Sống theo bản năng: liều lĩnh và nguy hiểm
Khi không làm chủ được mình, người ta sống
theo phản ứng bản năng hơn
là sự điều khiển của ý thức qua việc quản lý tâm ý và hành
vi. Thông thường khi ấy, người nguyên tắc nhất cũng dễ vi phạm những quy tắc
mà bình thường họ tự lập ra và nghiêm túc thực hiện.
Luật
lệ, xét cho cùng, là phạm vi chúng ta xác định để tự mình thể hiện đầy
đủ nhân vị làm ‘người’; vượt qua ngưỡng ấy,
chúng ta tự hạ thấp nhân cách của mình và đôi khi phải chuốc họa vào
thân. Ví như người đi đường, một
khi không làm chủ được mình, thay vì đi bên phải và đi đúng làn dành cho
phương tiện mình đang điều khiển theo luật định khi tham gia giao
thông, họ lại đánh võng vòng vèo từ bên phải
sang bên trái; thế là họ va quẹt vào người đi ngược chiều và gây ra tai
nạn, rước họa cho
mình và gieo khổ cho người.
Nhiều người trẻ bốc đồng không làm chủ mình, đua xe tốc độ, không lường đến hiểm nguy, chỉ vài lời
nói khích của bạn bè thì không còn biết tôn trọng luật lệ, coi mạng sống con người chẳng
là gì cả và kết cuộc gây ra tai nạn giao thông nghiêm trọng, dẫn đến khổ đau cho mình và người.
Khi có định-tuệ, hành giả sẽ không quờ quạng trong tăm tối... (Ảnh chỉ mang tính minh họa)
Khi không làm
chủ được mình, người
ta như đang quờ quạng trong tăm tối và si mê đến ngu xuẩn, đem cả
thân và tâm giao cho bản năng sai khiến rồi hành động liều lĩnh,
nói năng thiếu sự kiểm soát của ý thức, đến khi tỉnh táo trở lại thì mọi
chuyện
e đã quá muộn màng. Người không làm
chủ được mình dễ dàng sa ngã vào các tệ nạn xã hội,
các trò đỏ đen may rủi
có sức hấp dẫn và có tính gây nghiện ghê gớm, đến mức phải tan cửa nát nhà, gia
sản tiêu tan, sự nghiệp không còn, hôn nhân đổ vỡ, người thân
phân tán, gia đình điêu đứng v.v. vẫn không
biết dừng lại.
Đến lúc tỉnh trí, cảm giác ân hận choán hết tâm hồn,
nhưng cũng không thể giải quyết được hậu quả vì không
ai có thể quay ngược thời gian để thay đổi một quyết định
sai lầm trong quá khứ.
Khi không làm
chủ được mình, người ta không còn khả năng tự
quyết, chính lúc ấy họ như đã tự đánh mất
chính mình. Chẳng khác nào chiếc xe đang lao xuống vực thẳm
mà người
điều khiển “lạc tay lái”, không thể lường
được biết bao hiểm nguy đang chực chờ phía trước. Khi không
làm chủ được mình, chúng ta bị chi phối bởi cảm xúc
bản
năng vốn chỉ có sức mạnh hoang dã mà không có mắt dẫn dắt, rồi hành xử
theo tập quán, lúc này lý trí dường
như đã bị che lấp bằng dải băng đen
sì, đành bất lực đâm đầu vào bụi rậm đầy
gai nhọn thay vì đi trên con đường thênh thang rộng lớn ở
ngay trước mặt. Đến khi gai đâm tứ bề mới đau đớn biết dường
nào!
Khi không làm
chủ được mình, con người
trở nên cô đơn, trống vắng,
thường có xu hướng tìm nguồn vui từ các cuộc
chơi tầm thường hay các thú vui vô bổ, và chỉ khi
‘ông chủ’ trở về với thân, họ mới cho rằng mình quá ngu muội khi quờ quạng
trong “vùng mù” tối tăm không định hướng! Khi không làm
chủ được mình, con người
trở nên liều lĩnh và bất cần, ngạo đời và khinh bạc tất cả. Họ có những
biểu hiện như ta đây là người hùng và mạnh mẽ,
nhưng nào biết được,
hơn bao giờ hết, họ thật sự yếu đuối và dễ dàng sa ngã nếu chẳng
may rơi vào những cám dỗ mà bình thường không cần cố gắng họ
cũng có thể vượt qua dễ dàng.
Khi không làm chủ được mình, con
người trở nên thiếu bao dung, ngay cả với chính bản thân mình, thậm chí có khi ác độc với người vì họ tự
nhủ: “Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng”.
Với lòng tham, dù có nhận được sự tử tế của những người xung
quanh, họ vẫn cảm thấy thiệt thòi, thiếu thốn, có cảm giác như mất đi niềm tin vào bản thân, con người
và cuộc sống. Trong hoảng loạn, họ tự hủy hoại mình bằng cách này hay cách khác
và làm tổn thương những người xung
quanh cũng như môi trường sống. Đối với họ, tương lai chẳng
có ý nghĩa gì mà chỉ là một bầu trời xám xịt. Thế là, họ hằn học cho rằng, cuộc đời quá bất công và tàn nhẫn, nhưng tiếc rằng
họ không tự xét mình. Những lúc như
thế, con người
không bao giờ suy nghĩ chín chắn, cánh cửa này khép lại thì nhiều cánh cửa khác
sẽ mở ra và cuộc sống vẫn luôn độ lượng với những người có ý chí tiến thủ và nghị lực vươn lên để dần
tập làm chủ lấy mình.
Khi không làm chủ được mình, con người luôn sống trong
tình trạng mất thăng bằng. Dù hai chân bước đi trên đất mà tâm cứ chao
đảo, hụt hẫng, bất an và căng thẳng.
Trí thông minh và sự giỏi giang thường ngày trở thành một mớ hỗn tạp và
bấn loạn. Lầm lũi và cô đơn, hoang mang và mỏi mệt, con người sống trong
bế tắc và khổ đau. Khi không làm chủ được mình, con người chẳng bao giờ
nhận thức rằng, dù chuyện gì xảy ra và tác động đến mình thế nào, cảm
xúc (phản
ứng của tâm đối với các tác động) dù có cường độ mạnh mẽ đến đâu, đó
cũng chỉ là cảm xúc nhất thời, rất có
thể không chính xác và luôn là hàm số có độ biến thiên lớn nên không ổn
định. Trong
dao động, họ không đủ tỉnh táo để hiểu rằng, cần giữ tâm thăng bằng, ít
dao động mới tìm được giải pháp tối ưu trong những
lúc ngặt nghèo nhất. Nói gì thì nói, một khi đã rơi vào “vùng
mù” thì đành buông xuôi theo nghiệp lực (sức mạnh của thói quen)! Ngay
cả tiếng “kêu cứu” cũng không thốt ra được, nói chi đến việc vẫy vùng đi
ngược lại
sức mạnh của bản năng. Khi ấy, con người như đang
“sốt cao” với sự tác động của nhiều duyên bên
ngoài, nổi cộm nhất là tác động ghê gớm của lốc xoáy danh và lợi. Khi
không làm
chủ được mình, con người mất bình tĩnh, chỉ có mơ và mờ, quờ
và quạng mà thôi.
Làm chủ tự tâm: an nhiên và tĩnh tại
Ba từ đầu
tiên của kinh Pháp cú là “Tâm làm chủ”. Đức Phật đã
nhắc nhở
chúng ta, tâm định hướng và dẫn
đường cho tư duy của ý, lời nói của miệng
và hành động của thân. Do đó, nếu tâm ta bị dính vào tiền, thì mọi
tư duy và hành động của ta đều nhắm vào tiền, rồi đắm vào tiền. Nếu tâm ta muốn danh
tiếng, thì mọi tư duy và hành động của ta chỉ nhắm vào
danh tiếng, rồi
đắm vào danh tiếng. Nếu tâm ta hướng về sự
toàn thiện, toàn giác, toàn chân thì mọi tư duy và hành động của ta đều
hướng vào sự tĩnh lặng của tâm và trí sáng suốt của tuệ.
Vấn đề là tâm
chúng ta thường hỗn loạn và hướng về cả trăm điều mang theo hơi hướng
của tham lam, sân giận và si mê cùng một lúc. Tâm phân tán, loạn xạ như
vậy, thì tư duy và hành động không có định hướng, lăng xăng như khỉ
chuyền cành, tung hoành như ngựa chứng không
cương và không tập trung vào đâu được. Tâm loay hoay như người ở trong
rừng, không tìm ra đường lớn mà chỉ
loanh quanh trong bụi rậm và mệt nhoài,
đúng như Trịnh Công Sơn từng
viết “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”.
Một khi làm chủ
bản
thân, con người có khả năng gom tụ nguồn năng lượng của mình và
điều
hướng chúng theo lý trí. Như vậy, điều
chính yếu là tập trung tâm vào một điểm mà nhà Phật gọi là nhất tâm để thân đi
không chệch hướng. Kinh Di giáo dạy: “Chế
tâm nhất xứ, vô sự bất biện” là vậy. Khi có thể dùng sức thiền định
nhiếp tâm về một mối thì trí tuệ phát sáng, không có việc gì không giải quyết
thông suốt. Tâm loạn thì thân loạn, tâm an thì thân an.
Khi có thể dùng sức thiền định
nhiếp tâm về một mối
thì trí tuệ phát sáng, không có việc gì không giải quyết
thông suốt
Kỹ năng làm chủ bản thân
1- Ý thức về hành động của mình
Mỗi
người
đều có khả năng nhận thức và nhận thức ấy là
điểm nhấn để định hướng, đặt
mục tiêu cho chặng đường dài và tạo “cú hích” khởi đầu
cho mọi tư duy và hành động trong cuộc sống. Quá
trình này đòi
hỏi chúng ta phải luôn tự xem xét, phân tích và kiểm tra trong suốt quá trình
thực hiện hành trình cuộc sống. Ý thức về hành động của mình là bước căn bản đầu
tiên để biết rõ mình là ai, đang đứng ở vị trí nào, mình cần làm
gì và hướng tới những giá trị nào.
Sự tự chủ thể
hiện ở khả
năng nhận thức về tư duy và hành động của
chính mình, rõ biết tính chất của thiện ác và hậu quả cũng
như ảnh hưởng của những
hành động này tác động đến bản thân, những
người liên quan và môi trường
xung quanh như thế nào để xác định
những gì nên làm và không nên làm. Nhận thức cần được đặt
trên cơ sở thẩm định của mình về hành động của thân, lời
nói của miệng, suy nghĩ của ý và phải phù hợp với ý kiến của
người có khả năng và thẩm quyền
trong lãnh vực này, trong kinh thường gọi
là “người trí”; đồng thời, nhận thức này cần
tương ưng với nguyên lý duyên sinh nhân quả vận hành khách quan chi phối
vũ trụ.
Đức Phật khuyên chúng ta chỉ nên tin tưởng và thực
hành những
điều hội
đủ cả ba tiêu chí trên, nghĩa là tôn trọng khả năng nhận định
của mình, tôn trọng nhận định của người trí và tôn trọng
nguyên lý duyên sinh nhân quả. Điều này được ghi lại
trong bài pháp Đức Phật giảng cho người Kalama (Tăng chi
bộ kinh, chương III, phẩm VII, kinh số 65).
Trong khi tiến
hành một việc gì, Đức Phật dạy chúng ta cần quán chiếu để
nhận thức đúng theo ba tiêu chí trên ngay ở giai đoạn
chuẩn bị,
giai đoạn đang tiến hành và sau khi hoàn thành công việc. Nếu việc
ấy có lợi cho mình, có lợi cho người, có lợi
trong hiện tại và lợi ở tương lai thì mới nên
tiến hành (Kinh Giáo giới La Hầu La, Trung bộ kinh số 61). Khi tiến hành
một việc gì, chúng ta nên chú tâm quán xét từng hành vi cử chỉ của mình, - kiểm
chứng tính chất và động cơ để có định
hướng tốt đẹp trước khi tập
trung năng lượng vào thực hiện. Trong lúc đang làm, chúng ta
lại tiếp tục quán xét để giữ cho định hướng ban đầu
không bị chệch
đi. Sau khi thực hành, nhìn lại thành quả, chúng ta đánh giá lần nữa để
xem có cần rút kinh nghiệm thực tế gì từ việc làm này hay không. Sự tỉ mỉ và thận
trọng từng chút như vậy đảm bảo cho chúng ta nhận thức rõ
ràng tâm ý của mình trong mọi lúc, mọi nơi. Khi thật sự kiểm
soát được bản thân, chúng ta dần tự chủ và điều khiển tâm mình
vào những việc có lợi ích, hợp lý và dần bỏ đi những thói quen không tốt, không
phù hợp.
2- Khép mình vào kỷ luật
Muốn làm chủ bản
thân thì cần khép mình vào kỷ luật để tận hưởng
hạnh phúc của sự ung dung trong khuôn phép với sự hỗ trợ từ các quy tắc, điều
lệ cụ thể. Ở
đâu có khuôn phép, ở đó có kỷ cương và nề nếp. Ở đâu có kỷ
luật, ở
đó có chuẩn mực và nghiêm minh. Chính những điều này đảm bảo sự tồn tại
dài lâu và phát triển bền vững của một tổ chức, cộng đồng. Bất cứ tổ chức
xã hội lớn nhỏ nào cũng có những quy tắc nhất định để ổn định trật tự và an
toàn cho các thành viên trong tập thể ấy. Trong đạo Phật, những nguyên tắc
sống hòa hợp
để
đảm bảo
đời sống thanh tịnh cho
Tăng đoàn đệ tử Phật được ghi lại trong Luật
tạng.
Đó là những nguyên tắc, những điều khoản
hướng dẫn mỗi người
đi đúng đường, tạo một ranh giới an toàn nhằm bảo vệ sự an bình và tự do
cho bản thân.
Luật tạng ghi rằng: “Giới luật là thọ mạng của Chánh pháp, giới
luật còn, đạo Phật còn; giới luật mất, đạo Phật mất”. Điều
này được rút ra từ lời dạy sau cùng của Đức Phật nhắc nhở các đệ
tử: “Sau khi ta nhập diệt, giới luật sẽ thay Ta để làm thầy của các thầy. Ở đâu có giới
luật thì ở đó có Ta. Nếu các thầy trong Tăng chúng thực
tập giới luật nghiêm chỉnh thì giáo pháp của Ta sẽ có thể tồn tại lâu dài, nếu
không, giáo pháp của Ta sẽ dần bị hoại diệt”. Hơn nữa,
Ngài nói đến những tai hại khi vi phạm những nguyên tắc
này cũng như những lợi ích khi tuân thủ nghiêm túc những nguyên tắc này
(Kinh
Đại bát Niết-bàn, Trường bộ kinh số
16).
Khi sống khép
mình trong những nguyên tắc nhất định, chúng ta có thể chế ngự tâm
mình không để
các ham muốn bản năng lôi kéo, nên chúng ta được tự do tự tại để
quyết
định những gì cần làm. Stephen R. Covey đã
viết: “Chúng ta có quyền chọn lựa hành động của mình, nhưng
không có quyền chọn lựa kết quả của hành động” (“We are free to choose our actions, but we are not
free to choose the consequences of these actions.”). Sống không tuân theo một
chuẩn mực nào sẽ trở thành nô lệ của các cảm xúc, ham muốn và niềm
đam mê mang tính bản năng hoang dã và hầu như không có sự can
thiệp của
lý trí. Do đó, các hành động thực hiện trong
“vùng mù” thiếu ánh sáng của lý trí thường mang tính tự phát,
không có định hướng,
đôi khi đưa đến hậu quả không lường. Khả năng tự
chủ
giúp chúng ta điều khiển hành động theo lý trí
thay vì hành động
theo cảm tính, thích gì làm nấy trong những tình huống cụ thể.
Tự chủ, tự kiềm chế trong khuôn khổ của nguyên tắc liên quan đến
việc bỏ qua những niềm vui tầm thường, trước mắt, thay vào
đó là những mục tiêu cao thượng, lâu dài mà kinh thường gọi là “Phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh,
thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn
chánh lãnh thọ và học tập các học giới.” (Tương ưng bộ kinh, tập V, chương III, kinh số 46: Pātimokkha; Trung bộ kinh số 6: kinh Ước
nguyện, kinh số 53: kinh Hữu học, kinh số 107: kinh Ganaka Moggalana, kinh số 108: kinh Gopaka, kinh 125: kinh Điều ngự địa và nhiều kinh khác ở Tăng chi bộ kinh). Điều này đòi hỏi chúng ta phải có ý chí, nghị lực và lập trường kiên định trên cơ sở nhận
thức đầy đủ, rõ ràng những việc cần
làm.
3- Kiên định với mục tiêu đề ra
Có những
người tập cách sống bám sát mục tiêu đề ra bằng cách
luôn viết ra các mục tiêu hay giá trị đang theo đuổi
như một cách nhắc nhở theo kiểu “tự kỷ ám thị” tích cực, thế
nhưng ngần ấy là chưa đủ. Để
thực hiện được mục tiêu đề ra, chúng ta cần
có sự quyết tâm, kiên trì, nỗ lực cả ngày lẫn đêm để thực hiện những
mục
tiêu đó, chẳng hạn đối với người xuất
gia là thường xuyên thực hành giới và định (Tương
ưng bộ kinh, tập I, chương II, phẩm 1).
Nếu
không kiên định như vậy,
năng lượng của chúng ta dần hao mòn và không đủ sức để theo đuổi
chí nguyện. Trong kinh Di giáo, Đức Phật dạy chúng ta phải không
ngừng phấn
đấu
cho đến
khi đạt được mục tiêu tối hậu. Nếu dừng nghỉ giữa
chừng, chẳng khác nào mài cây để lấy lửa. Nếu mới
mài được một lúc, chúng ta dừng nghỉ, thì cây trở nên nguội lạnh và
chúng ta lại phải bắt đầu từ vạch xuất phát. Do vậy,
khi mài cây đến mức nóng rồi thì phải tiếp tục mài cho nhiệt
lượng tỏa ra nhiều hơn, đến khi đủ độ để
phát lửa mới thôi, vì thứ chúng ta cần là lửa vậy.
Thiếu tinh tấn thì không thể đến đích thành công, cho dù
có khởi đầu suôn sẻ. Trong cuộc sống, siêng năng xuyên suốt quá trình
là vấn đề đòi hỏi chúng ta phải có ý chí vững vàng và nghị lực kiên
định. Chỉ khi nào nuôi dưỡng được lòng
kiên định, chúng ta
mới có thể làm chủ bản thân trước bao sóng gió nghiệt ngã của cuộc đời
để nuôi dưỡng
thân tâm vững chãi. Đức
Phật khuyên nhắc các đệ tử: “Ta không thấy một pháp nào khác, do pháp ấy, các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi, và các pháp bất thiện đã sanh được đoạn tận, như tinh tấn tinh cần.” (Tăng chi bộ kinh, chương I, phẩm VII, kinh số 1). Những
ai luôn an trú trong pháp thiện với sự hỗ trợ của tinh cần, tinh tấn, sẽ được Đức Phật xác quyết “Ai
tinh cần, tinh tấn, người ấy sống trong an lạc.” (Tăng chi bộ kinh, chương I, phẩm XVIII, kinh số 12).
Không chỉ
trên bước đường tu tập, trong cuộc sống
thường ngày cũng thế. Nếu không kiên định hoặc sự
kiên định không bền vững, thì con đường ta đi
trở nên vô cùng khó khăn khi những cảm xúc, ham
muốn, đam mê luôn có sức quyến rũ và lôi kéo
mãnh liệt, lúc nào cũng trì kéo, chống lại sự nỗ lực và quyết tâm của mình. Khi
ấy, chúng ta có thể dễ dãi với nhu cầu tham đắm những khoái cảm tầm
thường, thỏa hiệp với những đòi hỏi mang tính bản năng, dễ
dàng rơi vào tình huống không cần biết đến hậu quả thế nào, chỉ biết
hưởng thụ để thỏa lòng tham ái. Ví như chúng ta để đồng
hồ báo thức vào lúc 4 giờ, nhưng khi đồng hồ reo
thì chúng ta lại tắt chuông và cho phép mình ngủ thêm 5 phút nữa vì “như
thế cũng chẳng sao”. Thế nhưng, 5 phút rồi 10
phút trôi qua, chúng ta vẫn không muốn dậy. Do đó, kiên định
với mục tiêu, hay còn gọi là tinh tấn theo thuật ngữ nhà Phật, là yếu tố cần
thiết
để góp phần làm chủ vận mệnh của mình trong cuộc sống.
4- Quán sát tự thân
Tự nhìn lại bản
thân trong mọi hành động, lời nói và suy nghĩ là cách hữu ích để
rèn luyện kỹ
năng tự quán sát bản thân trong chánh niệm. Qua đó, chúng ta có thể khuyến
khích, nhắc nhở bản thân về những mục tiêu và giá trị
chúng ta đang hướng tới để chủ động chỉ đạo tâm ý, dẫn dắt năng lực
và điều khiển hành vi của mình đi đúng hướng nhằm đạt đến
mục
tiêu đã định. Tất cả những diễn biến của tâm ý và hành động,
dù thô hay tế,
đều cần
đặt trong khuôn khổ nhất định. Hãy luôn tự nhủ: cái giá của
kỷ luật và tự chủ luôn rẻ hơn rất nhiều so với nỗi đau của
sự hối tiếc và thất bại. Biết nhìn lại mình là cơ sở để
chiến thắng bản năng và điều này đòi hỏi sự nỗ lực
không ngừng
để
đấu tranh vượt lên chính mình. Pháp cú
câu 104 dạy: “Thắng người đâu sánh
thắng mình/ Thắng mình chế ngự dục tình cao siêu”.
Khi quán sát mối quan hệ giữa tự thân với môi trường
bên ngoài, chúng ta thấu hiểu được nhiều điều để phát triển khả năng tự
chủ vững chãi hơn. Khi quán sát tự thân, chúng ta nhận thức rõ ràng,
thân này không có ngã chủ thể, chỉ
do các thành tố hợp lại theo duyên sinh mà thành (Tương ưng bộ kinh, tập IV,
chương I, kinh Đàn tỳ-bà), nên không tham đắm vào sắc thân,
nhờ vậy chúng ta dần tự tại hơn, tự chủ hơn trước những tác động bên
ngoài cũng như sự biến hoại đổi thay bên trong cơ thể. Từ chỗ không quan
trọng hóa
thân này, đối với việc thọ nhận thức ăn, y phục, chỗ trú ngụ và
thuốc men chữa bệnh để duy trì tình trạng sức khỏe, chúng ta không còn
xem trọng, lúc nào cũng
thản nhiên và không bị lôi kéo bởi các dục vọng tầm thường. Đức Phật
khuyên bảo các đệ tử cần phải “Như lý
quán sát thọ dụng món ăn không phải để vui đùa,
không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để thân này được sống lâu, và
được bảo dưỡng, để thân này khỏi bị thương hại, để hỗ trợ Phạm hạnh” (Tăng chi bộ kinh,
chương IV, phẩm XVI, kinh số
159).
Khi quán sát
tâm, chúng ta trải nghiệm tự thân, điều mà Đức Phật nhắc nhở rất
nhiều lần trong kinh, khi tâm ô nhiễm thì con người trở nên ô nhiễm, khi
tâm thanh tịnh thì con người trở nên thanh tịnh,
ô nhiễm hay thanh tịnh là do tự tâm mỗi người vậy (Pháp cú
câu 165; Tương ưng bộ kinh, tập
III, chương I, kinh Dây thằng). Tự chủ là một kỹ năng cần
phải huân tập kiên trì trong một thời gian dài không gián đoạn
và Đức Phật gọi kỹ năng này là “khéo tự
mình quán sát lấy mình”. Những phương diện cần
quán sát thường xuyên là “có làm điều bất thiện về
thân, có làm điều bất thiện về miệng, có làm điều bất thiện
về ý hay không” (Tăng chi bộ kinh, chương II, phẩm
II, kinh số 5). Khi quán sát như vậy, hành giả có đủ
nội lực
để giữ mình vững chãi trước sự xô dạt của những
con sóng đam mê dục vọng tầm thường
đang ngày đêm ngấm ngầm dấy lên trong tâm mình vậy.
5- Giữ tâm điềm tĩnh
Điềm
tĩnh là giữ tâm ở trạng yên lành để chúng ta
đủ sáng suốt làm chủ những cảm xúc tiêu cực thay vì để chúng điều
khiển hành động của mình. Điềm tĩnh là biểu hiện
của
người có bản lĩnh, tự chủ, là yếu tố then chốt
giúp con người xử lý tốt các vấn đề trong giao tiếp và ứng xử.
Hơn thế nữa, người điềm tĩnh có khả năng tự
chế ngự và kiểm soát tốt các trạng thái cảm xúc của mình, nên ít khi bị
người khác hay ngoại cảnh tác động chi phối làm chệch
hướng
đi của mình. Đó là nguồn sức mạnh tiềm
ẩn giúp chúng ta suy xét thấu đáo mọi sự việc xung quanh, do đó có nhiều
cơ hội
để tìm ra giải pháp ứng xử hợp lý, hữu hiệu nhất trong khi những
người khác có thể không đủ bình tĩnh và kiên nhẫn.
Điềm
tĩnh giúp kiểm soát bản thân tốt hơn và sức mạnh nội
tâm không bị
phân tán. Điềm tĩnh giúp chúng ta giữ tâm an trú trong ngưỡng
kiểm
soát, tâm không dao động trước những tác động
của những
thăng trầm trong cuộc sống. Muốn làm chủ bản thân, chúng ta phải dần
đưa tâm về trạng thái tĩnh lặng với biên độ dao động
càng nhỏ càng tốt. Đây là điều kiện để phát huy sức mạnh
to lớn của lý trí trong cuộc sống để có thể “miễn nhiễm”
trước những lời khen ngợi, sự tâng bốc hay chê bai, chỉ trích ác ý của
người ngoài.
Người điềm tĩnh mới có đủ
nghị lực giữ tâm vững vàng trước những lời
chê bai của kẻ
ác ý, xem đó như món quà mà ta không nhận
thì người ấy tự đem về (Tương
ưng bộ kinh, tập I, chương VII, phẩm 1,
kinh Phỉ báng). Nếu chạm mặt với hoàn cảnh bất như ý, những lời nói
không thuận tai và hành động khó chấp nhận của
người khác, sự điềm tĩnh và bình thản của mình được
thử thách nhiều hơn. Người nào chiến thắng mình trong những
tình huống
khó khăn thì người ấy có khả
năng làm chủ tâm mình, người ấy thật sự có bản
lĩnh trong cuộc sống.
Tâm điềm tĩnh - Ảnh minh họa
Giữ tâm bình thản
trước những khó khăn, thử thách của cuộc đời, chúng ta có thể
chủ
động kiểm soát và điều khiển cảm xúc của mình, từ đó chọn
được giải pháp thích hợp và hiệu quả để phản ứng lại những tác động
từ
bên ngoài. Người bình thản không để sân giận, nóng nảy chi phối,
trái lại những cảm xúc này đều “ngoan ngoãn” theo sự chỉ đạo
của
tâm định tĩnh. Hãy nhìn cách phản ứng của mọi người
trong các tình huống sinh hoạt thường ngày, chúng ta
thấy rõ khả
năng và mức độ làm chủ bản thân của từng
người như thế nào.
Nếu phải chờ đợi ai đó
hay việc gì đó, người thiếu kiểm
soát tâm sẽ tỏ
thái độ nôn nóng, bực tức, luôn nhìn đồng hồ một cách vô nghĩa, vẻ mặt bực
bội,
căng thẳng; trái lại, người bình thản sẽ tận
dụng khoảng thời gian đó để theo dõi hơi thở
đang vào ra trong chánh niệm, hoặc theo dõi cảm xúc đang vận hành
trong tĩnh lặng.
Tóm lại, làm chủ
chính mình mới có thể sáng suốt quyết định mọi vấn đề và chọn giải pháp
hiệu quả nhất trong cuộc sống. Khả năng làm chủ bản thân,
giữ
tâm định tĩnh trước sự tác động của các yếu
tố
bên ngoài cũng như những cảm xúc tiêu cực bên trong được gọi
là định và khả năng tỏa sáng để suy xét thấu đáo mọi
việc và tìm giải pháp thích hợp cho mọi vấn đề trong cuộc sống
được gọi là tuệ. Định giúp chúng ta có đủ sức mạnh để làm chủ bản thân
và tuệ là khả
năng sử dụng sức mạnh ấy một cách thông minh và hợp lý. Có thực hành kỹ năng định
tĩnh mới có trí tuệ (Pháp cú câu 282), có trí tuệ thì mới có năng
lực tự chủ, sống bình an và hạnh phúc.
Khi làm chủ tự thân, chúng ta trọn quyền quyết định
vận mệnh
của đời
mình. Hạnh phúc tuyệt vời
là đây!