Sống bình an và hiến tặng bình an
song binh an
Hằng Như
Trong các phương diện biếu tặng giữa con người, đem lại
sự bình an, không nguy hiểm cho đời là sự biếu tặng nhẹ nhàng, sâu sắc, không
phô trương, không hình tướng nhưng có tác động vô cùng tích cực và lâu dài đến
xã hội ta đang sống. Nếp sống đạo đức của mỗi cá nhân là chất liệu làm nên món
quà tặng tuyệt vời này. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại, con người có xu hướng
thiên trọng vật chất, cứ ngỡ đó là chìa khóa đưa đến hạnh phúc cho mình, nên
không mỏi mệt lao vào vòng xoáy của vật chất mà xem nhẹ giá trị đạo đức xã hội.
Thế rồi khi mệt nhoài trên con đường danh lợi, họ bế tắc và hiểu ra rằng giàu
có không liên quan nhiều đến hạnh phúc của người sở hữu nó. Những ai kịp nhận ra
“đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt” (Trịnh
Công Sơn) sẽ biết chuyển hướng đi tìm một hệ giá trị khác liên hệ nhiều hơn đến
hạnh phúc thật sự. Đạo Phật mở ra một hướng nhìn mới cho tất cả: tìm hạnh phúc
nơi chính bản thân mình chứ không phải thứ hạnh phúc gắn trên mớ vật chất trần
gian tạm bợ ngoài kia. Đức Phật xác định trách nhiệm bản thân đối với cá nhân mỗi
người cũng như đối với cộng đồng xã hội là nền tảng cơ bản để xây dựng một xã hội
an hòa và hạnh phúc. Ngài tuyên bố, người có đức hạnh không chỉ đem an lạc cho
mình, mà còn đem lại an lạc cho cha mẹ, cho vợ con, cho các người phục vụ, cho
các người làm công, cho bạn bè thân hữu (Tương ưng bộ kinh, tập I, chương III,
phẩm II, kinh số 9: Không con). Đây
là cách Đức Phật khuyến khích mỗi con người hiến tặng cho đời sự bình an qua bức
thông điệp mang giá trị đạo đức và nhân bản siêu tuyệt của đạo Phật. Sau đây là
một số giải pháp gợi ý để chúng ta kiến tạo một đời sống bình an, đồng an hiến
tặng sự bình an ấy để chung tay xây dựng một cuộc sống lành mạnh trong cộng đồng.
Sử dụng thời gian hợp lý vào những việc có ích
Thời gian sống của mỗi người trên cuộc đời này là có hạn.
Cuộc sống vô thường, không ai biết quỹ thời gian kiếp người của chúng ta còn được
bao nhiêu. Cơ hội làm người thật hiếm hoi, quý báu, như con rùa mù giữa biển cả
mênh mông tìm được bộng cây trôi nổi trên mặt biển mà chui vào (Tương ưng bộ
kinh, tập V, chương XII, phẩm V, kinh Lỗ
khóa). Đức Phật cũng răn nhắc chúng ta rằng, số người sau khi mất thân này
mà được làm người trở lại ít lắm, ít như đất trong móng tay so với quả đất to lớn
chúng ta đang sống (Tăng chi bộ kinh,
Chương I, phẩm XIX, mục 18-20). Vì vậy, thời gian là vốn liếng quý giá
nhất mà con người có được, vì tất cả những tài sản khác có được đều có sự đóng
góp của yếu tố thời gian. Thêm vào đó, bất cứ tài sản thế gian nào, mất đi còn
có cơ hội tìm lại hoặc làm lại, riêng thời gian một khi mất đi, không ai và
không có cách nào tìm lại được. Do vậy, trong thời gian được sống với thân phận
con người, sử dụng thời gian hợp lý vào những việc lợi ích là cách sống khôn ngoan
nhất được Đức Phật khen ngợi. Ngài cảnh tỉnh mọi người rằng, lúc tuổi trẻ, nỗ lực
tu phạm hạnh (đối với người xuất gia), nỗ lực đầu tư chí thú làm ăn (đối với
người tại gia), chứ một khi tuổi già đến, như cây cung bị gãy, chẳng thể làm được
gì (kinh Pháp cú, câu 156).
Đức Phật là một điển hình về việc sử dụng thời gian hiệu
quả nhất trong cuộc sống. Ngài rất khéo trong việc dùng thời gian của mình để tạo
an lạc cho bản thân và giúp người khác sống an lạc như mình. Nhìn những sinh hoạt
một ngày của Đức Phật được ghi lại trong kinh sách, ta có thể thấy Ngài đã dành
trọn vẹn thời gian để hoạt động tích
cực và nhiệt thành vì hạnh phúc và an lạc của người khác đến mức nào. Với tâm từ
rộng lớn, Ngài dành phần lớn thời gian với công việc giúp mọi người phương pháp
sống hạnh phúc trong chánh niệm, ngoại trừ những lúc cần phải dành cho vài nhu
cầu cá nhân thiết yếu tối thiểu. Công việc của Ngài được sắp xếp rất khoa học, nề
nếp, mực thước, vừa an trú thiền định, vừa giúp người nghệ thuật sống an lạc,
và cứ thế duy trì cho nếp sinh hoạt ấy cho đến trọn đời. Bên trong, Ngài chánh
niệm, tĩnh tâm và chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát. Bên ngoài, Ngài không mệt
mỏi phục vụ tha nhân, nâng đỡ tinh thần, nuôi dưỡng tâm linh của chúng sanh
trong khắp thế gian. Ý thức về sự quý báu của thời gian, Ngài vẫn luôn nhắc
khuyên các đệ tử luôn tỉnh giác, không ngừng nỗ lực thực hành pháp để đoạn trừ
lậu hoặc, không luận ngày hay đêm (kinh Pháp
cú, câu 226). Trong lời giáo huấn cuối đời, Ngài ân cần khuyên nhắc các đệ
tử hãy siêng năng tinh tấn, không tụ tập lại để hý luận chuyện đời không liên hệ
đến mục đích giải thoát, đừng để thời gian qua luống, mà uổng phí một đời (Trường
bộ số 16: kinh Đại bát Niết-bàn).
Đức Phật khéo
léo dạy các đệ tử của Ngài về cách sử dụng thời gian vào việc có ích. Ngài
không khuyến khích người khác bàn luận tranh cãi những vấn đề không thực tế, thể
hiện qua việc Ngài yên lặng không trả lời những câu hỏi siêu hình là một điển
hình. Ngài từng tuyên bố, những gì Ngài biết như lá trong rừng, còn những gì
Ngài tuyên thuyết với chúng đệ tử như nắm lá simsapā Ngài đang cầm trong tay (Tương
ưng bộ kinh, tập V, chương XII, phẩm IV, kinh Simsapā). Điều này cho chúng ta thấy tâm từ vô lượng của Ngài dành
cho người học pháp, không muốn mọi người mất thời gian quờ quạng kiếm tìm những
điều không liên hệ đến mục đích giải thoát, nên Ngài chọn những gì tinh túy nhất,
trực tiếp liên hệ đến mục đích giải thoát, thiết thực nhất để mọi người thực
hành đem lại hiệu quả nhất. Một điển hình khác nữa về cách Đức Phật trân quý thời
gian là Ngài không khuyến khích các đệ tử sử dụng thần thông biến hóa, biểu diễn
những điều kỳ lạ để thu hút sự tò mò của người không có trí, mà chỉ nên chú trọng
đến phương diện giáo dục, giúp người khác chuyển hóa tâm theo hướng tích cực và
thiện lành (Trường bộ kinh số 11: kinh Kevaddha;
Tăng chi bộ kinh, chương III, phẩm VI, kinh số 60). Theo Ngài, tất cả những điều này, cũng
như các điều khác có tính chất tương tự, chỉ đưa con người đến chỗ tranh luận,
tranh cãi, hý luận nhau, mất hết thời gian quý báu, lại gây phiền toái cho tâm,
không đem lại lợi ích thiết thực nào trên con đường thực hành pháp cả. Để có sự
bình an vững chắc và lâu dài, chúng ta phải dành trọn thời gian đặt mình vào quỹ
đạo sống theo lời Phật dạy: “Không làm
các điều ác, gắng làm các điều lành, giữ tâm ý trong sạch” (kinh Pháp cú, câu 183).
Thời gian là chất liệu làm nên cuộc sống, mà giá trị cuộc
sống không phải được đo bằng bao nhiêu năm ta sống trên cuộc đời này, mà tùy
thuộc vào cách chúng ta sử dụng thời gian trong hiện tại để làm nên chất lượng
và ý nghĩa cuộc sống. Bánh xe thời gian cứ một chiều đi tới, quỹ thời gian
riêng của mỗi cá nhân chúng ta đang cạn dần, như ánh mặt trời đang dần đi về cuối
trời Tây. Đời người cũng vậy, cuộc sống phía trước ngắn dần, đi dần về điểm đến
cuối cùng và dừng lại khi ta giã từ cuộc sống. Là người biết tu học Phật, chúng
ta cần trân quý thời gian để thực hành pháp, nhằm có nội lực để chế tác niềm an
vui, bình an thật sự cho bản thân mình, đồng thời có khả năng hiến tặng sự bình
an cho người khác.
Tập tha thứ và buông xả
Với tâm lý thường tình, ta sẽ chấp nhận, là con người, ta
có đầy đủ hỷ nộ ái ố, ta có quyền giận người nếu ta đúng, người sai. Rất nhiều
người trong chúng ta quan niệm rằng giận đúng người, đúng việc, đúng lúc, đúng
nơi và thể hiện đúng cách, đúng mức độ thì có gì sai! Đức Phật không có chủ
trương “giận đúng” mà trong mọi trường hợp, giận là sai. Ngài dạy rằng, “Một người nên từ bỏ giận, xa lìa kiêu ngạo
và vượt qua mọi trói buộc. Khổ sẽ không đến với người nào không tham chấp thân hay
tâm. Một người biết kiểm soát cơn giận cũng như người đánh xe kiểm soát được
bánh xe đang lăn tới, ta gọi người đó mới đúng là người đánh xe giỏi” (kinh
Pháp cú, câu 221-222). Hễ giận
thì ta là người chịu thiệt thòi trước tiên và chịu thiệt thòi nhiều nhất, nên Đức
Phật rất đúng khi nói rằng, đã giận là không bao giờ đúng. Khi ôm ấp hận thù,
ta đang nuôi dưỡng trong tâm những tâm lý tiêu cực bệnh
hoạn và bệnh này phát tán rất nhanh trong cơ thể, “di căn” khắp thân và tâm, gây
tổn thương lớn về sức khỏe và tinh thần. Tệ hơn nữa, những tâm lý tiêu cực này
có thể làm cho chúng ta mất ăn, mất ngủ; nếu “bệnh” nặng hơn nữa, chúng ta sẽ bị
“nhiễm độc” và trở thành người chứa đầy tư tưởng, hành động và lời nói độc ác,
hồ đồ, có những hành động điên rồ, nông nổi và có thể gây hậu quả không lường.
Hãy học kiên nhẫn nhiều hơn và tha thứ, bao dung hơn với con người và cuộc đời,
vì đây là cách tự thương yêu mình hiệu quả nhất. Ta buồn giận, ta tự gây đau khổ
cho mình chứ không phải người khác. Ta buồn giận, ta tự đày đọa thân tâm mình
chứ không thể đày đọa người khác. Học cách tha thứ là liều thuốc đặc trị cho bệnh
hiềm hận vậy. Nước đổ về xuôi, dòng sống tuôn chảy, thời gian thoáng qua, cuộc
đời có bao lâu mà giận hờn, để bụng cho nặng lòng nhau, mà mình cũng tạo nghiệp
xấu ác để rồi phải nhận lấy quả khổ trong hiện tại cũng như tương lai.
Tha thứ là một kỹ năng, một
nghệ thuật sống để giữ tâm an tịnh và thân khỏe mạnh. Muốn có nội tâm tĩnh lặng
mà ôm lòng thù hằn, là cứ chọc khuấy vết thương ngày một nặng thêm mà mong vết
thương liền sẹo lành lặn là điều không thể có, chẳng khác nào nấu đá mong thành
cơm. Tha thứ không có nghĩa là chúng ta bôi xóa quá khứ, hay quên đi những gì
đã xảy ra, hoặc tự tạo một ảo giác như thể mình cao thượng và có thể bỏ qua
chuyện xưa nhưng khi gặp một yếu tố nào đó liên quan đến người xưa chuyện cũ,
bao hiềm hận khổ đau ngủ ngầm trong lòng lâu này lại ùa nhau trỗi dậy. Tha thứ
cũng không có nghĩa là làm cho người kia thay đổi hành vi, vì chúng ta không kiểm
soát được người khác nên đó là điều không thể. Tất cả chỉ có nghĩa là ta đang mở
cửa lòng buông xả những hờn giận, hay buông đi cay đắng và nỗi đau, để chuyển
sang đón những luồng gió mới từ một miền tốt đẹp an vui hơn. Biết người khác tức
giận mà ta không ôm chấp buồn giận, giữ tâm an tịnh, nghĩa là ta đã là một vị
thầy thuốc có khả năng chữa bệnh cho cả hai (Tương ưng bộ kinh, tập I, chương
XI, phẩm I, kinh số 4: Kham nhẫn). Khi
ấy, thân ta khỏe mạnh, tâm ta lành lặn và an tịnh, thế giới bình yên.
Sai lầm là điều không ai muốn
nhưng nó vẫn xảy ra và nghiễm nhiên trở thành một phần của cuộc sống. Học cách
tha thứ là tập chấp nhận một thực tế rằng chúng ta đang sống trong một thế giới
không hoàn hảo và rằng ai cũng có thể phạm sai lầm, không lúc này thì khi khác.
Tha thứ, trước hết, là đem lại hạnh phúc cho bản thân mình. Một khi buồn phiền,
giận hờn, lòng ta nặng như mang đá. Mang lè kè túi đá nặng trong mọi lúc, mọi
nơi, mang cả vào giấc ngủ, mang theo cả lúc ăn, thì nặng nề, bức bách vô cùng.
Bởi vì mang càng lâu càng mỏi, cảm giác túi đá ngày một nặng thêm, chi bằng ta
đặt túi đá giận hờn, buồn phiền ấy xuống, lòng ta khỏe nhẹ, thanh thản, hạnh
phúc biết dường nào. Cảm nhận được sự bất an nếu cứ ôm nỗi hiềm hận trong tâm,
người khôn ngoan biết tha thứ cho bản thân mình và cả cho người đã làm tổn
thương mình. Đây là món quà cao quý và độc đáo ta dành tặng cho cả hai: chính bản
thân mình và người đã làm ta phiền giận. Tha thứ là ta tự tặng cho mình cơ hội
để nuôi lớn lòng bao dung và niềm tin vào sự tốt đẹp ở người khác và xã hội.
Tha thứ là ta ban tặng cho người cơ hội để sửa sai, làm mới. Cũng như bản thân
mình, sai sót là điều không thể tránh khỏi trong cuộc sống, biết nghĩ đến điều
này mà tha thứ cho người là ta đã biết cách đem lại hạnh phúc cho cả hai. Lợi
ích nhiều hơn là tha thứ có công năng đưa ta trở về với nguồn tâm tĩnh lặng của
mình, lòng nhẹ tênh và thênh thang như gió.
Sự tha thứ thật sự xuất phát từ
khối óc có hiểu biết và con tim biết yêu thương. Chỉ khi nào thấy được những nỗi
khổ niềm đau của người kia, thấu hiểu những gì họ làm đều có nguyên nhân xa từ
những tập khí không lành mạnh mà do môi trường sống của bản thân người đó tạo
nên, hay “bị” thừa hưởng những hạt giống vụng về của ông bà, cha mẹ người đó
trao truyền mà chính bản thân người đó không có quyền lựa chọn mà phải tiếp nhận
bất đắc dĩ, ta mới có thể phát khởi lòng thương và tha thứ được. Với người gây
tổn thương cho mình, cách phản ứng thông thường là ta giận, ta ghét, ta bực
mình. Tuy nhiên, với trí tuệ và lòng thương yêu, ta hiểu ra một điều rằng, những
người này đáng thương hơn là đáng giận. Họ cũng là nạn nhân vì thật sự họ không
muốn làm những điều như vậy, không muốn làm tổn hại đến bản thân họ và người
khác. Khi thấy được những điều này thì sự tha thứ được chiết xuất từ chất liệu tình
thương có mặt một cách tự nhiên trong lòng mình mà không cần bất kỳ sự cố gắng
nào. Khi sự tha thứ là một cách thực hành tâm từ, nó có giá trị trị liệu, là dược
phẩm làm lành những vết thương lòng mà người kia đã làm cho ta đau khổ. Nhiệm mầu
hơn, lòng ta trở nên an tịnh, nhẹ nhàng và ngập tràn hạnh phúc và nguồn hạnh
phúc này sinh khởi từ nội tâm, ta chủ động tạo ra nên không bao giờ cạn và luôn
đầy ắp để có thể chia sẻ cho người khác.
Chiêm nghiệm và quán chiếu bản thân
Con người thường ít chịu sống
một mình, vì cảm thấy buồn tẻ, cô đơn, nên họ có khuynh hướng tìm đến nhau như
những con cừu đến với nhau để tìm chút hơi ấm. Do vậy, họ thường tụ tập và tìm
niềm vui nơi đám đông. Người trẻ sôi nổi thì phần lớn tìm vui trong tiếng nhạc ồn
ào đến inh tai nhức óc, trong ánh đèn mờ ảo của những tụ điểm vui chơi. Người đứng
tuổi thì tìm thú vui nhẹ nhàng, thanh tao hơn nhưng vẫn phải là nơi đám đông mới
được. Bị ảnh hưởng quá nhiều từ đám đông, con người thường mất tự chủ và có những
phản ứng nông nổi theo số đông do vô thức tập thể chi phối mà không còn phân định
đúng-sai, hay-dở. Người có đời sống nội tâm vững chãi, không đánh mất mình mới
làm chủ được hành động của mình, không gây tổn thương cho người khác. Đời sống
nội tâm chỉ có thể nuôi dưỡng trong môi trường an tịnh, vắng vẻ, vì trong môi
trường ấy, tâm trí chúng ta không bị phân tán bởi các yếu tố bên ngoài, mới có
thể gom tụ lại để lắng nhìn vào bên trong, tự mình chiêm nghiệm và quán chiếu. Đây
là lý do những người xuất gia tu tập miên mật thường chọn môi trường sống thanh
tịnh, vắng vẻ để có nhiều cơ hội quán chiếu mình. Đức Phật thường khen ngợi những
ai biết chọn nơi yên tĩnh để thực hành thiền định – một nghệ thuật luyện tâm vô
cùng hiệu quả. Ngài dạy “Ta không tán thán các vị xuất gia có sự
liên hệ với các gia chủ. Nhưng với các trú xứ ít tiếng ồn, ít tiếng động, thoát
khỏi hơi thở của nhiều người, những chỗ ở cô độc xa vắng loài người, thích hợp
cho đời sống thiền tịnh, Ta tán thán sự liên hệ với những trú xứ như vậy” (Tăng chi bộ kinh, chương VII,
phẩm 6, kinh số 58).
Trong cuộc sống xã hội, chúng
ta không thể lựa chọn một nơi vắng vẻ như được mô tả trong kinh làm nơi trú ngụ
hoặc thực hành thiền để nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Ta còn nhiều bổn phận,
trách nhiệm với đời, với người và chính những trách nhiệm, bổn phận này ràng buộc
chúng ta bằng nhiều sợi dây liên đới khác để rồi ta không thể tự chọn nơi ở
theo sở thích. Dù vậy, trong bất cứ môi trường sống nào, ta đều có thể tạo cho
mình một góc không gian tâm thức riêng để có cơ hội chiêm nghiệm và quán chiếu.
Muốn làm được điều này, chúng ta cần chủ động sắp xếp công việc một cách khoa học,
chánh niệm tỉnh giác, huân tập những thói quen tốt có tác động hỗ trợ quá trình
phát triển tâm an tịnh.
Chiêm nghiệm bản thân là biết dành
nhiều thời gian để nhìn vào nội tâm chính mình thay vì ngóng ra thế giới hiện
tượng bên ngoài. Thông thường, ta có thói quen muốn biết những gì mới nhất diễn
ra trong thế giới quanh ta, biết càng nhiều, càng tốt, biết tin càng sớm, càng
hay; nhưng “tốt” thế nào, “hay” ra sao, thì bản thân ta cũng không thể lý giải
điều ấy. Biết rồi thôi, biết rồi quên, biết rồi chẳng để làm gì, chỉ tốn quá
nhiều thời gian và năng lượng cho việc biết ấy. Hoặc tệ hơn nữa biết để rồi đi
lan truyền thông tin chưa được kiểm chứng để rồi tạo hiệu ứng không tốt từ hành
động của mình. Một điều không nên làm mà nhiều người mắc phải là thay vì quán
chiếu và chiêm nghiệm bản thân, ta lại nhìn và xét lỗi người khác, rồi chê bai,
ganh tỵ, quên đi lời khuyên rất hay của người xưa “Các nhân tự tảo môn tiền tuyết; mạc vấn tha nhân ốc thượng sương”. Đức
Phật cũng nhắc chúng ta không nên nhìn lỗi người khác mà tự quán sát mình đề
ngày càng hoàn thiện hơn (Pháp cú câu
50). Nếu cứ để tâm vướng bận vào những việc vốn không phải của mình, ta tự khuấy
động mặt hồ tâm thức của chúng ta, làm cho tâm chao đảo và bất an, đồng thời
lãng phí nhiều thứ khác. Nếu biết nhìn lại và nhận ra sự vô ích này, ta trở về
chăm sóc đời sống nội tâm của chính mình, nghĩa là chúng ta bắt đầu biết quét
tuyết ngập trước cửa nhà mình thay vì lo sương móc rơi trên nóc nhà người. Chiêm
nghiệm cuộc sống, công tâm khách quan quán xét mình, rút ra bài học kinh nghiệm
trong từng bước đi trong đời, ta sẽ có cơ hội sống chậm, trầm lắng hơn, xét kỹ,
nhìn sâu, ý thức rõ từng suy nghĩ, hành động của mình trong mối liên quan với
thế giới bên ngoài thì cuộc sống có chất lượng và ý nghĩa nhiều hơn. Khi ta đau
khổ, ta gieo rắc căn bệnh truyền nhiễm này đến người khác và làm cho nhiều người
trong cộng đồng cùng đau khổ theo. Khi ta an vui, ta có thể gởi sóng từ trường
tích cực này đến những người chung quanh mình như một món quà quý ta hào phóng
dành cho nhiều người. Ý thức được điều này, ta nên tạo niềm vui cho mình, hiến
tặng niềm vui ấy cho người chứ không nên tạo khổ đau và bắt người khác phải hứng
chịu hậu quả vì tham lam, sân giận và si mê ta dốc đổ lên họ thông qua các mối
quan hệ giữa tavà người. Đặt bản thân mình vào trong mối quan hệ duyên sinh với
con người và vạn vật chung quanh, ta cẩn trọng hơn trong mỗi ý niệm. Đây là
cách chăm sóc và nuôi dưỡng sự an tịnh của tâm hồn, đồng thời góp phần nuôi dưỡng
sự bình an của cộng đồng và của môi trường ta sống.
Thực hành chánh niệm trong mọi lúc, mọi nơi
Thực hành chánh niệm tỉnh giác
trong mọi lúc, mọi nơi, trong các hoạt động của con người, ở mức độ thô cũng
như tế, là cách hoàn hảo nhất để thiết lập và nuôi dưỡng tâm an tịnh, vì đây là
người bạn tốt đồng hành cùng chúng ta trên quá trình sống và thực hành pháp.
Chánh niệm tỉnh giác là luôn dán tâm vào những gì ta đang làm, ý thức rõ ràng những
gì đang diễn ra trong cơ thể ta, trong tâm trí ta và trong cuộc sống hàng ngày.
Đây là sự thực hành quan trọng nhất trong đạo Phật được rèn luyện thông qua sự
hành thiền. Thiền ở đây không có nghĩa là đợi đến giờ nhất định mới đi ngồi thiền
và áp dụng các kỹ thuật nhất định để duy trì chánh niệm, mà thiền ở đây là thiền
trong cuộc sống, là giữ chánh niệm trong mọi lúc mọi nơi.
Chúng ta thường có thói quen
chia đời sống ra thành nhiều ngăn: ngăn cho công việc, ngăn cho người thân,
ngăn cho bạn bè… và tất nhiên có một ngăn cho chính mình. Theo đó, đời sống vốn
đã mặc định chia ngăn như vậy nên thời gian trong ngày của chúng ta cũng theo
đó mà phân chia: thời gian dành cho việc học, dành cho việc làm, dành cho việc
tiếp khách… Với người biết nuôi dưỡng đời sống tâm linh, họ sẽ có một khoản thời
gian dành cho hành thiền. Với cách này, chánh niệm chỉ có thể có mặt trong lúc
hành thiền mà thôi, ngoài thời gian này ra, nó được xếp cất vào một nơi nào đó.
Như vậy, thời gian ưu tiên dành cho công việc thì nhiều và thời gian để cho
chính mình không còn bao nhiêu và chưa chắc ai cũng có thể chánh niệm hoàn toàn
trong khoảng thời gian ít ỏi dành cho bản thân mình. Một cách thông minh cho
người muốn có đời sống nội tâm an tịnh và vững chãi là làm thế nào để ta vừa
làm vừa chánh niệm; làm TRONG chánh niệm chứ không còn làm VÀ chánh niệm. Điều
này có nghĩa là chúng ta chánh niệm trong tất cả các việc làm và sinh hoạt
trong ngày của mình: làm trong chánh niệm, ăn trong chánh niệm, cười trong
chánh niệm, đi trong chánh niệm, ngồi trong chánh niệm… để tất cả thời gian trong
ngày đều là thời gian thực sự trở về với chính mình, để chúng ta sống tỉnh thức
và tất cả những gì làm TRONG chánh niệm đều đem lại sự hoan hỷ, bình an và hạnh
phúc cho mình và cho người.
Hành thiền, thật ra là sự rèn
luyện một kỹ năng sống. Nếu như ở thiền phòng, ngồi im lặng theo dõi từng hơi
thở để tập kỹ năng làm cho tâm tư tĩnh lặng, tự chủ, an lạc. Hãy phát huy kỹ
năng này trong cuộc sống, chúng ta mới có khả năng ứng dụng thiền một cách linh
hoạt khi làm việc mà vẫn luôn trong trạng thái tỉnh thức. Làm sao đó để hiệu ứng
lúc ngồi thiền được phát huy tác dụng cả những lúc ta không ngồi thiền, cũng
như cần nửa tiếng đồng hồ ăn bữa cơm là để cung cấp năng lượng nuôi toàn cơ thể
trong suốt thời gian dài sau đó khi thức ăn đã chuyển hóa thành dinh dưỡng thẩm
thấu vào máu để nuôi cơ thể. Khi chúng ta ngồi thiền một tiếng đồng hồ, sự
chánh niệm tỉnh giác, an lạc mà ta có trong một giờ phải được thấm nhuần và ảnh
hưởng trong suốt hai mươi ba giờ còn lại trong ngày chứ không phải chỉ trong
lúc đang ngồi thiền. Chúng ta phải thực tập để không còn thấy ranh giới giữa
lúc ngồi-thiền và khi không-ngồi-thiền thì sự thiền tập mới thực sự mang lại lợi
ích liên tục, lâu dài và bền vững. Làm được điều này là biết nuôi dưỡng sự an tịnh
của nội tâm không gián đoạn trong mọi lúc, mọi nơi.
Đức Phật, vị thầy hướng dẫn
phương pháp thiền định, đã dạy các đệ tử Ngài rằng, chánh niệm cần duy trì ở mọi
lúc, ban ngày, ban đêm, canh đầu, canh giữa, canh cuối (Trung bộ kinh, số 53: kinh Hữu học; số 125: Điều ngự địa),
có nghĩa là xuyên suốt và liên tục. Không
những vậy, trong rất nhiều bài kinh, Đức Phật dạy cần duy trì chánh niệm trong
tất cả các tư thế, hành vi, động tác của con người. Cụ thể, chúng ta cần thực
hành “khi đi tới, khi đi lui, tôi đều tỉnh
giác. Khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh, tôi đều tỉnh giác. Khi co tay, khi duỗi
tay, tôi đều tỉnh giác. Khi mang y kép, y bát, tôi đều tỉnh giác. Khi ăn, uống,
nhai, nuốt, tôi đều tỉnh giác. Khi đi đại tiện, tiểu tiện, tôi đều tỉnh giác.
Khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng, tôi đều tỉnh giác” (Trung bộ kinh, số 27: Tiểu kinh dấu chân
voi; kinh số 38: Đại kinh đoạn tận ái, kinh số 39: Đại kinh xóm
ngựa, và rất nhiều bài kinh khác). Vậy đủ biết thiền trong mọi tư thế,
chánh niệm trong mọi lúc, tu ở mọi nơi mới ta mới an trú trong trạng thái an
lành thường xuyên. Một khi bản thân ta bình an, ta mới có thể đem lại bình an
cho người khác.
Thay lời kết
Đạo Phật quan niệm rằng, sự bình an trên thế giới bắt
nguồn từ sự bình an trong tâm của mỗi cá nhân chứ không phải từ một tổ chức, một
chính quyền nào có thể làm được việc này. Sự thay đổi căn bản nhất, nền tảng nhất,
bền vững nhất phải khởi đầu từ mỗi cá nhân, từ nội tâm của mỗi một con người.
Trên cơ sở này, nếu một người biết tự chế tác an lạc cho bản thân, người ấy có
khả năng hiến tặng sự bình an cho những người chung sống. Như giọt sương mai,
muốn thấm đẫm chiếc lá cỏ thì bản thân nó phải đượm nhuần với nước. Trong một
xã hội ai cũng biết cách tự thân vận động để tạo bình an cho bản thân mình, đồng
thời hiệu ứng tích cực từ sự bình an này lan tỏa trong cộng đồng mình đang sống
và dần lan rộng ra toàn xã hội,thì cả xã hội được bình an. Thả một hòn sỏi xuống
đại dương, từng gợn sóng nước lan rộng dần ra, làm rung động cả một đại dương
mênh mông. “Thả” một lời nói lành, một hành động thiện, một ý nghĩ tích cực vào
xã hội, sóng lành lan tỏa trong môi trường sống, tác động tích cực đến nhiều
người. Nguyên tắc tưởng chừng đơn giản này không phải ai cũng hiểu được để nhận
lấy trách nhiệm bản thân trong việc kiến tạo hòa bình trên nhân gian, vì tâm lý
chung của con người là mong chờ mọi thứ, kể cả bình an của bản thân, cũng mong từ
bên ngoài rót vào người mình. Những ai ý thức được trách nhiệm cá nhân đối với
cộng đồng thì lời Phật dạy là những hướng dẫn hữu ích cho nếp sống bình an ở mức
độ căn bản nhất: mức độ cá nhân, rồi mới dần đến phạm vi lớn hơn, cho đến cả cộng
đồng, xã hội ta đang sống. Do vậy, để góp phần tạo nên một thế giới tốt đẹp
hơn, mỗi người chúng ta cần tự tạo cuộc sống bình an cho chính mình. Trong rất nhiều các bài nói chuyện cộng đồng, ngài Dalai
Lama nhấn mạnh rằng, sự an bình trong nội tâm sẽ đưa đến nền hòa bình thế giới.
Vì hạnh phúc của nhiều người, vì sự hòa bình của thế giới ta sống, hãy thiết lập
một thế giới hòa bình, an tịnh bắt đầu từ trong tâm mình.