muốn trải
nghiệm những kết cục của các hành động bất thiện. Và tương tự, sự hiểu biết rằng
những hành động thiện đưa đến hạnh phúc với kết quả của chúng, chúng ta sẽ trau
dồi những hành vi thiện này. Sự phản chiếu về định luật của nghiệp, của hành động
và sự phản ứng trong lĩnh vực đạo đức khuyến khích chúng ta từ bỏ những hành động
không lành mạnh và trau dồi những hành động lành mạnh.
Nguồn:
http://www.buddhanet.net/e-learning/karma1.htm
Trích từ
"Fundamentals of Buddhism", của Dr. Peter Della Santina