Giấc ngủ lý trí
giac ngu
GIẤC NGỦ CỦA
LÝ TRÍ
Đặng
Công Hanh
"Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò"
(Trần
Tế Xương)
· Các dấu ấn lịch sử
Có thể thấy
rằng, sau sự suy tàn của hai nền văn minh Hy-Lạp và La-Mã, thì kể từ thế kỷ thứ
4 đến thế kỷ thứ 10, lục địa Âu Châu chìm đắm trong thời kỳ mà các sử gia gọi
là đen tối (ténèbres). Kiến thức rực rỡ của hai nền văn minh Hy-Lạp và La-Mã
nói trên đã bị cất giữ trong những tu viện Công giáo. Châu Âu lúc bấy giờ đang bị
ngự trị bởi quan niệm tôn giáo có nguồn gốc Trung Đông này cho rằng thế gian là
tạm bợ và còn có thế giới khác vĩnh hằng gọi là Vương quốc của các Tầng Trời
(Rayaume des Cieux).
Vào khoảng thế
kỷ thứ 11 các nhà học thuật Châu Âu bắt đầu khám phá lại các tài liệu cũ của
nền văn minh Hy-Lạp trong đó có các kiến giải của Aristote để tìm lại nền văn
minh truyền thống của mình. Họ bắt đầu nhận định rằng thế gian có những thực
tại riêng của nó, vận hành theo qui luật riêng mà có thể hiểu được qua cảm quan và qua khả năng suy luận của lý trí. Từ đó
khởi sinh ra sự đối đầu giữa hai đức tin: một phía là tin tồn tại một thiên quốc (royaume céleste) có thể biết
được qua đức tin và sự mặc khải, phía khác tin vào một địa quốc (royaume
terestre) có thể nhận hiểu bằng ngũ quan và lý trí.
Vào thế kỷ thứ
13, Thomas d' Aquin đưa ra một quan điểm có tính cách tổng hợp hai quan niệm
nói trên trong một lý thuyết về vũ trụ: Trái đất nằm ở vị trí trung tâm, bao
quanh bởi 9 vòng cầu là nơi các hành di động
và ở vòng cầu thứ 10 ở rất xa trái đất, bất động, là nơi ngự trị của Thiên
Chúa. Trong 9 vòng có 1 vòng cầu của Mặt trăng di động; 8 vòng cầu kia được xem
là ổn định; trái đất được cấu thành bằng đất, nước, khí và lửa gọi là địa quốc.
Tổng hợp đề của
Thomas d' Aquin trở thành nền tảng tư
tưởng của Châu Âu thời Trung cổ. Và
cùng lúc đó, các nhà thông thái khác đã khám phá được trong kho tư liệu của
Aristote một số nghịch lý quan trọng. Ba thế kỷ sau đó, các nghịch lý này trở
thành mầm mống làm sụp đổ toàn bộ hệ thống tư tưởng thời Trung cổ. Một nghịch lý rất phổ biến: "Theo Aristote, mọi vật đều phải rơi với các vận tốc khác nhau tùy theo
trọng lượng của vật đó" vào thời kỳ này người ta phát biểu định luật: vật càng nặng càng rơi nhanh hơn, vì chúng
tiến về vị trí của chúng ở trung tâm vũ trụ.
Thế kỷ thứ 16,
tức sau 3 thế kỷ, Galilée kiểm nghiệm định luật này bằng cách cho nhiều viên bi
có độ lớn như nhau, có trọng lượng khác nhau, lăn trên cùng một mặt phẳng
nghiêng thì thấy tất cả đều lăn với cùng một vận tốc - thế là định luật trên bị phủ định.
Galilée còn
thiết kế một viễn vọng kính quan sát Mộc tinh, thấy được các vệ tinh của nó
luôn luôn thay đổi vị trí. Kết quả quan sát thực nghiệm này trở thành mô hình
nền tảng về sự vận hành của các thiên thể. Như thế là các thành phần của Thiên
quốc bị đặt thành nghi vấn.
Galilée mất năm
1642, cũng vào năm này Newton
ra đời. Với bộ óc thiên tài của mình, Newton
khám phá rằng Trái đất vận hành cùng một qui luật với sự vận hành của Thiên
giới chung quanh mặt trời. Thế giới của Newton,
các hành tinh vận động tự nhiên một cách cơ học, theo vài định luật nền tảng
được viết dưới dạng các phương trình toán học. Như vậy, cùng với Galilée, Newton đã phủ nhận vai
trò của một Thiên chúa và một linh hồn vĩnh cửu cần thiết tham dự vào sự vận
hành đó.
Quan điểm xác
định của hệ thống tư tưởng Galilée và Newton
thống trị mãi đến cuối thế kỷ 19, đã mang lại nhiều thành công cho nhân loại.
Có thể kể ra, từ cách nhìn cơ học và tự động của Newton mà Charles Darwin xây dựng nên lý
thuyết tiến hóa của mình.
Quan điểm chủ
đạo của ông cho rằng, trong một thời khoảng có thể rất dài, những sinh vật đơn
giản, thô sơ, tự động phát triển mà không cần đến sự can thiệp dẫn dắt của sức
mạnh thần bí để trở thành những sinh vật phức tạp ngày càng tỏ ra thông thái
như hiện nay. Như vậy, sự tạo thành con người không có bóng dáng của Thiên Chúa
và từ đó xuất hiện sự đối đầu dai dẳng giữa những tín đồ trung kiên Ki-tô-giáo
và những người có lòng tin thuyết tiến hóa hay có quan điểm khoa học.
Có thể nói, sau
khi Galilée mất đi, đến thời kỳ Newton,
khoa học phát triển không ngừng. Phương pháp khoa học được đề cao và người ta
tin rằng với sự trợ giúp của khoa học, nhân loại sẽ mau chóng được khai sáng.
Phong trào khai sáng (Enlightenment) rộng tỏa khắp Châu Âu và Bắc Mỹ tạo nên
thời đại Ánh sáng của phương Tây thế kỷ 18.
Thuật ngữ thời
đại Ánh sáng nói lên một nội dung trọn vẹn tư tưởng rằng khoa học sẽ giúp nhân
loại cải thiện đời sống vật chất và đồng thời chuyển hóa được sự tối tăm dốt nát,
mê tín và các định kiến lạc hậu mà các thế lực chuyên chế của vua chúa và nhà
thờ đã duy trì từ quá khứ. Sự phát triển và tiến bộ là chiều hướng tất yếu của
lịch sử.
Những người
Châu Âu và người Mỹ đều là hậu duệ của những thế hệ đã tạo nên giấc mơ vĩ đại
của Thế kỷ Ánh sáng, giấc mơ tin rằng con người có thể cải tạo được, và xã hội
sẽ tốt đẹp hơn nhờ trí thức và giáo dục.
Họ tin rằng có thể xóa bỏ được thái cực nghèo khổ và bất công. Công chúng được
giáo dục tốt, được thông tin, đầy đủ, một nền dân chủ thực sẽ trở thành hiện
thực khoa học và công nghệ được xem là có khả năng giải quyết mọi vấn đề tồn
tại của xã hội bằng sức mạnh của tri thức khoa học, bằng khả năng dự báo tương
lai thông qua toán học.
Thời kỳ này có
hai tên tuổi lớn với hai tuyên ngôn về phương pháp nghiên cứu khoa học được
giải thoát khỏi các giả danh tùy tiện hay mê tín đó là Francis Bacon (1561 - 1626) và René
Descartes (1596 - 1650). Bacon nhấn
mạnh tầm quan trọng của các sự kiện quan sát như là khởi điểm của mọi khoa học
và lý thuyết chỉ đáng tin cậy trong một chừng mực được dẫn xuất từ những sự
kiện quan sát đó. Người ta gọi cách tư
duy này là "phép qui nạp Bacon".
Ngược lại, Descartes chú trọng đến hệ thống diễn dịch chặt chẽ và không chứa
đựng mâu thuẫn nội tại cho lý thuyết. Ông đề cao sự mở rộng cấu trúc của trí
tuệ kiểu Euclide bằng cách đưa thêm các tiên đề, định nghĩa và giả thiết mang
tính hiển nhiên tự thân (self - evident) rồi từ đó suy ra các hệ quả.
Về phía Newton, một phần có ảnh
hưởng kiểu qui nạp Bacon, mặt khác có chịu ảnh hưởng phương pháp luận của
Descartes ở một chừng mực, để sáng tạo nên phương pháp riêng của mình. Chẳng
hạn, ông đã đưa thêm các tiên đề, các định nghĩa và giả thiết mang tính động
lực học vào lý thuyết chuyển động và lực hấp dẫn của mình theo chỉ dẫn của
Descartes. Vì thế mà các triết gia về khoa học gọi là "phương pháp diễn dịch - giả thuyết"
có một hình thức thích đáng của lý thuyết được xem như một hệ thống toán học,
ông cũng tin rằng, mọi hiện tượng với vật lý học cũng có thể khảo sát bằng một
hệ thống như vậy. Kể từ năm 1740, thì hầu như không còn ai nghi ngờ sự đúng đắn
trong quan điểm của Newton
nữa.
Tuy vậy, có thể
thấy rằng sự tin tưởng này có phần nào bị giản lược quá mức dưới góc độ củng cố
về sự có thật của một thế giới hoàn toàn khách quan chỉ bao hàm có không gian,
thời gian tuyệt đối và những hạt vật chất. Khoa học trở thành một đức tin chủ
đạo, trước nhất tại Tây phương rồi lan rộng ra toàn thế giới. Hơn thế nữa, có
bộ phận đông đảo còn tin rằng khoa học thực sự có khả năng tìm thấy chân lý của
thế giới thực tại. Đức tin này vẫn còn tiếp diễn ở trình độ đại chúng và cả ở bộ
phận không nhỏ trong giới học thuật cho đến ngày nay.
*
* *
Thế nhưng, thực
tiễn lịch sử thế giới sau đó không lâu đã không xác nhận niềm lạc quan thơ ngây
đó và đã có không ít nhà tư tưởng thế kỷ 20 đã phê phán phong trào Khai sáng với nhiều góc độ khác nhau. Đa số họ cho rằng:
khoa học là sự nghiệp dẫn ta đến gần mục đích nào đó mà tự nhiên đặt ra một
cách tiên thiên. Nhưng liệu có hay
không một mục đích như thế?
Sự băn khoăn
được củng cố khi Darwin
đã công bố công trình về học thuyết tiến hóa năm 1859. Điều gây choáng váng
trong học thuyết không ở chuyện loài
người hình thành từ loài khỉ mà ở chỗ khẳng định sự tiến hóa không có mục
đích đặt trước bởi Thượng đế, mà chỉ là sự
lọc lựa tự nhiên và cạnh tranh sinh tồn, đơn thuần vì mục đích sống sót. Sự
phát triển của khoa học cũng mang dáng dấp tương tự. Vậy thế giới phải trở nên
như thế nào để khoa học tồn tại và để con người có thể nhận thức được nó? Liệu
con người còn tôn vinh quá cao, với sự kỳ vọng quá lớn đối với tri thức khoa
học trước các tri thức tín ngưỡng khác hay không?
Thực tiễn trong
những năm sau này, hai cuộc thế chiến đã nổ ra cùng với nhiều cuộc xung đột vũ
trang khác, những cuộc đàn áp và thanh trừng sắc tộc, chiến tranh vi trùng,
chiến tranh hóa học, sự tàn phá môi trường và mối đe dọa hủy diệt của vũ khí
hạt nhân. Các cuộc tranh chấp vẫn tiếp tục giải quyết bằng bạo lực ở một thể
loại chiến tranh với sự hỗ trợ của công nghệ mới như tên lửa và điện tử để gieo
rắc cái chết từ xa.
Phải chăng, sự
tiến hóa của nhân loại theo hướng lầm lạc đến mức loài người có thể tự hủy diệt
chính mình và môi trường nuôi dưỡng mình. Có thể chăng tri thức phát triển quá
nhanh để đến lúc phải tự vấn, và lo âu về những công nghệ do mình tạo ra. Vậy
thì có phương cách nào cứu vãn cái giấc mơ của Thế kỷ Ánh sáng lúc này đang hóa
thân thành một cơn ác mộng?
Thực sự đã đến
lúc chúng ta nên dừng lại trong chốc lát và lùi lại để ngắm bức tranh toàn cảnh
của xã hội, của thế giới, của vũ trụ. Nếu quan sát nền văn hóa của nhân loại
với nghệ thuật và âm nhạc, với tôn giáo và tâm lý học, chúng ta sẽ thấy khái
niệm tiến bộ bấy lâu nay vẫn chủ yếu
dựa vào tiến bộ vật chất, một thể dạng
tiến bộ làm cho kinh nghiệm của ta về thế giới trở nên thô thiển và nghèo nàn,
đã ăn sâu vào tư duy của xã hội Tây phương.
· Đâu là căn nguyên
Đi tìm một căn
nguyên hành xử của con người như vậy phải xoay hướng qua các nhà tâm lý học và các nhà nghiên cứu
thần kinh. Bậc trí giả lớn có nhiều đóng góp là Sigmund Freud. Ông là bác sĩ về thần kinh người Áo, cha đẻ ngành
Phân tâm học (Psychoanalysis), sau này trở thành Chủ nghĩa Freud (Freudianism) với
phát kiến đề xuất hai bản năng gốc là bản năng tình dục (libido) và bản năng
chết (pulsion de mort), xem đó là nguyên động lực chi phối tiến trình lịch sử
nhân loại.
Ông cho rằng
cấu trúc nhân tính hay ngã tính của con người gồm 3 phần: Bản năng (Id), ngã
tính (ego) và siêu ngã tính (superego).
+ Bản năng
(Id), là cội nguồn nhân tính, nơi tích lũy nguồn năng lượng và cung cấp năng
lực hoạt động cho ý thức (ego) và siêu thức (superego). Bản năng có hai thể
dạng:
a/ Bản năng
tình dục (libido) là loại năng lực chi phối nội tâm, vừa phát triển tình dục
lành mạnh, vừa mở rộng cho đến các hoạt động khoa học, mỹ thuật cá nhân, là
xung năng của tình yêu, vừa là căn nguyên của bệnh lý.
b/ Bản năng
chết (pulsion de mort) thể hiện ở mức độ gia tăng năng lượng trong bản năng
(Id) đến cực độ như giận dữ, tức tối... làm tăng áp huyết, ngất xỉu, tai
biến... Và xu thế muốn chết là xu thế tìm giải quyết trạng thái đó bằng cách
quay về trạng thái vô tri vô giác của cái chết.
+ Ý nghĩa tự
ngã (ego), luôn luôn chịu sai sử bởi bản năng (Id) mà hướng chính là mọi hình thức của nhu cầu,
khát vọng, dục vọng, tham muốn giao tiếp với thế giới thực tại khách quan. Ý
thức chính là bản năng khát vọng sống của tự ngã (cái tôi). Ý thức luôn luôn bị
khống chế bởi qui ước khuôn mẫu của xã hội, làm thành dấu ấn trong vô thức
(inconcient). Cái "tôi" của mỗi cá thể luôn luôn bị phá vỡ bởi mâu
thuẫn, xung đột của bản năng dục vọng và sự kiềm chế của ý thức cộng đồng xã
hội.
Sigmund Freud
lập luận rằng lý trí, cái vốn được xem là nền tảng chắc chắn của xã hội có nề
nếp trật tự, thực ra chỉ là bề nổi của một đại dương vô thức mênh mông, một
tầng tâm lý chìm sâu bên dưới, ẩn giấu những khát vọng điên cuồng và những bốc
đồng thôi thúc. Chính sức mạnh của vô thức này thường xuyên đe dọa bùng nổ
trong cuộc sống tỉnh thức con người.
+ Siêu ngã
(Superego), còn gọi là siêu thức, nó vượt lên trên bản năng tình dục
(sexuality) và ý thức tự ngã để duy trì giá trị truyền thống và các lý tưởng
đạo đức xã hội. Nó tác dụng kiềm chế sự thúc đẩy của khát vọng dục tính (sexual
desire) nhưng mặt khác thôi thúc ý thức
bảo trì các giá trị đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội. Nói cách siêu thức là ý
thức vươn lên hoàn thiện của đời sống.
Vào thời kỳ này
còn có một số nhà tâm lý khác như Gustav Jung, H.Mead, Erich Fromm... tuy có
những quan điểm phần nào khác nhau nhưng không lớn lắm. Tuy nhiên có sự nhìn
nhận ở xã hội Tây phương là lý thuyết của Freud và Jung xem như những dấu ấn
vàng son trong lịch sử tâm lý học hiện đại. Đại thể, có thể rút ra một số nét
chung nổi bật:
1/ Tất cả lý
thuyết tâm lý Tây phương đều quay quanh chủ điểm "khát vọng sống" dù
cho có nhiều biểu đạt các tên gọi khác nhau, tất cả đều nói lên tiếng nói dục
vọng của nhân tính, cội nguồn của khổ đau và hạnh phúc.
2/ Đều thừa
nhận cái nhân tính tồn tại như một ngã thể (ego) hay một thực thể (entity) độc
lập và vĩnh cửu. Quan niệm hạnh phúc là sự thỏa mãn các nhu cầu của đời sống
tâm lý và vật lý. Do đó, hạnh phúc luôn luôn mang tính tạm thời và không ngừng
thay đổi theo sự thôi thúc của nhu cầu và dục vọng. Rõ ràng, đó chỉ là thứ hạnh
phúc mong manh xây dựng trên cơ cấu bất định của thế giới tâm lý và vật lý.
3/ Lý thuyết
tâm lý phương Tây nhận diện ra khát vọng, dục vọng, tham muốn là một sự thật về
bản chất của ý thức tự ngã hay nhân tính. Đồng thời nhận ra cái mâu thuẫn nội
tại của nhân tính ở mặt mong muốn hạnh phúc bình yên, mặt kia là sự thiêu đốt
bởi dục vọng thấp hèn - nghĩa là mâu thuẫn giữa khát vọng của tự ngã và ý thức
xã hội, ý thức đạo lý. Và cũng do con người với ý thức tự ngã cho rằng đây là Tôi, đây là cái của Tôi, và chấp thủ bám víu vào cái Tôi, cái tự ngã của tôi,
nghĩ rằng đó là thường tại vĩnh hằng, làm cho con người rơi vào khủng hoảng này
đến khủng hoảng khác. Đó chính là sự
khủng hoảng của con tim và lý trí.
4/ Cả 3 tác
giả From, Jung, Freud đều lấy Vô Thức
làm nền móng, mà bên trên là cơ đồ kiến trúc của ý thức. Freud thì đó là nơi
tập hợp những đen tối xấu xa. Còn nền móng Vô thức của Jung thì là kho chứa những
khôn ngoan sáng suốt.
Tuy nhiên khi
đối mặt với các vấn đề như khát vọng tình dục, khát vọng yêu thương, khát vọng
của ý thức... thì hướng giải quyết chỉ là đáp ứng "nhu cầu" tức là
chiều theo tiếng gọi của "ý thức - tự ngã".
· Quan điểm của Phật học
Bối cảnh toàn cầu cho thấy nền văn minh của nhân loại hiện nay đang rơi
vào khủng hoảng. Các nước văn minh tiên tiến đang tập trung phát triển kỹ nghệ
nặng, đặc biệt là đại kỹ nghệ, các nước đang phát triển thì đang trên đường
công nghệ hóa - hiện đại hóa. Tất cả đều tập trung vào phát triển kinh tế có
nghĩa là quan tâm đến sản phẩm và lợi tức, lãng quên sự phát triển một hướng
sống tâm linh và đạo đức.
Hướng phát
triển này tất yếu ràng buộc với tâm tham
ái và chấp thủ của con người, hậu
quả nó mang lại cho thế giới nóng lên các cuộc tranh chấp, vũ lực, các cuộc
khủng hoảng xã hội, đạo đức và môi sinh... có nguy có đưa đến thảm họa hủy
diệt.
Khủng hoảng cơ
bản nhất của cá nhân và xã hội chính là khủng hoảng của chính tư duy của cá
nhân. Tư duy là tác nhân của hành động. Do tà tư duy khởi lên thì các tà nghiệp
xuất hiện, làm khủng hoảng tâm thức con người. Tư duy được xem như là thước đo của
hiện hữu, là phương tiện tìm kiếm chân lý và hạnh phúc. Mặt khác, chính tư duy
đã gắn cho sự vật hiện tượng một tự ngã (self) tưởng tượng, trong khi đó sự vật
hiện tượng không có tự ngã đó. Thế cho nên tư duy con người tạo ra một thế giới
tưởng tượng làm cho người chìm sâu vào bóng tối của tư duy.
Con đường tư
duy của phương Tây khác hẳn với tư duy phương Đông ở chỗ: phương Tây nhấn mạnh các tri thức về cuộc đời, phương Đông
chú trọng đến sự chứng ngộ sự thật về
cuộc đời. Aristote, một triết gia lớn của Hy Lạp diễn tả có 3 nguyên lý cơ
bản của tư duy:
- Nguyên lý
đồng nhất: một vật là A thì luôn luôn là A.
- Nguyên lý phi
mâu thuẫn: Một vật gọi là A có khi gọi là , nhưng không thể vừa gọi là A, vừa gọi là .
- Nguyên lý
triệt tam: Một vật có thể lúc này được gọi là A, khi khác gọi là B, nhưng không
hề gọi là nửa A và nửa B.
Ba nguyên lý
này giả định rằng mọi hiện hữu đều có ngã tính cố định, trong khi đời sống thật
thì mọi hiện hữu thay đổi bằng sát na. Đây chính là lỗ hổng.
Hầu hết các lý
thuyết tâm lý đều tập trung xoay quanh thực thể ngã tính (self) như là điểm trung
tâm. Điều này góp phần tạo nên sự phát triển cho tri thức con người, nhưng nó
cũng tạo ra không ít nghịch lý trong việc xây dựng đời sống hạnh phúc.
Bởi vì, tính
chất của ngã tính là chấp thủ (attachment) và khát vọng (desire), nó diễn tiến
trong sự phân biệt thế giới thực tại khách quan thành giới hiện hữu của sai
biệt. Và mỗi sự vật hiện tượng đều được ý thức tự ngã áp đặt lên một bản sắc cá
biệt. Hẳn đây là thế giới của giả tưởng sai lầm (false imagination).
Với tư duy hữu
ngã, con người thấy sự vật có một ngã tính thường hằng và chấp thủ nó, che mờ
tâm thức khiến không thấy được thực tại như nó là: Thấy như thế gọi là "điên đảo kiến". Vì vậy con đường
giải quyết khủng hoảng tư duy là đi ra khỏi "điên đảo kiến" mà phải thấy sự thật "Duyên khởi" có
mặt khắp nơi vạn hữu như Đức Phật dạy: "Cái này có mặt thì cái kia có mặt, cái này sinh thì cái kia sinh".
Cái thế giới mà chúng ta đón nhận, theo sự thật Duyên khởi, thật ra là thế giới
của lòng khát ái, của Ái thủ và Vô minh mà không phải thế giới chân thật, bởi
vì nó đã bị bóp méo, bị biến dạng bởi sự can thiệp của tình cảm, của tri thức
sai biệt tức là sự can thiệp của ái, của thủ và vô minh .
Trước viễn cảnh
của thực tại các nền văn minh nhân loại hiện nay đang rơi vào khủng hoảng của
sự mất cân bằng giữa đời sống vật chất và tinh thần. Đối với các nước công nghệ
siêu cường thì căn bệnh trầm kha không phải là kinh tế, mà chính là
"stress" một sự khủng hoảng tâm lý thời đại. Ngược lại, các nước kém
phát triển thì căn bệnh khủng hoảng bao gồm cả hai mặt: khủng hoảng kinh tế và
khủng hoảng tâm lý.
Nếu sự phát
triển chỉ dựa vào thu nhập kinh tế và tiền tệ có nghĩa là dựa vào khát vọng làm
giàu, tôn vinh sự bảo thủ hay nói theo ngôn ngữ Duy thức Phật học là tham ái và
chấp thủ thì tất yếu sẽ gặp phải khổ đau, bất hạnh và tuyệt vọng.
Vì vậy, trước
viễn cảnh những khủng hoảng mà khủng hoảng sâu đậm nhất là khủng hoảng tâm lý
qua hội chứng stress thời dại, nên
các giá trị của sự sống của con người cần phải xét lại. Đức Phật dạy rằng:
"Các hành vô thường, các pháp là vô
ngã". Sự vật, hiện tượng là hành. Hành là những pháp do tập hợp mà có.
Vì vô thường nên cũng là Vô ngã. Vô ngã là không có một linh hồn bất diệt,
thường hằng. Đây là tia nắng rực rỡ, khả dĩ soi sáng và giải quyết các vấn đề
hiện đại của con người. Đây là lời kêu gọi đánh thức con người đi ra khỏi cơn
mộng mê về một tự ngã sai lầm, huyễn hoặc, rồi từ đó vươn lên đời sống minh
triết của thực tại Vô ngã. Con đường đi đến thực tại vô ngã đòi hỏi con người
một nỗ lực cao nhất, ý thức trách nhiệm cao nhất và một tinh thần bi - trí -
dũng cao nhất.
Tóm lại, bắt
đầu từ ý thức (consciousness) của mỗi con người. Nếu nhận thức được thực tại,
thấy được thực tại, hiểu rõ được chân lý thì có thể biến đổi được thế gian này,
làm cho nó tồn tại hay làm cho nó hủy diệt. Đó chính là nói rằng: Ma hay Phật
cũng đều do tâm mà ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/
Thích Chơn Thiện: Lý thuyết nhân tính (Luận án Tiến sĩ Phật giáo)
NXB. Phương
Đông - 2009
2/
Huyền Trang : Thành Duy Thức: Tuệ Sĩ
dịch và chú giải
NXB. Phương Đông - 2009
3/
Thích Tâm Thiện: Tâm lý học Phật giáo
NXB.
Thành phố HCM năm 2000
4/
William F.Lawhead: Triết học phương Tây
NXB.
Tự điển Bách khoa - 2012.