Giới thiệu kinh điển Phật giáo Đại thừa
gioi thieu
GIỚI THIỆU KINH ĐIỂN PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA
“Introduction to the Selections from Mahāyāna Buddhism”
Peter Harvey & Thich Tue Sy | Dịch Việt: huongtichbooks
1. Các đoạn văn đánh dấu ‘M.’ trong sách này tiêu biểu kinh điển truyền
thống Phật giáo Đại thừa. Không như Phật giáo Thượng tọa bộ (Theravāda),
Đại thừa không tiêu biểu cho một trường phái riêng hay cộng đồng tăng
lữ nào. Đúng hơn, đó là một phong trào rộng rãi bao gồm nhiều trường
phái và cách tiếp cận khác nhau, triển khai các phương pháp diễn đạt về
giáo pháp của đức Phật tập trung vào bi và trí. Các bộ Kinh đại thừa bắt
đầu được phổ cập vào thế kỷ thứ nhất trước TL. Nguồn gốc của nó không
gắn liền với bất cứ tên tuổi cá nhân nào, cũng không được liên kết với
duy chỉ một cộng đồng tăng lữ sơ kỳ nào, dù bộ phái chính được biết vẫn
là Đại chúng bộ (Mahā-sāṃghika). Nó phát sinh ở vùng đông-nam Ấn-độ,
phát triển qua vùng tây-nam và cuối cùng đến vùng tây-bắc.
2. Những đặc điểm then chốt của Đại thừa
Như
mọi hình thức Phật giáo, Đại thừa bao gồm các giáo pháp hướng đến những
người mưu tìm trước mắt sự giảm thiểu các lo toan căng thẳng thường
ngày trong cuộc sống: làm cách nào để sống bình thản, vị tha và hòa ái
hơn, và đây cũng là cách để phát khởi thiện nghiệp dẫn đến đời sau tốt
đẹp tương ứng. Tuy nhiên một cách rốt ráo, sự an lạc thường hằng tùy vào
sự vượt ra khỏi những thứ vô thường và hữu vi. Trong Phật giáo, có
người đặt mục tiêu trở thành Thánh giả (A-la-hán; Skt, Pāli: arahant),
là vị đã chấm dứt các tham trước, sân và si vốn dẫn đến tái sinh với già
lão bệnh tử và các thống khổ về tinh thần. Đây là cứu cánh của những tu
sĩ Phật giáo Theravāda. Có người muốn trở thành Độc giác (Skt.
pratyeka-buddha; Pāli, pacceka-buddha), vị có trí tuệ cao hơn A-la-hán
(xem *LI.3 trên), nhưng khả giáo hóa hạn chế. Và có người muốn trở thành
Chánh Đẳng Giác (Skt. samyak-sambuddha; Pāli, sammā-sambuddha), vị có
trí tuệ siêu việt, vận dụng trí tuệ và phương tiện, với tâm đại bi, hóa
độ vô lượng chúng sanh bằng uy lực và giáo pháp của Ngài. Đây là mục
đích tối hậu của Phật giáo Đại thừa.
Tổng quan các đặc điểm then chốt của PG Đại thừa:
•
Bi tâm là trung tâm vận chuyển của thánh đạo: bi tâm là ý nguyện giảm
thiểu khổ đau trước mắt của mọi người, khuyến phát họ hành trì sao cho
giảm thiểu các đau khổ trong tương lai, trợ giúp họ trên con đường dẫn
đến tỉnh thức/ giác ngộ để chấm dứt hết thảy mọi đau khổ. Bi tâm là trái
tim của bodhi-citta (bồ-đề tâm), ‘tâm giác ngộ’, hay khát vọng đạt đến
Phật quả vì lợi ích của chúng sanh.
• Bồ-đề tâm phát khởi từ sự rời bỏ tham đắm hạnh phúc cho riêng mình, và trí tuệ nhìn rõ bản tánh của thực tại.
•
Bồ-đề tâm được thể hiện qua đạo hành của bồ-tát (bodhi-sattva), một
chúng sanh phát nguyện thành tựu vô thượng bồ-đề (bodhi). Con đường tu
tập các phẩm tính của vị Phật viên mãn giác được xem là lâu dài hơn con
đường chứng đắc bồ-đề của A-la-hán, vì đi trên con đường lâu dài này cần
có bi tâm vĩ đại hơn, và đó cũng là khía cạnh then chốt của việc phát
huy đạo lộ này. Đây là con đường tu tập sáu công hạnh cho đến mức siêu
việt: sáu ba-la-mật (Skt. pāramitā): thí (dāna), giới (śīla), nhẫn
(kṣānti), tinh tấn (vīrya), định (dhyāna), và huệ (prajñā). Có khi thêm 4
công hạnh nữa: phương tiện (upāya-kauśalya), nguyện (praṇidhāna), lực
(bala) và trí (jñāna). Mười ba-la-mật này tương ứng với mười quả vị hay
mười địa (bhūmi) của bồ-tát dẫn đến chứng đắc Phật quả.
• Bồ-tát
địa thứ tám trong mười địa dẫn đến Phật quả được xem là đã chứng
niết-bàn (nirvana) như A-la-hán, trong đó hết thảy phiền não đã hoàn
toàn diệt tận do đó không còn bị hệ phược sinh tử. Tuy nhiên, Đại thừa
chủ trương đó chưa phải là niết-bàn rốt ráo, và vẫn còn phận sự cần làm.
Đây là vị bất động bồ-tát đã đạt đến độ hoàn toàn vô trước trong vòng
luân chuyển sinh tử (samsāra), do vậy mà hướng thẳng đến niết-bàn chân
thật và cứu cánh mà chỉ có vị Phật vô thượng đẳng chánh giác mới chứng
đắc.
• Các vị bồ-tát trong nhiều giai đoạn tu đạo có thể hiện
thân là tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, hoặc cư sĩ thuộc nhiều trình độ tu chứng;
một số thấp nhất cũng đạt sơ địa trong 10 quả vị, thuộc hàng Bồ-tát
Thánh giả, vì họ đã chứng ngộ một pháp tánh, nhìn thấy sâu vào bản tánh
của thực tại, được gọi là ‘kiến đạo’ (darśaṇa-mārga) ): giai đoạn nhận
thức chân lý. Chư bồ-tát ở các quả vị cao hơn trên Thánh đạo là những
chúng sanh siêu việt, giao tiếp với chư Phật khắp mười phương thế giới;
các ngài là những vị cứu độ chúng sanh khi được khẩn cầu.
• Đại
thừa có một quan niệm mới về vũ trụ xuất phát từ những tu tập quán tưởng
chuyên chú về một vị Phật thành một thực thể ánh sáng vô hạn. Đại thừa
cho rằng đồng thời với Phật Thích ca mâu ni còn có nhiều vị Phật như
vậy.
• Đại thừa đã phát triển nhiều học thuyết tinh tế mà chúng ta sẽ thấy dưới đây.
Yêu
cầu tu tập Bồ-tát đạo dẫn đến Phật quả vô thượng bồ-đề là cảm hứng từ
viễn kiến thấy rằng vũ trụ bao la này luôn cần có nhiều vị Phật như vậy
để giáo hóa. Bước vào thánh đạo này là mong ước thành nhân cách bi mẫn,
phụng sự, dũng mãnh. Con đường của họ rất dài, vì họ phải thành tựu viên
mãn giới đức và trí đức không chỉ để đạt Phật quả vi diệu cho riêng
mình tới mà còn nhắm đến giải thoát mọi loài chúng sinh khác, ‘đưa chúng
sanh vượt qua đại dương sinh tử’ bằng sự thuyết pháp, các thiện hành,
hồi hướng phước nghiệp, và đáp ứng sự cầu nguyện. Trong khi bi tâm luôn
là phần quan trọng trong Phật đạo, trong Phật giáo Đại thừa điều đó càng
được nhấn mạnh hơn, như là động lực vận chuyển toàn bộ Bồ-tát đạo, là
trái tim của bodhi-citta hay ‘tâm giác ngộ’.
3. Tánh chất và quan điểm của Phật giáo Đại thừa đối với các hệ phái Phật giáo khác
Quan
điểm của Đại thừa là phê phán những người tu Phật chỉ quan tâm giải
thoát cá nhân khỏi khổ của đời này và đời sau mà không quan tâm giải
thoát khổ của tha nhân. Nó đặt trọng tâm trên điều được xem là tinh thần
chân chính của giáo pháp của đức Phật, và kinh điển của nó nhằm trình
bày điều này bằng mọi phương cách không bị câu thúc bởi sự trung thành
đến từng câu chữ được cho là do đức Phật đã thuyết giảng. Các kinh điển
này hướng thẳng đến điều đức Phật nhắm chỉ điểm hơn là những từ ngữ ngài
dùng để chỉ dạy – nghĩa là ‘mặt trăng’ chứ không phải ‘ngón tay chỉ
trăng’. Đó là lý do Đại thừa có nhiều bộ Kinh (sūtras) không được biết
đến các truyền thống Phật giáo sơ kỳ, với những giáo pháp được hệ thống
dần từng bước đã tạo thành phong trào với đầy đủ sắc thái riêng của nó.
Đầu
tiên, một phong trào mới được gọi là Bodhisattva-yāna, Bồ-tát thừa, cổ
xe của bồ-tát. Thừa này để phân biệt với Thanh văn thừa (Śrāvaka-yāna)
cổ xe của hàng thanh văn tức đệ tử, cho những ai muốn thành A-la-hán,
hay Độc giác thừa (Pratyeka-buddha-yāna) cho những ai muốn thành Phật
đơn độc (không có đệ tử). Vì phong trào mới phải đáp lại những chỉ trích
từ những người không chấp nhận Kinh điển của họ, họ không ngừng nhấn
mạnh đến tính ưu việt của Bồ-tát thừa, gọi nó là Đại thừa, Mahā-yāna: cổ
xe lớn, hay ‘cổ xe (đưa đến) Đại Giác’. Các thừa khác bị gọi mỉa là
Tiểu, hīna: ‘nhỏ, hay thấp hơn’. Tuy nhiên từ Hinā-yāna (Tiểu thừa)
không được xem là tên của bất cứ trường phái Phật giáo nào, mà chỉ là
một hạn từ chỉ động lực thúc đẩy và các viễn điểm liên đới.
Một
bộ kinh chủ yếu đã phát triển quan điểm, mặc dù đối nghịch ‘Tiểu thừa’,
đã tìm cách mô tả nó như được dung hội vào Đại thừa và hoàn thiện bởi
thừa này: Kinh Diệu pháp liên hoa, gọi tắt là Pháp hoa kinh
(Saddharma-puṇḍarīka). Phẩm 2 của Kinh đạt đến sự hội thông này bằng một
khái niệm mà về sau trở thành tâm điểm của Mahāyāna: upāya-kauśalya
(upāya, phương tiện; kauśalya, sự thiện xảo). Mọi truyền thống Phật giáo
đều đồng ý rằng đức Phật đã linh động thích nghi nội dung giáo pháp của
Ngài tùy theo trình độ và căn tánh người nghe. Đó là đơn giản lựa chọn
một phương tiện thuyết giáo đặc biệt của riêng Ngài từ một bộ phận giáo
lý đại đồng. Đại thừa còn chủ trương rằng đức Phật đã ban bố nhiều trình
độ giáo lý khác nhau mà trong thực tế có thể xem như mâu thuẫn nhau, vì
‘trình độ cao cấp’ cần phải tháo gỡ một số giáo lý quá đơn giản của
‘trình độ hạ liệt’. Trong khi thông điệp tối hậu của Phật là hết thảy
chúng sanh đều có thể thành đức Phật nhất thiết trí, nhưng nếu thuyết
giảng cho người sơ cơ nó sẽ quá khó tin và dễ nhầm lẫn. Do đó với những
hạng phàm ngu có ‘căn cơ hạ liệt’ Ngài bắt đầu tuyên thuyết giáo lý bốn
Thánh đế, đặt ra mục tiêu chứng quả A-la-hán mà nhập niết-bàn. A-la-hán
được xem là vẫn còn một màng vi tế vô minh và thiếu tâm đại bi mà chỉ
mong cầu tự thoát vòng sinh tử, bỏ mặc chúng sanh chưa giác ngộ tự liệu
lấy. Với những người đã sẵn sàng hiểu giáo pháp cao hơn, Phật dạy
niết-bàn chân thật được chứng nhập bằng Phật quả, rằng tất cả đều có thể
đạt đến đó, ngay cả các a-la-hán đang nghĩ rằng họ đã đạt đến mục đích
rồi. Đức Phật duy chỉ có ‘một thừa’ (eka-yāna), đó là Phật thừa quán
triệt, nhưng bằng ‘phương tiện thiện xảo’ Ngài đã khai triển một thừa
này thành ba: thừa cho thanh văn, Độc giác và bồ-tát. Đức Phật trao cho
mọi hạng người bất cứ thừa nào trong ba thừa mà phù hợp với thiên tư và
chí nguyện của họ, và một khi Ngài đã hướng dẫn họ tu tập thuần thục,
bấy giờ Ngài đưa ra cho họ Phật thừa tối hậu, còn các thừa khác chỉ là
tạm thời. Vì bồ-tát đạo dẫn đến Phật quả, nó có vẻ khó phân biệt giữa
Bồ-tát với các Phật-thừa. Giáo lý được thuyết trong kinh Diệu pháp liên
hoa khẳng định rằng bất cứ ai nếu được nghe danh hiệu một vị Phật và
kính lễ Ngài thì chắc chắn sẽ thành Phật trong tương lai dù thời gian đó
dài lâu bao nhiêu, bởi vì chủng tử Phật tánh đã có sẵn trong hết thảy
chúng sanh. Hầu hết các đệ tử của Phật đều được thọ ký sẽ thành Phật
trong tương lai ở nhiều cõi khác nhau, được gọi là các cõi Phật
(Buddha-kṣetra) hay còn gọi Phật quốc. Không phải tất cả kinh điển Đại
thừa đều theo quan điểm ‘nhất thừa’ này, mà một số, như kinh
Ugra-paripṛcchā (Úc-già Trưởng giả vấn kinh) theo quan niệm ‘tam thừa’
trong đó a-la-hán không còn tu thêm nữa. Kinh khác, như Aṣṭasāhasrikā
Prajñāpāramitā (Bát-nhã bát thiên tụng), nhấn mạnh điểm quan trọng của
bồ-tát là không thối lui để cầu quả vị thấp hơn là quả a-la-hán.
Theo
chuẩn mực về a-la-hán quả được giữ gìn bởi các trường phái Thanh văn
thừa như Theravāda (Thượng tọa bộ), a-la-hán được mô tả là thấm đẫm tâm
từ và thương tưởng giáo hóa chúng sanh. Theravāda cũng biết rằng con
đường tiến đến Phật quả trải qua vô số kiếp là sự hành trì cao thượng
nhất, vì mục tiêu của nó là cứu độ vô lượng chúng sanh (xem tiêu đề
trên, *Th.6). Mặc dù Bồ-tát đạo vẫn được một số ít các vị Theravāda tu
trì (thường là hàng cư sĩ), nó được xem là đường lối chỉ dành cho một số
ít bậc đại sỹ. Còn lại hầu hết đều hoan hỷ áp dụng giáo lý của đức Phật
lịch sử để tu hướng đến quả vị a-la-hán dẫu thành tựu được trong đời
này hay trong đời vị lai.
Một đặc điểm của Mahāyāna là khuyến
khích mọi ‘thiện gia nam tử nữ nhân’ đi theo con đường Bồ-tát đạo. Trong
khi Mahāyāna lúc ban đầu có thể được phát triển bởi các tu sĩ có tinh
thần cải cách, rõ ràng đã có sự chuyển dịch từ Phật giáo lấy tự viện làm
trung tâm, trong đó các nhà sư đóng vai trò vượt trội trong việc hoằng
Pháp, sang hàng cư sĩ với những đóng góp quan trọng trong việc phổ biến
và phát triển Chánh pháp. Đỉnh điểm của phong trào ‘tại gia’ này được
khắc họa trong câu chuyện về cư sĩ Vimalakīrti (Duy-ma-cật) người đã phê
phán các yếu tố bảo thủ trong Phật giáo tăng lữ về việc theo đuổi giải
thoát cá nhân mà, mặc dù không làm phương hại ai, theo ông vẫn chưa đủ
tích cực mang đến lợi lạc cho chúng sanh đang đau khổ (*M.10, 113, 127,
136, 141, 168).
Trải qua nhiều thế kỷ, nhiều tu sĩ đã học và hành
theo cả hai thừa Thanh văn và Mahāyāna; cả hai cùng hiện diện trong một
tự viện chung không phải là việc hiếm. Trên thực tế người Trung quốc mãi
cho đến cuối thế kỷ thứ 4 vẫn chưa phân biệt rõ ràng Đại thừa là một
trào lưu tách biệt.
4. Sự phát triển văn tịch Đại thừa
Mahāyāna
xuất hiện trong lịch sử như một liên kết rời rạc của các nhóm, mà mỗi
nhóm gắn liền với một hay vài bộ kinh (sūtra; Pāli, sutta) chưa biết đến
trước đó. Các kinh này được bảo tồn qua ngôn ngữ Sanskrit, thứ ngôn ngữ
uy tín của Ấn độ tựa như chữ Latin một thời của châu Âu. Khởi thủy,
kinh văn Đại thừa được mô tả theo một thể loại là vaipulya, nghĩa là
‘quảng diễn’: ‘được mở rộng’; là sự mở rộng những điều Phật dạy một cách
gián tiếp, mật ý, có tính ẩn dụ. Các kinh vaipulya (phương quảng, hay
phương đẳng) là một trong 9 thể loại Phật ngôn (buddha-vacana [1]) dưới
dạng quảng diễn. Nó tương đương chữ Pāli vedalla như trong tên kinh
Mahā-vedalla (Đại phương quảng) và Cūḷa-vedalla (Tiểu phương quảng) [2].
Các nhà Đại thừa thường nhấn mạnh, không nên hiểu lời dạy của đức Phật
theo nghĩa từ chương, vì một từ ngữ chỉ đơn thuần là một biểu hiện thay
cho một thực tại sâu lắng ẩn tàng trong đó, một ‘ngón tay’ chỉ ‘mặt
trăng’ trong bầu trời xa xăm.
Bất cứ ai chấp nhận văn học
Mahāyāna là các sūtras chân chính – những bài pháp chính giáo của Phật–
như vậy người đó thuộc trào lưu mới. Điều này không đòi hỏi các tỳ-kheo
hay tỳ-kheo-ni phải từ bỏ cộng đồng huynh đệ cũ, vì họ vẫn tiếp tục tuân
thủ giới luật tự viện của cộng đồng huynh đệ mà theo đó họ được xuất
gia. Trong một thời gian, các nhà Đại thừa vẫn là thiểu số trong những
người Ấn theo đạo Phật, mặc dù theo ước tính của Huyền Trang, vào thế kỷ
thứ 7, trong số 200.000 tăng lữ Ấn có đến một nửa thuộc hệ phái Đại
thừa.
Những người bảo thủ truyền thống phủ nhận nền văn học Đại
thừa là ‘Phật thuyết’ (buddha-vacana), nhưng các nhà Đại thừa đã bảo vệ
tính chính thống của họ bằng nhiều phương sách khác nhau. Trước hết, các
kinh điển này trước kia được xem là những phát ngôn cảm hứng xuất phát
từ đức Phật mà ngày nay được coi là vẫn có thể tiếp cận qua những hiện
tướng do tu quán và những mộng cảnh minh hiển. Thứ hai, chúng được coi
như những điều cùng phát sinh từ trí tuệ như thực như nhau vốn là cơ sở y
cứ trên đó Phật tuyên thuyết Chánh Pháp [3]. Thứ ba, trong Đại thừa hậu
kỳ, các kinh điển này được coi là những lời giáo pháp của Phật được giữ
kín dưới long cung (nāga), cho tới khi có người có khả năng nhìn ra
những mật ý sâu xa hơn trong giáo huấn của Ngài, những người ấy sẽ phục
hồi chúng bằng năng lực của thiền định. Mỗi giải thích đều xem các
sūtras là điểm phát xuất, trực tiếp hay gián tiếp, từ những chứng nghiệm
tu quán. Mặc dù vậy, các kinh điển Đại thừa đều mang hình thức là những
đối đáp giữa đức Phật ‘lịch sử’ với các vị đệ tử và chư thiên.
Kinh
điển Đại thừa được ví như ‘thời chuyển pháp luân’ thứ hai, thời thuyết
pháp cho trình độ cao hơn các kinh điển sơ kỳ, với các đệ tử Phật là
hàng bodhisattva được mô tả với trí tuệ cao hơn các vị đệ tử hàng
a-la-hán. Vì các sūtras được cho là bao hàm chân lý giải thoát, người ta
nói sẽ được lợi lạc vô lượng khi sao chép, phổ biến, tụng đọc, giảng
giải, thấu hiểu, hành trì, và ngay cả chỉ lễ bái tôn kính chúng.
Một
số văn bản Đại thừa có hình thức như bản tường thuật về giáo lý mà Phật
truyền dạy trong ngữ cảnh của phàm phu. Một số vận dụng phong cách đặc
thù của văn chương để diễn đạt một lý giải về các lời dạy của Phật,
chẳng hạn trong số đó, Phật thuyết pháp trong khung cảnh kỳ diệu giữa
các chúng chư thiên, như được thấy với phạm vi nhỏ hẹp trong một số ít
kinh điển sơ kỳ rộng, như kinh Mahā-samaya (Đại tập hội) [4]. Có nhiều
bộ kinh Đại thừa phản ánh phong cách này, trong đó, đức Phật sử dụng
ngôn ngữ khoáng trương và nghịch lý, thị hiện nhiều vị Phật và bồ-tát
đại địa từ các thế giới khác, đang tồn tại trong nhiều quốc độ khắp
trong vũ trụ. Một số các đấng cứu hộ thế gian này, là chư Phật, và trong
các kinh khác là các bồ-tát, đã trở thành đối tượng kính ngưỡng và lễ
bái, và được thêm vào với số lượng lớn để đáp ứng yêu cầu và sự truyền
bá thành công của Đại thừa.
5. Kinh điển và triết thuyết Đại thừa
Các
nhà Đại thừa tiếp tục chịu ảnh hưởng bởi các tư tưởng từ Phật giáo sơ
kỳ, được bảo tồn, chẳng hạn, trong bộ phận A-hàm (āgamas) trong Hán
tạng, tương đương bộ nikāyas trong kinh tạng Pāli. Một số văn bản thời
kỳ đầu Đại thừa như kinh Śālistamba (mầm lúa: *M.130-31; bản Việt: kinh
Đạo cán), về lý tính duyên khởi của tồn tại, cho thấy một giai đoạn
chuyển tiếp từ những ý tưởng Phật giáo sơ kỳ, trong khi bộ
Śatapañcaśatka-stotra (Bách ngũ thập tụng: *M.2) của Mātṛceṭa (thế kỷ
thứ 2 Tl) xưng tán đức Phật theo phong cách khá truyền thống. Một số văn
bản khác lại rõ ràng là các phiên bản mở rộng của các bộ kinh tiền-Đại
thừa, như bộ Upāsaka-śīla (‘Ưu-bà-tắc giới’: *M.1, 23, 30, 38, 42, 50,
53, 56, 64-5, 72-3, 79, 82-4, 87-92, 98, 102, 104, 160), được dịch sang
Hán văn khoảng năm 425 Tl, vốn được xây dựng trên các văn bản được thấy
trong kinh tạng Theravāda như bộ Sigālovāda Sutta (Dīgha-nikāya, kinh
31: *Th.49), nhưng nhấn mạnh việc hành trì của cư sĩ như một vị bồ-tát.
Trong kinh Ugra-paripṛcchā (Úc-già vấn kinh: *M.49 và 81), Hán dịch lần
đầu trong thế kỷ thứ 2 Tl, giảng dạy các bồ-tát tại gia và xuất gia,
chúng ta thấy các dấu hiệu khởi thủy của Đại thừa giữa các vị sư sống
bằng khất thực và thiền tập trong rừng.
Phối cảnh học thuyết của
Đại thừa được trình bày trong cả hai, Kinh (sūtra), do Phật thuyết, và
Luận (śāstra), được viết bởi các tác giả danh tiếng. Chúng trình bày một
cách có hệ thống quan niệm của các trường phái Đại thừa đặc thù, đặt
căn bản trên các Kinh, kinh nghiệm luận lý và tu định. Mỗi trường phái
gắn liền với một nhóm kinh riêng mà ý nghĩa hoặc đã rõ ràng (kinh liễu
nghĩa; Skt. nītārtha) hoặc còn phải diễn giảng (bất liễu nghĩa; Skt.
neyārtha). Quá trình này đã tiếp diễn ở những nơi Đại thừa lan truyền
đến, và cũng đã nhận lấy những điểm trọng thị rộng lớn dị biệt theo từng
địa phương.
Trong hệ kinh Bát-nhã ba-la-mật (Prajñā-pāramitā),
tư tưởng chủ đạo là, do bởi lý tương quan duyên khởi của vạn hữu lẫn
tính không thể như thực nắm bắt thực tại bằng các khái niệm, hết thảy
những gì chúng ta kinh nghiệm đều rỗng không không có tự thể: tư tưởng
về ‘tánh không’ (śūnyatā) vì không tự tính (svabhāva) (xem *M.137–41).
Thêm nữa, điều này còn có nghĩa là thế giới hữu vi của kinh nghiệm
thường nhật, trong đời này và các đời sau (saṃsāra, luân hồi), không
tuyệt đối khác với hay tách biệt khỏi thực tại tối hậu, nirvana, mà
trong đó tham, sân, si đều trống không, không bị găm chặt vào các ý
niệm. Do đó không thể tìm kiếm nirvana ngoài thế gian này mà chính trong
sự lý giải như thực về thế gian. Được hỗ trợ bởi ý niệm rằng cái gì
trống không thì không thể nắm bắt, bồ-tát thực hành 37 thành phần
bồ-đề[5] vì tự lợi và thực hành các ba-la-mật của bồ-tát vì lợi ích của
hết thảy chúng hữu tình, vị ấy biết rằng chân lợi ích của mình và của
người không khác và không thể tách rời. Hệ kinh Prajñā-pāramitā bao gồm:
Aṣṭasāhasrikā (‘8,000 tụng’: *M.54, 70, 76, 140, 153), Vajracchedikā
(Năng đoạn Kim cang: *M.4, 9, 20, 44, 48, 103), và
Pañcaviṃśati-sāhasrikā (‘25,000 tụng’: *M.135, 139), và bản kinh ngắn
rất phổ thông Hṛdaya (Bát-nhã tâm kinh: *M.137). Một bản kinh vận dụng
tư tưởng tánh không để nhấn mạnh sự vượt qua mọi tư duy nhị nguyên là bộ
Vimalakīrti-nirdeśa (Duy-ma-cật sở thuyết: e.g. *M.127, 136, 141, 168),
trong đó trí tuệ của một vị bồ-tát tại gia chói sáng trên trí tuệ nhiều
vị Đại đệ tử Phật. Tư tưởng về tánh không được tiếp nhận và phát triển
bởi trường phái Trung quán của triết học Đại thừa, mà tác phẩm căn bản
là bộ Mūla-madhyamaka-kārikā (Căn bản trung luận tụng: *M.138) của ngài
Long Thọ (Nāgārjuna, khoảng 150–250 TL). Các trước tác nhiều ảnh hưởng
khác của trường phái này, viết bởi Tịch Thiên (Śāntideva, khoảng 650–750
TL), là bộ Bodhicaryāvatāra (Nhập bồ-đề hành: *M.43, *V.34, 35, 38, và
các trích dẫn trong kinh điển Kim cang thừa) nói về các ba-la-mật của
bồ-tát, và bộ Śikṣā-samuccaya (Tập bồ-tát học luận), trích từ nhiều bản
kinh Đại thừa.
Vì đức Phật cuối cùng đã nhập niết-bàn, kết thúc
đời sống tại thế, điều này đặt ra câu hỏi liệu ngài có tiếp tục tồn tại
hay không, dưới hình thức nào đó, sau khi ngài nhập diệt, được cho là sự
“dập tắt” cuối cùng (Sankrit, nirvāṇa, nghĩa đen là sự dập tắt khổ và
nguyên nhân của khổ). Đây là câu hỏi liệt kê trong số những vấn đề gọi
là ‘Mười bốn vấn đề không giải đáp’ (vô ký vấn, the fourteen
undetermined issues[6] ) được xem như vượt ngoài tầm tư duy và biện luận
của con người. Dù sao, sau khivị thầy tôn kính khuất bóng, lẽ tự nhiên
cộng đồng đệ tử cảm thấy côi cút, hoài niệm bóng thầy dắt dẫn, đã nêu
lại câu hỏi đã từng bị Phật cho là không thể chứng minh. Câu hỏi này dẫn
đến những vấn đề khác liên quan tánh thể của vị Thầy vĩ đại. Đại thừa
quan niệm Phật tánh thường trụ được diễn giải trong các bộ kinh như
Saddharma-puṇḍarīka (Diệu pháp liên hoa: *M.7, 22, 55, 152), một văn bản
nhiều ảnh hưởng, và bộ Mahā-parinirvāṇa (Đại bát niết-bàn: *M.5, 6, 8,
40, 43, 111, 145).
Ngoài ra Đại thừa còn giới thiệu những ý tưởng
về nhiều vị Phật hiện tồn tại nhiều nơi trong vũ trụ nhưng có thể tiếp
cận được. Trong số đó, một vị Phật đã trở nên đặc biệt quan trọng trong
Phật giáo Đông Á, đó là đức Phật A-di-đà (Amitābha, Vô lượng quang),
cũng có hiệu là Amitāyus (Vô lượng thọ). Ngài được cho là đang ở ‘thế
giới cực lạc’ (Sukhāvatī), được tạo thành bởi uy lực thiện nghiệp của
ngài, là cõi lý tưởng để tu đạo có thể phát triển nhanh chóng, và người
ta có thể đến được nếu có chánh tín nơi năng lực cứu độ của ngài. Kinh
Pratyutpanna Buddha Saṃmukhāvasthita Samādhi, Quán Phật tam-muội (‘Bát
chu tam muội kinh’: *M.114), và hai bộ kinh nhiều ảnh hưởng là bộ Tiểu
và Đại Sukhāvatī-vyūha (‘Lạc hữu trang nghiêm kinh’: *M.158, 159), còn
được gọi là Tiểu và Đại A-di-đà kinh.
Các kinh như bộ
Saṃdhi-nirmocana (‘Giải thâm mật kinh’: *M.143) và bộ Laṅkāvatāra (‘Nhập
Lăng-già kinh’: *M.142) nhấn mạnh thế giới mà ta trải nghiệm tự căn bản
có tự tánh là duy tâm. Những gì chúng ta kinh nghiệm là của một quá
trình diễn giải phức tạp vốn bị chi phối bởi tập quán, khuynh hướng, các
hành vi quá khứ, cùng với ngôn ngữ. Điều này cũng áp dụng cho các quan
niệm của chúng ta về thế giới vật chất. Tất nhiên nhãn quan này đôi khi
cho rằng không tồn tại thế giới vật chất nào bên ngoài dòng chảy của
những cảm nghiệm tâm thức. Với nhãn quan này, điều quan trọng là cần tìm
tâm tác thành kinh nghiệm như thế nào, để vượt ra khỏi sự phân hóa kinh
nghiệm thành một tự ngã-chủ thể được cho là thường trụ bên trong và
những sự vật khách quan bên ngoài, và trải nghiệm một sự tái định hướng
tận căn để của tâm, ở trong tạng thức (ālaya-vijñāna, a-lại-da thức) là
một kho chứa vô thức các hạt giống nghiệp để hình thành kinh nghiệm tâm
thức. Cách nhìn như vậy được tiếp nhận và khai triển trong trường phái
Yogācāra (Du-già hành) hay Citta-mātra (Duy thức) của triết học Đại
thừa, do Asaṅga (Vô trước; 310-90?) và người em là Vasubandhu sáng lập.
Tương truyền, Asaṅga được bồ-tát Di lặc (Maitreya) khai thị để biên soạn
bộ Mahāyāna-sūtrālaṃkāra (Đại thừa trang nghiêm kinh luận), đã hệ thống
hóa các tư tưởng Đại thừa về Phật tánh.
Các bộ kinh như
Tathāgata-garbha (Như lai tạng: *M.12), Śrīmālādevī-siṃhanāda (Thắng man
sư tử hống: *M.13) và Mahā-parinirvāṇa (Đại bát-niết-bàn) diễn tả tư
tưởng Tathāgata-garbha (bào thai của Như lai): Như lai tạng, Phật, hay
Phật tánh. Nó được cho là trống không tham, sân, si nhưng không trống
không các công đức hy hữu của chư Phật, và là một thực tại quang minh
sẵn có nơi mọi chúng sinh, khiến họ khám phá và thành tựu chín muồi Phật
quả. Tư tưởng này, trong khi gợi đến một tư tưởng Phật giáo sơ kỳ rằng
do tu tập mà khai mở quang minh bản hữu của tâm (*Th.124), có thể phần
nào là phản ứng với Ấn giáo đang trổi dậy với tư tưởng về một cá Ngã
thường hằng trong mọi chúng sinh. Ấn giáo đã liên tục phê phán Phật giáo
vì không chấp nhận bất cứ gì như là ‘Ngã’, cũng như không chấp nhận hệ
thống giai cấp và đẳng cấp thiêng liêng của Ấn giáo. Như lai tạng được
coi là quang minh bản hữu của Phật tánh có sẵn trong mọi chúng sinh.
Trong khi, từ một phương diện, Như lai tạng bị nhận lầm như là Tương tợ
Ngã kể từ vô thủy sanh tử, nhưng từ phương diện tuyệt đối nó được xem là
Vô ngã, không liên hệ gì đến cảm thức về cái “Tôi là” (*M.144-46). Ở Ấn
độ tư tưởng này được hệ thống hóa trong bộ Ratnagotra-vibhāga (‘Bảo
tánh luận’: *M.12), còn gọi là Uttara-tantra (Tối thượng tục), được cho
là do Sāramati (Kiên Huệ) hay Maitreya (Di-lặc) trước tác, và đã có ảnh
hưởng mạnh mẽ trong Phật giáo Trung quốc và các nước Đông Á.
Bộ
Buddha-avataṃsaka (Đại phương quảng Phật hoa nghiêm: *M.39, 46, 51, 62,
71, 96, 112, 149, 154), là bản trích yếu nhiều kinh từng được lưu hành
riêng, như kinh Daśa-bhūmikā (Thập địa), giảng về các giai vị (địa) trên
Bồ-tát đạo, và bộ Gaṇḍa-vyūha (Hoa nghiêm: *M.17, 69, 148). Đây là một
kiệt tác văn học về sự vấn đáp của thiếu niên Sudhana (Thiện Tài) với
các vị đại sư anh gặp trên đường học đạo. Nó đạt đến cực điểm với quan
niệm ảo diệu về bản tánh của thực tại, nơi Sudhana nhìn thấy sự tương
liên sâu thẳm của mọi hiện tượng, chân tánh tối hậu của chúng, với vạn
hữu xuyên suốt nhau qua thời gian và không gian. Truyền thống của Đại
thừa cho rằng đó là bộ kinh đầu tiên đức Phật thuyết giảng sau khi giác
ngộ dưới cội bồ-đề.
6. Kinh điển Phật giáo Trung quốc
Phật
giáo, chủ yếu là Đại thừa, đã truyền dọc theo Con đường tơ lụa, xuyên
qua Trung Á và đến Trung quốc khoảng năm 50 Tl. Ở đây nó giữ địa vị khá
trọng yếu và lâu dài, thích nghi với môi trường văn hóa Trung quốc chi
phối bởi Khổng giáo. Những hình thức Phật giáo mang dấu ấn Trung quốc
này lan truyền tới Việt Nam, Triều Tiên và Nhật Bản. Việc phiên dịch dần
dà khối lượng văn bản Phật giáo đồ sộ từ tiếng Sanskrit và các phương
ngữ Ấn độ là một công trình vĩ đại.
Có lẽ bản dịch kinh Phật đầu
tiên (cuối thế kỷ thứ nhất Tl) là bộ Sishierzhang jing (kinh Tứ thập nhị
chương: *M.31, 58). Một bản tóm tắt các giáo pháp căn bản của đạo Phật,
các dạng thức về sau chứa đựng nhiều yếu tố Đại thừa hơn, cùng một số
ảnh hưởng từ Đạo giáo Trung hoa. Kinh Fo chui ban nie pan liao shuo jiao
jie jing (Phật thùy bát niết bàn lược thuyết giáo giới, gọi tắt: Kinh
Di giáo), được dịch khoảng năm 400 Tl, nhấn mạnh giới luật tự viện trong
khung cảnh Đại thừa. Kinh Fan wang jing (Phạm võng: 45, 90, 97, 100,
112), văn bản quan trọng về giới luật của hàng bồ-tát xuất gia và tại
gia, đã trở thành phổ biến ở Trung Hoa vào giữa thế kỷ thứ 5 Tl. Một bản
kinh quan trọng khác là bộ Dizangpusa benying jing (Địa tạng bồ-tát bổn
nguyện kinh [7] : *M.11, 24, 35, 68). Nho giáo coi trọng lòng hiếu thảo
của con cháu hay sự tôn kính ông bà tổ tiên, cũng đã cho ra một văn bản
Phật giáo là bộ kinh Yulanpen (Ullambana sūtra, kinh Vu lan bồn, giữa
thế kỷ thứ 6); và bộ Fumuenzhong jing (Phụ mẫu trọng ân kinh, thế kỷ thứ
8?: *M.36).
Nhiều tông phái mới đã phát triển trong Phật giáo
Trung Hoa, trong đó hai phái đã phát triển các hợp đề bao quát các giáo
nghĩa từ nhiều kinh điển Phật giáo, là Thiên thai và Hoa nghiêm, mà Nhật
ngữ là Tendai và Kegon. Tông Thiên thai được sáng lập bởi
Zhiyi [8] (Trí Khải, 539-97 Tl.), cho rằng giáo pháp tối cao của đức
Phật được trình bày trong kinh Đại bát niết-bàn và kinh Pháp hoa, nhằm
đề cao quan niệm về Phật tánh, bản tánh siêu nhiên của Phật, và các
phương tiện thiện xảo để giáo hóa tùy theo căn tánh người nghe. Kinh
Diệu pháp liên hoa còn là trọng tâm tín lý của Nhật liên tông (Nichiren)
Nhật Bản. Các trước tác của Trí Khải được trích dẫn trong sách này là
các bộ Fa-hua San-mei Chan-yi (Pháp hoa tam muội sám nghi:*M.123) và
Mo-ho Zhi-Guan (Ma-ha chỉ quán: *M.119). Tông Hoa nghiêm do Đỗ Thuận
(Dushun, 557-640) khai sáng, được hệ thống bởi vị tổ thứ ba, Hiền Thủ
Pháp Tạng (Fazang [9] , 643-712). Tông này cho rằng giáo pháp cao nhất
của đức Phật được thuyết trong kinh Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm
(Avataṃsaka sūtra), đặc biệt trong kinh Gaṇḍavyūha (phẩm Nhập pháp
giới). Tông này quan niệm thực tại rốt ráo là không không có bản tánh cố
định, một thể chất biến thiên làm cơ sở cho mọi thứ,, cũng như vàng có
thể nắn thành vô vàn hình dáng khác nhau. Quan niệm này cũng có ảnh
hưởng đáng kể trong Thiền tông Trung quốc. Sách này gồm các trích đoạn
từ Hoa nghiêm ngũ giáo chỉ quán (*M.149) được cho của Đỗ Thuận, và Kim
sư thử chương của Pháp Tạng (*M.150).
Phật giáo Trung quốc có hai
tông phái chú trọng hình thức hành trì đặc thù: Thiền tông và Tịnh độ
tông. Thiền tông có vị sư nửa huyền thoại gốc Ấn, Bodhidharma (470-543),
là người sáng lập, và người có nhiều ảnh hưởng sau đó là vị tổ thứ sáu,
Huệ Năng (638-713; *M.167), đặc biệt qua tác phẩm Lục tổ đàn kinh. Các
bộ kinh Ấn-độ có ảnh hưởng quyết định với Thiền tông là kinh Lăng-già
(Laṅkāvatāra) và bộ Kim cang Bát-nhã ba-la-mật (Vajracchedikā
Prajñāpāramitā). Tuy nhiên Thiền tông còn phát triển hệ thống văn học
riêng tập trung vào Công án (gong-an; Nhật: kōan), thường là những phát
biểu nghịch lý của các Thiền sư [10]. Sách này sử dụng các trích đoạn từ
‘Đàn kinh’ (*M.125-27, 167), từ bài minh Tín tâm (Xin Xin ming: *M.128)
của Tăng Xán (tịch năm 606), vị tổ thứ ba, và từ Tọa thiền nghi
(*M.124), tác phẩm trọng yếu hướng dẫn nghi thức tọa thiền của thiền sư
Changlu Zongze (長蘆宗賾Trường lô Tông trách, tịch 1107?).
Tịnh độ
tông chú trọng việc tín nguyện hơn thiền quán, và kinh điển quan trọng
của tông phái là hai bộ kinh Vô lượng thọ (Sukhāvatī-vyūha sutra). Tông
này do Đàm Loan (476-542) sáng lập, nhấn mạnh việc nhất tâm tín ngưỡng
Phật A-di-đà, niệm danh hiệu và quán tưởng cõi ‘Cực lạc’ của Ngài
(*M.114, 158-59). Việc hành trì dễ dàng đã khiến tông này rất phổ thông ở
các nước Đông Á. Ở Nhật tông này có hai nhánh, nhánh Tịnh độ (Jōdo) và
Tịnh độ chân tông (Jōdo-shin).
7. Kinh văn Hán, Tạng
Các
nguồn tư liệu cho kiến thức của chúng tôi về giáo pháp Đại thừa là các
bộ kinh tạng vĩ đại của Phật giáo Trung quốc và Tây tạng. Trong khi hầu
hết kinh tạng Pāli (của Phật giáo Thượng tọa bộ) đã được dịch ra tiếng
Anh, chỉ có một số văn bản chọn lọc từ tạng kinh rộng lớn hơn bằng Hán
và Tạng ngữ được dịch ra các ngôn ngữ Tây phương, dù nhiều tiến triển
vẫn đang diễn ra. Trong khi các văn bản được Phật giáo Đại thừa các nước
Đông Á sử dụng chủ yếu là các sūtra được cho chính đức Phật thuyết
giảng, ví dụ như kinh tạng Hán ngữ, trong Kim cang thừa các văn bản chủ
yếu được dùng là kinh tạng Tây tạng vốn là sự trình bày có hệ thống các
tư tưởng Phật học và cách hành trì đa phần được trích dẫn từ các sūtra
(kinh điển Đại thừa) và tantra (kinh điển Kim cang thừa), và các luận
thư sơ kỳ từ Ấn-độ. Trong cả hai lãnh vực này, các luận thư bản xứ đóng
vai trò lớn trong việc hình thành các tông phái Phật giáo cá biệt mang
tính địa phương.
Kinh tạng Hán ngữ được biết là bộ Đại tạng kinh.
Ấn bản tiêu chuẩn, theo thứ tự phi truyền thống dựa trên việc hệ thống
hóa của các học giả, là bộ Đại chánh Đại tạng kinh, thường gọi tắt là
Đại chánh, được ấn hành tại Nhật Bản từ năm 1924 đến 1929. Nó bao gồm 55
đại tập, mỗi tập hơn 1000 trang, gồm 2148 bộ.
(xem: http://en.wikisource.org/wiki/Portal_talk:Buddhism
http://en.wikisource.org/wiki/Taish%C5%8D_Tripi%E1%B9%ADaka )
Nội dung Hán tạng bao gồm:
(i) A-hàm bộ (āgamas; tương đương 4 nikāya Pāli), 151 kinh, trong 2 tập.
(ii) Bản sinh bộ (jātaka, chuyện về tiền thân đức Phật khi còn là Bồ-tát) 68 kinh trong 2 tập.
(iii)
Bản dịch các kinh Đại thừa (628 kinh, 13 tập), thỉnh thoảng có kinh có
nhiều bản trùng dịch. Phần này được xếp thành các kinh:
- Bát-nhã bộ (42 kinh, 4 tập),
- Pháp hoa bộ (16 kinh, 1 tập),
- Hoa nghiêm bộ (32 kinh, 1 tập rưỡi),
- Bảo tích bộ (64 kinh trong 1 tập rưỡi),
- Niết-bàn bộ (23 kinh trong 1 tập rưỡi),
-
Đại tập bộ (28 kinh, 1 tập) và nhiều bản kinh khác (phần lớn là kinh
Đại thừa; 423 kinh, 4 tập) (iv) Mật giáo bộ, các tantra (572 kinh, 4
tập)
(v) Luật bộ: các Tì-nại-da (vinaya) sơ kỳ và một số giới luật cương yếu cho hàng bồ-tát (84 kinh, 3 tập)
(vi) Kinh sớ bộ (31 kinh, trong 1 tập rưỡi)
(vii) A-tì-đàm bộ: các luận thư A-tì-đạt-ma (abhidharma) sơ kỳ (28 bộ, 3 tập rưỡi)
(viii) Trung quán & Du-già bộ, & Luận tập bộ: các luận thư (śāstras) ngoài A-tì-đạt-ma (129 bộ, 3 tập)
(ix) Kinh sớ, Luật sớ, Luận sớ: các sớ giải Hán về kinh, luật và luận (sūtra, vinaya, śāstra, 158 bộ, 12 tập)
(x) Chư tông bộ: trước tác của các tông phái (175 bộ, 4 tập rưỡi)
(xi) Sử truyện bộ: các tiểu sử (95 bộ, 4 tập)
(xii)
Sự vựng bộ, Mục lục bộ, Ngoại giáo bộ, Cổ dật bộ, Nghi tợ bộ: Các vựng
tập, bách khoa, từ điển, mục lục Tam tạng Hán ngữ, lịch sử, học thuyết
ngoài Phật giáo (đạo Hindu, Mani, Cơ đốc Nestorian), và các văn bản có
vấn đề (800 bộ, 4 tập).
Đến năm 1934 có bản Đại chánh tân tu, bổ sung
thêm 45 tập gồm 736 bộ: các trước tác của người Nhật, các thủ bản phát
hiện ở hang động Đôn hoàng Trung quốc, các ngụy thư biên soạn tại Trung
quốc, đồ tượng, và thư tịch.
Đại tạng Tây tạng sẽ có một bản đề cương trong phần giới thiệu Kim cang thừa của sách này.
Xin
lưu ý rằng, khoảng phân nửa đoản văn ghi dấu M. trong sách này được dẫn
xuất từ bản Đại chánh, do đó, chúng là bản dịch từ Hán ngữ. Các bản
dịch trực tiếp từ tiếng Phạn được đánh dấu riêng.
[1] Ví dụ, bộ Aṅguttara-nikāya II.7.
[2] Majjhima-nikāya, các kinh 43, 44, dưới hình thức vấn đáp và diễn giải, về một số khái niệm Phật giáo.
[3] Kinh Aṣṭasāhasrikā Prajñāpāramitā, tr. 4.
[4] Kinh 20, Đại hội, trong Trường bộ kinh (Dīgha-nikāya).
[5] Bodhi-pakṣa-
dharma (Pāli, bodhi-pakkhiya- dhamma), bao hàm các phẩm tính như bốn
niệm trụ (*Th.138) và thánh đạo tám chi (*Th.99).
[6] Truyền thống Theravāda nêu lên 10 vấn đề (xem *Th.20, cf. *Th.10).
[7] Tựa Skt.: Kṣitigarbha Bodhisattva Pūrvapraṇidhāna Sūtra.
[8] Trước đây còn phiên là Chih-i.
[9] Trước đây thường phiên là, theo thứ tự, Tushun và Fa-tsang.
[10] Một
mẩu nghịch thường mà tinh tế, chẳng hạn như ‘tiếng vỗ của một bàn tay
là gì?’, thường được dùng như một đề mục thiền quán trong phái Thiền Lâm
tế.
Peter Harvey & Thich Tue Sy
Dịch Việt: huongtichbooks
[Nguồn: COMMON BUDDHIST TEXT: GUIDANCE AND INSIGHT FROM THE BUDDHA
Chief Editor: Venerable Brahmapundit.
Editor: Peter Harvey.
Translators: Tamás Agócs, Peter Harvey, Dharmacārī Śraddhāpa, P.D. Premasiri, G.A Somaratne, Venerable Thich Tue Sy.
http://www.icdv.net/pdf/cbt_final_dec29%202015.pdf ]
(Hương Tích Việt Thư Quán)