Niềm tin trong đạo Phật
niem tin
“Niềm
tin trong đạo Phật” là đề tài vô cùng quen thuộc, thế nhưng, đề tài này vẫn
luôn là nguồn cảm xúc dạt dào cho người học Phật và tu Phật. Bàn về “Niềm tin
trong đạo Phật” thú vị ở chỗ, thường thì khi nói đến niềm tin, nhiều người nghĩ
ngay đến mê tín, tín ngưỡng, sùng tín, cuồng tín vào một đấng linh thiêng bên
ngoài thiên về cảm tính mà không có dự phần của lý trí. Thường thì trong các
tôn giáo, đức tin và lý trí thường không cùng tồn tại: khi có lý trí thì không
có đức tin, khi có đức tin thì lý trí lùi bước. Trong khi đó, đạo Phật được biết
đến là tôn giáo của lý trí; “chỉ có trí tuệ là sự nghiệp” là phương châm của
người học Phật, vậy niềm tin trong đạo Phật là niềm tin gì? Liệu niềm tin ấy có
đi ngược lại với lý trí không? Niềm tin và lý trí cùng đồng hành trong đạo Phật
không? Tôi đi tìm lời giải đáp cho những thắc mắc trên qua bài viết này.
Khi
tìm hiểu về một đề tài không mới này, tôi vẫn ngạc nhiên đến thú vị với quan điểm
đậm chất nhân văn của Đức Phật về niềm tin khi Ngài chủ trương niềm tin phải đặt
trên nền tảng của lý trí, “đến để mà thấy” (Trung bộ kinh số 7: Kinh ví dụ tấm vải; số 38: Đại kinh đoạn tận ái), chứ không phải đến
để mà tin. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ bàn về vấn đề niềm tin trong
giáo pháp của Đức Phật được thể hiện qua kinh điển như là một quan điểm sống của
Đức Phật và Tăng đoàn thời Phật chứ không phải bàn đến niềm tin trong tín ngưỡng
Phật giáo khi hòa nhập cùng văn hóa bản địa trên con đường du nhập và phát triển
của đạo Phật qua nhiều vùng miền văn hóa xã hội khác nhau.
Đối
tượng của niềm tin
Đối
tượng niềm tin trong đạo Phật không mang dáng dấp của thần linh, thượng đế dưới
nhiều hình thức khác nhau, mong cầu tìm kiếm cho mình một nơi nương tựa che chở,
mà niềm tin chủ yếu là tin vào bản thân. Trong đạo Phật, vẫn có niềm tin vào
các yếu tố bên ngoài như tin Phật là bậc giác ngộ, tin Pháp là con đường sáng,
tin vào thiện tâm vốn có ở mỗi con người… nhưng không phải tin để mong được che
chở, để cầu nguyện các thần linh hộ trì hoặc làm thay phần việc của mình, hay “góp
sức” với mình trong cuộc sống, mà đây chỉ là những phương tiện hỗ trợ, như ngón
tay chỉ trăng để tìm về con đường tin tưởng và nương tựa tự thân mà thôi. Như vậy,
chỉ có niềm tin trong đạo Phật mới thật sự đặc biệt, tỷ lệ thuận với lý trí (lý
trí càng nhiều, tin càng nhiều) chứ không phải tỷ lệ nghịch (lý trí càng ít, niềm
tin càng nhiều) như thường thấy ở các hình thức tín ngưỡng khác. Giáo sư
Lakshmi Nasara viết trong cuốn Essence of
Buddhism (Tinh hoa của Phật giáo) rằng: “Chỉ nói về Phật giáo thôi, ta có
thể xác nhận là tôn giáo này thoát khỏi tất cả cuồng tín. Phật giáo nhằm tạo
trong mỗi cá nhân một sự chuyển hóa nội tâm bằng cách tự chiến thắng lấy mình”.
Lời phát biểu của Lakshmi tái khẳng định rằng, niềm tin song hành cùng lý trí mới
là niềm tin trong đạo Phật. Niềm tin trong chánh kiến, tin với lý trí ấy được Đức
Phật từng tuyên bố “Này các Tỳ-kheo, có hai hạng người xuyên tạc Như lai. Thế
nào là hai? Người độc ác với tâm đầy sân hận hay người có lòng tin với tà kiến.
Đây là hai hạng người xuyên tạc Như lai”. (Tăng chi bộ kinh, chương II, phẩm 3,
kinh số 22)
Niềm
tin vào chính mình là yếu tố đầu tiên cần thiết cho mọi cuộc hành trình, đời
cũng như đạo. Niềm tin được đặt vào đầu chặng đường tu tập như là điều kiện
tiên quyết cho những giai đoạn tiếp theo. Niềm tin là điểm khởi đầu, vì những ý
tưởng trong hiện tại vẫn còn ở dạng tiềm năng, quá trình biến nó thành hiện thực
là một chặng đường dài và niềm tin là chất liệu định hướng ban đầu và chất xúc
tác cho suốt quá trình thực hiện ấy. Có niềm tin, ta sẽ làm được nhiều việc tưởng
chừng không thể. Vào một lúc nào đó trong cuộc sống, ta có thể đánh mất tất cả:
tiền tài, danh vọng, địa vị, gia đình, bè bạn... nhưng tuyệt đối có một thứ mà
ta đừng bao giờ đánh mất và hãy luôn luôn mang nó bên mình: đó là niềm tin. Niềm
tin là bệ phóng để chúng ta hoạch định kế hoạch cho cuộc sống và từng bước thực
thi kế hoạch của mình. Có niềm tin, ta sẽ có một chỗ nương tựa để chúng ta phấn
đấu, thậm chí có thể lấy lại được những gì đã mất. Có niềm tin, ta sẽ có cuộc sống
vui vẻ, hài lòng và hạnh phúc hơn. Không có niềm tin thì ta sẽ như con thuyền
không người lái. Nó sẽ chơi vơi và trôi theo dòng mà không định hướng tương
lai.
Trở
lại với lời dạy Đức Phật được ghi lại trong kinh điển, ta thử xem Ngài dạy ta
tin gì, tin như thế nào để tinh thần và tâm linh ta luôn được nâng đỡ, luôn có
điểm “tựa” vững chãi để có thể đưa cỗ xe thân-tâm vận hành tốt trên các tuyến
đường “giao thông” cuộc đời.
Tin vào sự nỗ lực và
thành tựu của Đức Phật
Bằng
nỗ lực tự thân, Đức Phật đã thành tựu giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc, bức
bách, khổ đau. Sự thành tựu của Ngài như một mẫu người thành công trên lộ trình
chuyển hóa đáng cho chúng ta đặt trọn niềm tin tưởng. Trong Tương ưng bộ kinh, tập II, chương I, phẩm
V, Đức Phật dạy: “Vị Thánh đệ tử có lòng tin, đặt lòng tin ở sự giác ngộ của
Như Lai: Đây là Thế Tôn, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật”. Nếu
vững tin rằng Đức Phật là người tiên phong tự khai mở ra con đường giữa rừng rậm
tà kiến của hằng trăm triết thuyết trong xứ Ấn Độ thời bấy giờ, nỗ lực một cách
đúng phương pháp và có nghệ thuật, Ngài đã thành tựu quả vị giác ngộ. Với tâm từ
muốn giúp mọi người, mọi loài đều có được lợi lạc từ việc thực hành những
phương pháp này, Ngài dốc tâm truyền trao giáo pháp giải thoát cho bao người
còn đắm chìm trong đêm tối khổ đau. Nếu ta đủ niềm tin về sự thành tựu đạo quả
của Đức Phật là kết quả của một quá trình phấn đấu và chuyển hóa, ta bắt đầu hướng
về Ngài như một vị thầy xứng đáng để tin tưởng. Tin theo những phương cách chuyển
hóa nội tâm Ngài thực hành và đã thành công, theo sự hướng dẫn ấy, những ai dốc
sức hành trì thì sẽ đạt được kết quả giải thoát như Ngài.
Trong
kinh Đức Phật dạy, muốn tiếp cận một người nào để có thể học hỏi thì điều kiện
cần thiết đầu tiên là phải đặt niềm tin trọn vẹn vào người thầy đó (Trung bộ
kinh số 95: kinh Canki). Người Phật tử
tin tưởng vào Đức Phật cũng như người chưa quen đường đặt trọn niềm tin tưởng
vào người dẫn đường, tức là người đã đi trước, đã đi đến đích an toàn trên con
đường ấy và chỉ dẫn cho những người theo sau. Đức Phật không phải là một vị thần
thánh coi trọng thần thông biến hóa và phép lực vô biên, mà là một con người
tiên phong đã quyết tâm đi tìm con đường giải thoát, và đã đạt được giác ngộ bằng
sự nỗ lực đúng cách của chính mình. Trong suốt cuộc đời hoằng hóa, Ngài không mệt
mỏi chỉ dẫn cho tất cả những ai muốn đi theo con đường ấy. Sau khi Phật nhập diệt,
giáo pháp giải thoát được lưu truyền qua bao thế hệ tiếp tục sứ mạng dẫn đường
thay Ngài. Do đó, trong tất cả những danh hiệu của Ngài, có lẽ gọi Ngài là “bậc
Đạo Sư” là chính xác và thích hợp hơn cả.
Dĩ
nhiên, người đi đường phải đặt sự tin tưởng, lòng tin cậy ở người dẫn đường, bởi
vì lần đầu tiên đi trên con đường này, cũng như một người mắt kém đi trong bóng
tối, lỡ có khi sai bước sẩy chân, thì có thể té ngã bất cứ lúc nào, do đó lúc đầu
phải vững lòng tin vào người dẫn đường sau khi có sự thẩm định cẩn trọng. Rồi dần
dần, bằng kinh nghiệm bản thân, người đi đường sẽ tự mình nhìn rõ lối đi và
không còn phụ thuộc vào người dẫn đường. Lúc ấy, niềm tin ở người dẫn đường
chuyển thành niềm tin vào chính bản thân họ vậy.
Lấy
một ví dụ hình tượng nữa để làm rõ thêm ý này. Trong vòng luân hồi sanh tử, mọi
chúng sanh đều trải nghiệm khổ đau như một đoàn lữ hành đang đi qua sa mạc nóng
cháy, khát nước vô cùng. Đức Phật như người không cam chịu nỗi bức bách của cơn
khát, liền tiên phong đi tìm nước. Ngài nỗ lực, miệt mài, không chán nghỉ, cuối
cùng tìm được nguồn nước. Ngài uống dòng nước mát, giải tỏa cơn khát, trở nên
khoan khoái, dễ chịu, toàn thân thấm nhuần hạnh phúc vô biên. Nghĩ đến người
khác, với lòng thương tưởng họ và mong ai cũng được hạnh phúc, không để cơn
khát chế ngự, thế là Ngài đem nước về cho những người khác trong đoàn lữ hành,
và bảo họ đây là nước uống, hãy uống đi cho hết khát. Nếu những người lữ hành ấy
đủ niềm tin vào Ngài, uống nước sẽ hết khát. Chỉ khi nào tự thân mỗi người uống
thì mới giải quyết được vấn đề thống khổ của cơn khát. Tương tự như vậy, Ngài
đã tìm ra phương cách để cởi trói, để tự tại, đạt đến hạnh phúc tối thượng và tận
tâm tận lực chỉ dạy các phương pháp ấy cho nhân loại. Công việc của mỗi người
là nếu tin theo Ngài, thì tự thực hành để được kết quả như Ngài. Như vậy, tin
Phật chỉ là phương tiện để đưa ta đến tự tin vào chính bản thân mình vậy.
Để
dần đến chỗ tự tin vào bản thân mình, tin vị thầy hướng dẫn tinh thần và tâm
linh là điểm khởi đầu vô cùng quan trọng, vì một người đi đúng đường mới có đủ
khả năng hướng dẫn người khác đi đúng đường. Do đó, khi Ngài dạy các đệ tử,
Ngài dạy hãy đánh giá cẩn thận vị đạo sư trước khi tin vị ấy, xem có triển vọng
nào dẫn tới chân lý trong sự dạy dỗ của họ hay không, và cho đến động cơ giảng
dạy của thầy có trong sáng hay không, có bị tham lam, sân giận và vô mình che mờ
hay không. Thật hạnh phúc khi Đức Phật đầy đủ những phẩm hạnh tuyệt vời của người
chỉ lối. Ở một bài kinh, Ngài tuyên bố, trong khi các bậc Đạo Sư khác, đời
sống đạo đức không thanh tịnh, phương tiện nuôi mạng sống không thanh tịnh,
thuyết pháp không thanh tịnh, trả lời pháp không thanh tịnh, tri kiến không
thanh tịnh, thời Đức Phật thật là tuyệt diệu về cả năm phương diện này (Tăng chi bộ kinh, chương Năm pháp, phẩm
X, kinh số 100).
Trọn
niềm tin vào Đức Phật, nghĩa là ta dành trọn vẹn sự tự tin vào bản thân mình,
phát huy tất cả tiềm năng, tiềm lực từ đòn bẩy niềm tin để phấn chấn hơn trên
con đường thực hành pháp, đem lại cuộc sống an vui đích thực cho mình.
Tin vào hiệu quả của việc
thực hành pháp
Tâm
lý thường tình của con người là cần một điểm tựa về tinh thần. Nếu điểm tựa
không vững chắc và an toàn, ta trở nên hụt hẫng và thất vọng, khổ đau lâu dài,
không có được an vui, hạnh phúc trong cuộc sống. Lời Đức Phật dạy được ghi lại
trong kinh Pháp cú rằng “Con người
kinh hãi đi tìm nương tựa ở nhiều nơi - đồi núi, rừng, vườn, cây cối, và đền miếu.
Không, đó không phải là nương tựa an toàn, không phải nương tựa tối thượng.
Nương tựa như vậy không thể thoát ra khỏi phiền não” (câu 188-189). Nếu khôn
ngoan, sáng suốt dùng lý trí (mà trong kinh gọi là tri kiến chơn chánh) thẩm định
đối tượng rồi mới đặt niềm tin chọn làm nơi nương tựa, để từ điểm tựa ấy, ta biết
kiến tạo đời sống bình an, hạnh phúc cho mình. Thẩm định tính hiệu quả trước
khi tin là điều cần thiết vậy. Ở những câu tiếp trong Pháp cú, Đức Phật dạy “người đi tìm nương tựa nơi Đức Phật, giáo
Pháp và Tăng-già, có tri kiến chơn chánh để nhận thức Tứ đế - khổ, nguồn khổ,
vượt khỏi khổ, và Bát chánh đạo, dẫn đến sự diệt khổ. Ðó quả thật là nương tựa
an toàn. Ðó quả thật là nương tựa tối thượng. Tìm đến các nương tựa ấy ắt thoát
ra khỏi mọi phiền não” (câu 190, 191, 192).
Đức
Phật khẳng định tin vào Đức Phật, giáo Pháp và Tăng-già, tin vào bốn chân lý
cao thượng: sự thật khổ đau, nguyên nhân khổ đau, sự vượt thoát khổ đau và Bát
chánh đạo như là con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau, hành giả có được điểm tựa
an toàn để tự xây dựng hành trình cuộc sống an vui, hạnh phúc cho tự thân. Tin
vào hiệu quả của việc thực hành pháp được biểu hiện ở hai phương diện: những lời
dạy của Đức Phật là những phương pháp thực hành hiệu quả (tin Pháp) và các thế
hệ đệ tử xuất gia của Phật, những người dành trọn cuộc đời áp dụng các phương
pháp này và đã có hiệu quả (tin Tăng), là những minh chứng thực tế cho việc ứng
dụng những phương pháp giải quyết sanh tử khổ đau. Niềm tin vào Chánh pháp và Tăng
đoàn củng cố và hỗ trợ cho niềm tin vào Đức Phật như một người mở đường tuyệt vời.
Do vậy, những ai tin tưởng vào Ngài cùng những lời hướng dẫn từ Ngài thì sẽ hưởng
được hạnh phúc, an lạc lâu dài (Trung bộ kinh số 34: Tiểu kinh người chăn bò).
Cho
đến ngày nay gần hai ngàn sáu trăm năm, giáo pháp giác ngộ vẫn tồn tại, phát
triển, và luôn thích ứng với mọi hoàn cảnh, mọi thời đại, đem lại lợi ích thiết
thức cho tất cả mọi người thực hành theo đủ chứng tỏ giáo pháp là đối tượng niềm
tin của bao người. Đây là sự “bảo hành” lâu dài của giáo pháp nếu chúng ta tiếp
cận, tiếp nhận và sử dụng pháp đúng cách. Ví như sử dụng một món hàng hóa nào
đó đúng theo sự hướng dẫn kèm theo sản phẩm, thì món hàng ấy được sử dụng lâu
dài hơn cả thời gian bảo hành ghi trên sản phẩm. Giáo pháp của Đức Phật được
Ngài đảm bảo là “đem lại hạnh phúc, an lạc lâu dài” nếu ta thực hành đúng theo
lời Ngài dạy (Trung bộ kinh số 22: kinh Ví
dụ con rắn). Bao thế hệ đệ tử xuất gia của Phật đã thực hành thành công, có
đời sống gương mẫu về nhân cách đạo đức, tự tại thong dong hạnh phúc sống giữa
cuộc đời là minh chứng hùng hồn đủ cho ta niềm tin vững chắc.
Thành
lập một tập thể gương mẫu có khả năng ứng dụng tốt những hướng dẫn của Đức Phật
và với tâm nguyện nhân rộng mô hình này ra trong xã hội để góp phần xua đi niềm
tin tà kiến, thiết lập niềm tin chánh kiến là mục đích của Đức Phật. Khi ác ma
khuyến khích Đức Phật nhập diệt, Ngài trả lời “Ta sẽ không diệt độ khi nào những
Tỳ-kheo của Ta chưa trở thành những vị đệ tử chân chánh, sáng suốt, có kỷ luật,
sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống
chân chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, chưa có thể tuyên bố,
diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tích, và giải thích rõ ràng
Chánh pháp, khi có tà đạo khởi lên chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách
khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu”. (Trường bộ kinh số 16:
kinh
Đại bát Niết-bàn).
Lời
tuyên bố này cho thấy Đức Phật rất tâm huyết để duy trì Chánh pháp ở đời. Nỗ lực
của Ngài là xua tan tà, xây dựng chánh và mọi điều chánh đều xuất phát từ niềm
tin chân chánh. Tin vào Phật là một bậc chỉ đường tối thượng, tin vào giáo pháp
của Phật là những phương cách hiệu quả nhất để đưa đến an lạc, hạnh phúc tối
thượng, tin vào Tăng là người thành công theo con đường chỉ dẫn của Phật, mỗi
người chúng ta ứng dụng những kỹ năng sống an lạc bằng nỗ lực tự thân, chắc chắn
sẽ có kết quả tốt đẹp. Như vậy, tin Phật, tin Pháp, tin Tăng là chiếc cầu nối
đưa ta về tin tưởng vào sự nỗ lực đúng cách của tự thân.
Tin vào thiện tâm vốn
có của mỗi người
Niềm
tin, không phải tự nhiên mà có, mà là kết tinh của một tâm hồn trong sáng, một
nhận thức tích cực về con người và thế giới sống động quanh ta. Trong cuộc sống,
khi ta gặp năm, ba người chưa tốt, đừng vội nản lòng và mất niềm tin vào con
người và cuộc sống nếu bản thân ta đủ tốt. Con người thường lấy lòng mình mà đo
lòng thiên hạ, nếu mình tốt, mình tin rằng thiên hạ cũng có nhiều người tốt. Tin
vào sự thiện lành tồn tại trên thế gian là cách làm tăng thêm niềm tin vào sự
thiện lành của bản thân mình với niềm tin kiên cố nhất. Hãy tự nhắc mình rằng
“nhân chi sơ, tánh bổn thiện...”. Mỗi người đều có hạt giống thiện, ta cũng có
hạt giống thiện, hãy tạo môi trường tốt nhất để hạt giống thiện trong lòng ta nảy
mầm, tiếp tục chăm bón cho nó trưởng thành. Hãy vững tin điều này.
Hạt
giống thiện ở mức độ sâu cạn khác nhau trong tâm thức mỗi người. Với những ai
có hạt giống thiện lành nhiều và đã được nuôi dưỡng đúng cách để chúng phát triển,
ta dễ dàng nhận thấy những biểu hiện thiện lành này thông qua việc làm, lời nói
và động cơ đằng sau những việc làm của họ. Người như thế giống hoa sen đã ngoi
lên khỏi mặt nước, tỏa hương ngạt ngào. Còn ai chưa có biểu hiện rõ ràng của
tâm thiện lành, không có nghĩa họ không có hạt giống thiện trong tâm mà chúng
đang còn chìm sâu trong tâm thức, như sen vẫn còn chôn trong bùn vậy. Đức Phật
thấy rõ điều này và đã nhiều lần tuyên bố như một lời động viên, khích lệ các đệ
tử trong các bài pháp được ghi lại trong kinh rằng “Ta nhìn quanh thế giới. Này
các Tỳ-kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều
nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ
dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự
nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng hay hồ
sen trắng có một số sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt
nước, được nuôi dưỡng dưới nước. Có một số sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước,
sống vươn lên tới mặt nước. Có một số sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước,
vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước đẫm ướt” (Trung bộ kinh số 26: kinh Thánh cầu; Tương ưng bộ kinh Tập I,
chương VI, phẩm 1, kinh số 1: Thỉnh cầu).
Chính
vì tin chắc là có những mầm chồi như thế, Đức Phật đã không mệt mỏi trên con đường
giúp mọi người đánh thức những hạt giống này trong tâm mỗi người “cựa mình” thức
giấc để chuyển động nảy mầm, vươn lên khỏi nước. Chính vì tin chắc có những mầm
chồi này, ngay từ khi thiết lập Tăng đoàn với 60 người đầu tiên, Đức Phật đã
khuyến hóa các đệ tử Ngài hãy nỗ lực ra đi hoằng truyền Chánh pháp, chia nhau
mà tỏa ra các hướng, hai người không đi chung một hướng, để đánh thức quần sanh
(Đại Phẩm 19-20, Luật tạng; Tương ưng bộ kinh tập I, chương IV, phẩm I, kinh số
5: Bẫy sập). Chính vì tin chắc là có
những mầm chồi này trong tâm mình, ta mới dồn công sức và tâm huyết để nỗ lực
hành trì phát huy chúng. Và đây, một lần nữa củng cố niềm tin vào chính bản
thân vậy.
Tin
vào những hạt giống thiện lành, chưa hiện thì ẩn, ở mỗi con người, ta có cơ hội
nuôi dưỡng tâm từ bi đối với mọi người và với chính bản thân mình. Như bất cứ hạt
mầm nào cũng cần môi trường phù hợp về ánh sáng, độ ẩm, nhiệt độ… để sinh trưởng;
cũng như thế, tâm bao dung, cảm thông, thấu hiểu của tâm từ là môi trường lý tưởng
để hạt giống thiện nảy mầm và sinh trưởng. Ta có đủ cơ sở để tin rằng bất cứ người
nào, dù là bị gắn cho nhãn là “người ác” vẫn có cơ hội làm mới mình, chuyển hóa
tích cực trong tâm thức và từ đó gây ảnh hưởng tích cực đến môi trường xung
quanh. Dù có những lúc thiếu chánh niệm, ta mắc phải lỗi lầm, ta vẫn đủ bao
dung cho mình cơ hội sửa lỗi sau khi cảm thấy hổ thẹn với những vụng vềmình vừa
gây tạo. Sự chuyển hóa là một quá trình diễn tiến thường xuyên trong dòng sống,
nên không thể định danh “người thiện”, “người ác”mà chỉ có hành động thiện và
ác. Nếu dụng công và nỗ lực đúng cách, lấy những hạt mầm thiện làm điểm khởi đầu,
ta sẽ chuyển hóa tâm mình dần thanh tịnh hơn, thiện lành hơn. Như vậy, niềm tin
vào hạt giống thiện có trong mỗi người và niềm tin ở chính bản thân mình hòa
quyện làm một trong quá trình sống và hành trì chứ không thể tách ra như hai yếu
tố độc lập và đây là điều kỳ diệu của niềm tin có lý trí. Người vững niềm tin
vào các pháp thiện lành rồi thì không còn phải lo, có thể tự lực trên con đường
đã chọn, còn người chưa vững niềm tin được xem như chưa đủ trưởng thành để có
thể tự đi một mình và cần một người thầy dìu dắt. Đức Phật dạy “khi nào vị Tỳ-kheo
chưa gây được lòng tin đối với các thiện pháp thì người thầy phải bảo hộ, giám
sát người ấy trên con đường học” (Tăng chi bộ kinh, chương V, phẩm 1, kinh số
7).
Tự tin vào khả năng
chuyển hóa chính mình
Chúng
ta thỉnh thoảng nghe vài người nói, “mất niềm tin vào con người, mất niềm tin
vào cuộc sống” khi họ rơi vào tâm trạng hoang mang, mất phương hướng. Điều này
mới nghe qua, tưởng chừng có lý, nhưng xét cho cùng, tại sao ta lại phải mất niềm
tin vào các yếu tố bên ngoài để rồi phải lệ thuộc, giao nộp cảm xúc, tâm trạng
và có khi cả cuộc sống mình cho các yếu tố này chi phối và định đoạt? Còn một
nguồn có thể cho ta niềm tin không bao giờ cạn, đó là bản thân mình, tại sao ta
lại lãng quên điều này để rồi phải chệch choạng khi điểm tựa bên ngoài lung
lay, bật gốc?
Chúng
ta té ngã không phải vì yếu mà vì chúng ta không tin rằng ta đủ mạnh. Tin vào một
điều gì đó tốt đẹp hơn, có thể xảy ra trong tương lai, với những nỗ lực không mệt
mỏi để biến những điều đó thành hiện thực là con đường đi của những người thành
công. Niềm tin vào bản thân có một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống
chúng ta. Trong Tương ưng bộ kinh (tập I, chương VII, phẩm II, kinh Cày ruộng), niềm tin được ví như hạt giống,
mang theo tiềm năng, tiềm lực, hy vọng và niềm hăng say, là động lực hành động
cho mỗi cá nhân. Niềm tin là tài sản tối thượng của mỗi con người
(Tương ưng bộ kinh, tập I, chương X, phẩm XII). Đây là một trong năm nền tảng
tâm linh, là một thuộc tính tâm lý tích cực, trong sáng để nuôi dưỡng ý chí,
thiện chí và nghị lực và quyết tâm của con người. Khi niềm tin là chất liệu tan
chảy, hòa quyện trong con người, thấm vào máu vào xương ta thì khi ấy, niềm tin
có sức mạnh vô cùng. Nó đẩy chúng ta đi tới, hiện thực hóa những ý tưởng và mơ
ước của mình.
Trong
37 pháp tu hỗ trợ cho tiến trình thành tựu đạo quả mà trong kinh gọi là “ 37 phẩm
trợ đạo”, niềm tin được xem như một pháp tu, một trong năm yếu tố tâm lý căn bản
thống trị và kiểm soát tâm (ngũ căn) và là một trong năm yếu tố có sức mạnh,
quyền lực (ngũ lực) để chuyển hóa tâm. Chính sức mạnh của niềm tin đã giúp hành
giả trong quá trình hành trì luôn tinh tấn, kiên trì không lười mỏi. Đức Phật từng
nhắc nhở “các con phải tự nỗ lực thực hành pháp, Đức Như Lai chỉ là người dẫn
đường” (kinh Pháp cú, câu 276). Một
đoạn trong kinh Đại bát Niết-bàn (Trường
bộ kinh số 16) có ghi lại việc Đức Phật dặn dò Ananda phải luôn sống trong
Chánh pháp, nương dựa nơi Chánh Pháp, tự nương tựa mình, không nương dựa ai
khác. Tự mình là ngọn đèn cho chính mình (cũng có thể hiểu tự mình là hòn đảo
cho chính mình nương tựa; vì từ dīpa
trong tiếng Pāli có nghĩa là ngọn đèn, cũng có nghĩa là hòn đảo). Điều này hầu
như đã trở nên một phương châm sống tự tin phổ cập toàn cầu. Các danh nhân thế
giới như tác gia về khoa học ảo tưởng H. G. Wells, triết gia Đức Schopenhauer,
triết gia Pháp Bertrand Russell, triết gia Anh Aldous Huxley, khoa học gia
Einstein, văn hào Pháp Anatole France, đại tướng Ian Hamilton, thủ tướng
Winston Churchill, học giả kiêm tổng thống S. Radhakrishnan, v.v.. đều trân trọng
xem đây là lời điểm đạo cho chính họ để xác nhận tầm quan trọng của niềm tin
vào chính mình.
Niềm
tin thể hiện điều chúng ta tâm niệm, định hướng và nó được tự kỷ ám thị liên tục,
có tác dụng thúc đẩy chúng ta đi theo một hướng nhất định với niềm đam mê và
quyết tâm cao. Vì thế mà nó có năng lực mãnh liệt. Nếu chưa đi thi mà nghĩ mình
rớt, tốt nhất không nên đi thi. Nhiều người không tin điều này cho đến khi tự
thân họ có trải nghiệm thực tế. Trên phương diện lý thuyết, ta thấy khó tin được,
hễ ta nghĩ, ta tin điều gì thì nó thành tựu, không tin thì không thành tựu sao?
Sao có vẻ mê tín thế? Thật ra, những ai từng có niềm tin chân chánh và phấn đấu
cho niềm tin của mình điều hiểu không đơn giản như vậy.Ở đây, tin là một trong
những yếu tố tham gia vào tiến trình diễn biến tâm lý trong một chuỗi các phản ứng
tâm lý phức hợp diễn ra trong ta. Niềm tin trong đạo Phật không phải là một yếu
tố có thể tồn tại riêng lẻ, nên khi tin vào chính mình, sẽ không thể có tin
suông. Niềm tin sẽ gắn kết với những suy nghĩ, định hướng, ý chí, nghị lực để
thực hiện điều ấy. Niềm tin là viên gạch đầu tiên và đồng hành trong suốt cuộc
hành trình để xây dựng mọi tòa nhà thành công lớn nhỏ. Hãy khắc ghi lời dạy của
Đức Phật rằng “hãy nương tựa vào chính mình, đừng nương tựa nơi nào khác. Người
khéo điều phục mình, sẽ có nơi nương tựa vững chắc mà ta không thể tìm được ở một
nơi nào khác” (Pháp cú câu 160).
Tin vào sự trải nghiệm
tự thân
Một
trong những nguyên tắc quan trọng trong Phật giáo là chân lý có thể được biết
và thẩm định thông qua sự quan sát, thấm nhuần bằng kinh nghiệm trực tiếp. Thí
dụ nhìn lại kinh Kalama, người Kalama
được Ðức Phật khuyên giảng không nên đơn giản tin vào mọi nguồn đem lại thông
tin từ bên ngoài, dù đó là do ai nói ra, từ truyền thống, truyền thuyết, từ
kinh điển, hoặc từ sự suy luận thiếu cơ sở và căn cứ… Đừng để uy quyền bên
ngoài chi phối và làm lệch lạc đi sự thẩm định thuần túy và nguyên thủy của bản
thân. Đừng để “vị nể” xen vào trong nhận thức để đánh mất đi tính trung thực cần
thiết của vấn đề. Ngài khuyên chúng ta chỉ nên tin vào chính sự thẩm định của
mình qua kinh nghiệm tự thân, so với kinh nghiệm cá nhân của người trí làm quy
chuẩn, rằng điều nào thiện lành, tốt đẹp thì hãy phát triển những điều ấy để
đem lại lợi ích cho mình và cho người, những điều nào mình thấy xấu ác, sai dở
thì loại bỏ đi. (Kinh Kalama, Tăng chi
bộ kinh, chương III, phẩm VII, kinh số 65).
Nhìn
vào cuộc đời Ðức Phật, chúng ta có thể thấy pháp quán chiếu kinh nghiệm bản
thân này được Ngài ứng dụng trong suốt quá trình tu tập của chính Ngài. Khi rời
cung điện tìm giác ngộ, Ngài đã thực hành các phương pháp tu tập thời bấy giờ:
tu khổ hạnh, các hình thức thiền nhập định phổ biến thời bấy giờ rồi từ đó, rút
ra kinh nghiệm quý báu, điều chỉnh cách hành trì. Cả đến khi Ngài sống trong rừng,
Ngài thực hành tất cả các phương cách thí nghiệm. Thí dụ, Ngài kể khi Ngài đã sống
một mình trong rừng hoang như thế nào, do đó Ngài thể nghiệm sự sợ hãi. Trong
đêm khuya, một cành cây gãy khiến cho bất cứ ai cũng có thể sợ hãi. Ðức Phật
luôn luôn tìm hiểu những nguyên nhân gây sợ hãi. Dù trong bất cứ trạng huống
nào, Ngài cũng vẫn giữ nguyên tư thế bình tĩnh cho đến khi vượt qua trạng huống
đó (Trung bộ kinh số 4: kinh Sợ hãi và
khiếp đảm). Ða số thường chạy trốn khi sợ hãi! Ðức Phật không phản ứng như
vậy, Ngài ở đó cho đến khi Ngài vượt qua khó khăn ấy. Một thí dụ khác, sự thí
nghiệm của Ðức Phật với tư tưởng tốt và xấu. Ngài thí nghiệm với tư duy của Ngài
cho đến khi có thể làm các tư tưởng không tốt lắng xuống (Trung bộ kinh số 19: kinh
Song tầm).Cứ thế, Đức Phật dùng
phương pháp chứng nghiệm bản thân suốt trong quá trình tu tập của Ngài.
Mỗi
người chúng ta cũng vậy, tin Phật thôi chưa đủ, tin Pháp cũng chỉ cho ta phương
cách hành trì, tin Tăng cũng chỉ cho ta những gương thành công khi tin theo Phật
và thực hành theo Pháp. Tất cả những đối tượng của niềm tin này cho ta năng lượng
để đặt niềm tin vào bản thân, dốc tâm thực hành, dần điều chỉnh cho tốt hơn và
hiệu quả hơn nhờ vào quy trình vừa làm vừa rút kinh nghiệm, vừa học vừa tu, vừa
đi vừa tới. Trong sự trải nghiệm ấy, có khi ta thất bại, ngay cả Đức Phật cũng
đã từng thất bại trước khi thành công đó thôi. Điều quan trọng là ta làm gì sau
mỗi lần thất bại. Nếu nhụt chí, mất niềm tin, hoang mang và không còn muốn phấn
đấu thì ta đã thất bại “toàn tập” ngay từ đầu rồi. Nếu sau một lần té ngã, ta
chống đất đứng dậy ngay từ nơi mình ngã, rút kinh nghiệm để không trượt dài
trên vết trượt cũ thì sự trải nghiệm tự thân đóng một vai trò vô cùng quan trọng
trong thành công của đời mình.
Không
ai trải thảm đỏ cho mình bước lên mà con đường của mỗi một người là do mỗi cá
nhân tự bước trên đôi chân của chính mình với những bước đi thận trọng nhưng đầy
quyết tâm. Phải có niềm tin lớn, nghị lực lớn cùng sự quyết đoán lớn mới có thể
tiến bộ mỗi ngày và dần về đích. Dám nhìn nhận sai lầm và rút ra nhiều bài học
quý từ những sai lầm của mình là điều cần thiết để gia cố niềm tự tin ở mỗi người
vậy.
Tin vào sự vận hành của
các quy luật khách quan
Với tuệ giác của một bậc giác ngộ, Đức Phật đã
chỉ rõ cả thế giới, vũ trụ này đều vận hành theo quy luật khách quan không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Thông thường, nhận thức chủ quan luôn
luôn đi theo cách mà người ta muốn sự vật là như thế, tức là như họ nghĩ mà
không như chúng thực sự diễn ra. Họ không thấy sự vật vận động theo quy luật của
nó vì mê mờ, nhầm lẫn, tham lam, thành kiến và quan niệm sai lầm. Một số người
kịp nhận ra điều này bắt đầu học được niềm tin chân chánh khi không in bóng chủ
quan và cảm tính của mình lên các quy luật khách quan và tạo khuôn mẫu muốn
chúng vận hành theo ý mình.
Tuy
không “điều khiển” được guồng máy các quy luật tự nhiên vì nó vận hành khách
quan, song ta có quyền thay đổi ngay lúc tạo nguyên vật liệu cho guồng máy này
làm việc. Ví dụ trong quy luật nhân-quả, một nhân xấu khi đã tạo rồi thì ta
không thể can thiệp để thay đổi tính chất của quả khổ đau tương ứng từ nhân
này, nhưng ta hoàn toàn có quyền can thiệp ở giai đoạn phôi thai của tiến
trình, là giai đoạn nạp nguồn, tức là tác ý tạo nhân. Ta tạo nhân tốt, thay vì
nhân xấu, là góp phần điều chỉnh hướng đi của quy luật nhân quả và nghiệp báo để
có quả hạnh phúc vậy. Trên cơ sở này, chúng ta nhận ra ngay chính bản thân mình
là nơi nương tựa, là nơi quyết định sự thay đổi trên cơ sở tin vào sự vận hành
khách quan của các quy luật chi phối cuộc sống. Những quy luật vận hành vũ trụ
như nghiệp, nhân quả, duyên khởi được Đức Phật nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong
các bài pháp của Ngài, khuyến cáo chúng ta biết tác động đúng cách, đúng thời nếu
muốn can thiệp vào sự thay đổi kết quả theo chiều hướng tích cực. Ngài nói rõ,
hễ mình gieo nhân gì thì chính mình sẽ nhận lấy kết quả tương ứng của nó. Nên
nhớ rằng không có một tha nhân hay một thế lực vô hình nào trên thế gian này có
thể thay nhân đổi quả của người khác được mà chỉ có mình mới có thể lèo lái con
thuyền định mệnh của chính mình mà thôi. Con người không cần phải cầu nguyện,
van xin để chư Phật độ cái này, thưởng cái kia vì có van xin cầu nguyện cũng
không bao giờ được, bởi vì nó đi ngược với luật nhân quả. Chỉ có tự mình mới có
quyền quyết định hành trình của bản thân. Vậy không tin vào bản thân mình thì
còn biết tin ai?
Mỗi
con người là kiến trúc sư của đời mình. Với thân-tâm như là những nguyên vật liệu
thô ta thừa hưởng từ nhiều kiếp trước, ta có thể sử dụng tất cả những thứ này để
xây dựng ngôi nhà cuộc đời. Trong quá trình xây dựng này, tự tin vào khả năng,
nhận thức, ý chí và nghị lực của bản thân đóng vai trò vô cùng quan trọng nhằm
kích hoạt tất cả tiềm năng mình có để sử dụng nguồn nguyên vật liệu sẵn có một
cách hiệu quả nhất. Một hình ảnh khác, thân-tâm này là một cỗ xe, còn điều khiển
cỗ xe này về hướng nào, đến đích nào phụ thuộc vào bản thân mỗi người. Vì lẽ
đó, mỗi cá nhân không chỉ là người thừa tự của nghiệp mà còn là chủ nhân của
nghiệp (Tăng chi bộ kinh, chương Năm, phẩm VI, kinh số 57: Sự kiên cần phải quán; Tăng chi bộ kinh, chương Năm, phẩm XVII,
kinh số 161: Trừ khử hiềm hận). Đến
đây, ta còn trông chờ vào ai, tin tưởng vào ai mà không tin tưởng, nương tựa
vào chính mình để quyết định nguồn nguyên vật liệu nào cần nạp vào cho guồng
máy này vận hành theo ý muốn? Đầu vào (input) tốt thì hứa hẹn đầu ra (output) tốt;
nếu ta đủ niềm tin, sáng suốt và nỗ lực không ngừng, ta có thể góp phần điều hướng
tiến trình vận hành của các quy luật khách quan.
Như
vậy, niềm tin trong đạo Phật chung quy là tự tin vào chính bản thân mình. Đức
Phật xác định đây là tài sản quý báu nhất, cao thượng nhất của mỗi con người
(Tương ưng bộ kinh, tập I, chương I, phẩm VIII, kinh số 3: Tài sản).Với sự soi rọi của lý trí, các đối tượng khác của niềm tin
như Đức Phật, giáo pháp, những người đã thành tựu nhờ thực hành giáo pháp, bản
chất thiện lành vốn có ở mỗi người, khả năng tự chuyển hóa nội tâm ở mỗi cá
nhân và những trải nghiệm quý báu trong cuộc đời và sự vận hành khách quan của
các quy luật là những hỗ trợ cần thiết đưa mỗi người về với niềm tin tự thân vậy.
Trong Phật giáo, lý trí không phải là “khắc tinh” của niềm tin mà là bạn tri kỷ
đồng hành cùng niềm tin trong từng bước đi suốt cuộc hành trình. Đây là điểm vô
cùng đặc biệt và khác biệt giữa niềm tin trong Phật giáo và niềm tin của các
tín ngưỡng tôn giáo khác.