Cảm thức về cuộc đời trong thơ văn của Ngô Thì Nhậm
cam thuc
Phan
Thạnh
Ngô
Thì Nhậm là một trong những danh nhân lịch sử văn hóa và văn học Việt Nam cuối
thời trung đại. Ông đã có nhiều đóng góp to lớn cho dân tộc Việt Nam trên nhiều
lĩnh vực như văn hóa, triết học, văn học, giáo dục, quân sự, chính trị, ngoại
giao... Chỉ xét riêng về văn học, ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ
với nhiều thể loại khác nhau.
Thế
kỷ XVIII được xem là thế kỷ rối ren của lịch sử dân tộc Việt Nam. Ngô Thì Nhậm
sống trong khoảng thời gian mà đất nước có nhiều biến động, chế độ phong kiến
lâm vào cảnh trì trệ, vừa có chúa lại có vua, trật tự xã hội đảo lộn. Trong khoảng
15 năm xã hội chứng kiến biết bao đổi thay. Nhà Lê bù nhìn,
Trịnh - Nguyễn phân tranh quyền lực để rồi cuối cùng phải chờ cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn thống nhất non sông, thu phục các tập đoàn phong kiến về một mối. Quyền
hành chính sự thay đổi, những trí thức đương thời rơi vào cảnh thăng giáng chức
quyền. Không những thế, họ lại bế tắc trong tư tưởng, mất niềm tin ở ý thức hệ
Tam cương Ngũ thường của Nho giáo. Lâm vào trong bế tắc tư tưởng, có kẻ mai
danh ẩn tích để giữ thanh tiết, có người cúi luồn để được vinh thân. Nhưng
chung quy lại, họ cảm thấy cuộc đời là một chuỗi những thay đổi, biến chuyển.
Ngô Thì Nhậm cũng như những trí thức cùng thời đã nhìn nhận cuộc đời bằng một
cảm quan bãi biển nương dâu. Tuy nhiên, với Ngô Thì Nhậm ta thấy ở ông không
phải là cảm quan bi lụy về cuộc đời, ông đã bước tiếp những bước quan trọng về
tư tưởng khi ông theo gót của Tam Tổ Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, học hỏi đạo từ
bi của Phật giáo. Ngô Thì Nhậm được xem là vị tổ thứ tư của Thiền phái Trúc Lâm
Yên Tử - một thiền phái nhất tông mang tinh thần nhập thế tích cực - khi ông cố
gắng xiển dương tông chỉ Thiền phái để xây dựng kiến trúc thượng tầng lúc bấy
giờ dưới nhãn quan Phật giáo. Ông được các bạn đồng tu và đệ tử gọi là Hải
Lượng Thiền sư.
Tuy
là kẻ sĩ bước ra từ cửa Khổng sân Trình nhưng Ngô Thì Nhậm đã nhìn nhận cuộc
đời với cảm thức của đệ tử Phật gia.
1.Sự
biến chuyển vô thường
Theo Phật giáo, tất cả
sự vật, hiện tượng tồn tại đều nằm trong một chuỗi nhân duyên và chịu sự chi
phối của vô thường. Theo Từ điển Phật học
Hán Việt thì “tất cả các pháp thế gian, sinh diệt, trôi chảy, một sát-na
không ngừng nghỉ, gọi là Vô thường” [11, tr.1539]. Vạn
vật không đứng yên một chổ mà luôn luôn biến đổi hình dạng, đi từ trạng thái
hình thành sang trạng thái biến hoại rồi tan rã theo định luật Thành - Trụ -
Hoại - Không. “Không vật nào là không biến chuyển ngay trong một sát-na. Nếu
mọi vật đều hiện hữu tùy thuộc vào tràng nhân duyên thì cái hiện hữu tùy thuộc
điều kiện mà thôi, không có một vật nào trong vũ trụ này có thể trường tồn hay
biệt lập. Do đó, Đức Phật dạy rằng vô ngã là yếu tính của vạn vật và từ đó tất
yếu dẫn đến một lý thuyết nữa là vạn vật đều vô thường”. [10, tr.33].
Tư tưởng này ảnh hưởng rất lớn trong văn
học. Để chỉ những thay đổi lớn trong cuộc đời, trong xã hội, các tác giả thường
ví với "bãi bể nương dâu”. Hình ảnh này ta bắt gặp rất nhiều trong văn học.
Chẳng hạn như Nguyễn Du, khi mở đầu Truyện Kiều, ông viết:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Còn Lê Ngọc Hân sáng tác bài Ai tư vãn cảm thương cái chết của chồng
là Quang Trung đã viết:
“Phút giây bãi bể nương dâu
Cuộc đời là thế biết hầu nài sao”.
Với cái nhìn về sự biến chuyển đổi thay,
các nhà thơ, nhà văn đã bị chi phối rất nhiều trong sáng tác. Ngô Thì Nhậm nằm
chung trong dòng cảm quan ấy. Hoàn cảnh xã hội và cuộc đời của chính ông là một
minh chứng rõ ràng cho sự biến chuyển đổi thay.
Nửa sau thế kỷ XVIII, tình hình chính
trị nước ta lâm vào cuộc rối ren khi mà Trịnh - Nguyễn phân tranh trong nhiều
năm cuối cùng Nguyễn Huệ khởi nghĩa thống nhất đất nước. “Những biến cố trọng
đại đó diễn ra liên tiếp trong khoảng 15 năm không chỉ làm đảo lộn toàn bộ tình
hình đất nước, mà còn làm đảo lộn cuộc sống của từng gia đình, của mỗi số phận
con người, trong đó có nhiều nhà tư tưởng nổi tiếng của nước ta thời kỳ này”[4,
tr.39]. Hơn ai hết, Ngô Thì Nhậm là một người chứng kiến bao biến đổi thịnh suy
ấy để rồi ông nhận ra rằng mọi thứ đều biến chuyển, thay đổi, không có gì tồn
tại thịnh mà không suy.
Từ thực trạng của xã hội với sự thịnh
suy của các triều đại, Ngô Thì Nhậm càng thấm hơn cái triết lý vô thường của
đạo Phật. Trong bài Cảo Thành, ông đã
nói rằng:
“Xích phục trình phù sự dĩ phi
Cổ thành lao lạc thảo uy di
Thú lâu ngõa lịch kim thiên tải
Giáp đệ ca chung bỉ nhất kỳ
Bắc Thượng trần đồ thành cổ kính
Đông Quang đài triện ủy tàn bi
Đại đô thịnh vãn đương nhiên sự,
Khước tiễn Đồng Giang bách xích ti.”
(Xích phục phù xưa kia nay còn đâu,
Chỉ còn tòa thành tiêu điều đầu cỏ rậm
Chòi canh gói vụn đã hàng ngàn năm nay
Lầu gác đàn ca, chỉ một thời thuở ấy
Đường bụi trần vùng Bắc Thượng giờ thành
lối tắt
Rêu phủ chữ triện Đông Quang còn lại bia
tàn
Tóm lại thịnh suy là điều đương nhiên
Đáng khen sợi tơ trăm thước ở Đồng
Giang). [7, tr.518]
Ngô Thì Nhậm khẳng định thịnh suy là lẽ
đương nhiên khi ông đã trải qua và chứng kiến những biến đổi ngay trong đất
nước mình. Đồng thời với những lần đi sứ, qua nhiều nơi, ông thường quan sát
các di tích mà một thời là nơi hưng thịnh. Khi ngang qua sông Chương ở Trung
Quốc, đến vùng đất từng là nơi xưng bá của Tào Tháo, ông viết:
“Nghiệp quận đến khâu đài điện tận”.
(Khu vực đế vương ở Nghiệp Quận lâu đài cung
điện đã tan hết). [7, tr.516]
Ngô Thì Nhậm đến đất nhà Ân, cung điện
rực rỡ một thời của Vương chúa nay chỉ còn:
“Biểu thạch huy hoàng yết Hữu Ân,
Huyền vương cung điện trục hành vân”
(Chữ khắc trên bia đá còn nêu rực rỡ tên
nhà Ân
Cung điện của Huyền vương bay theo mây
rồi). [7, tr.513]
Rồi khi đi qua đất Hà Nam, ông thấy:
“Vi Tử di khư bất khả tầm
Mãn sơn ma mạch khái Thương âm”.
(Di tích về đất phong của Vi Tử không
còn tìm thấy
Đầy núi chỉ thấy lúa ma lúa mạch cảm
thương dư âm đời Thương!). [7, tr.490]
Chuyện cũ trôi qua, tất cả đều biến đổi,
chỉ còn lại âm thanh của tiếng chim buồn bã đâu đó giữa trời:
“Vãng sự dĩ tùy vân vật biến
Thê thê cổ điệp điểu thanh thâu”
(Chuyện cũ đã biến đổi cùng cảnh vật
Trên bức tường cua buồn bã chỉ còn tiến
chim kêu). [7, tr.491]
Cảm nhận của Ngô Thì Nhậm về sự biến đổi
thịnh suy của các triều đại được thể hiện rõ trong những tập thơ ông đi sứ. Khi
qua chốn đao binh, địa giới hưng phế của các triều đại Trung Quốc Ngô Thì Nhậm
nhận chân ra sự thay đổi chỉ trong chớp mắt. Bao nhiêu thành quách vững chắc
nay chỉ còn móng đổ rêu phủ mà thôi.
Nhìn lại thế sự nước nhà, Ngô Thì Nhậm
không thể quên chuyện thay ngôi đổi vị giữa nhà Lê và nhà Trịnh. Và rồi nhà
Trịnh còn gì khi khởi quân Tây Sơn thống nhất sơn hà. Sự thịnh suy chẳng khác
gì sương đầu ngọn cỏ mà Vạn Hạnh thiền sư đời Lý đã từng dạy đệ tử. Sự hưng
thịnh của nhà Trịnh rốt cuộc cung Vương, Ngòi ngự như nước trôi liễu rủ. Trong
bài Ngũ vân lầu vãn điểu, ông viết:
“Phật tự y vi lung ngạn tuyết
Vương cung lạc mạc ẩn sơn vân
Ngự câu lưu thủy thùy dương sấu
Cố lũy u sào túc điểu phân”
(Chùa Phật xa mờ, lồng trong bờ tuyết
Cung Vương lặng lẽ ấn dưới núi mây
Ngòi ngự nước trôi liễu rũ gầy guộc
Lũy xưa hang tổ chim ngủ lao xao). [7,
tr.194]
Chính quyền phong kiến thế kỷ XVIII rỗng
mục, vua chúa ăn chơi sa đọa, nhân dân chịu cảnh sưu cao thuế nặng, cuộc sống
lầm than, cực khổ. Chính vì vậy nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra nhằm đòi
hỏi những lợi ích cho quần chúng nhân dân. Các cuộc khởi nghĩa ít nhiều có tầm
ảnh hưởng và được nhân dân ủng hộ, song cuối cùng đều bị thất bại. Những cuộc
khởi nghĩa thất bại, công sức gây thành dựng lũy cuối cùng chỉ còn trơ trụi
trước thời gian:
“Cục tàn Thiết Giáp dư thanh miếu”
(Tan cuộc Thiết Giáp, miếu vắng còn trơ).
[7, tr.197]
Trong bài Quá Nhị Mỗ Hương hoài cổ, Ngô Thì Nhậm viết rằng:
“Doanh thâu sự cục túy vân vật”
(Cuộc thế hơn thua đổi thay theo cảnh
vật). [7, tr.318]
Và nhận ra rằng, cuộc thế vô cùng tận
này cũng chỉ như bèo nổi mây trôi, chuyển biến chỉ trong cái chớp mắt. Thịnh
suy, được mất chẳng khác gì bãi biển hóa thành nương dâu:
“Biến cải như thương tang
Cư chư chuyển thuấn tức”.
(Đời biến đổi như biển xanh thành ruộng
dâu
Tháng ngày trôi nhanh trong chớp mắt). [7,
tr.473]
Vạn pháp chịu sự chi phối của quy luật
thành - trụ - hoại - không. Sự thế biến đổi, không gì là tồn tại vĩnh viễn.
Thành quách, sự nghiệp bá vương tưởng như bền vững nhưng rồi cũng tàn rụi theo
lẽ vô thường. Tất cả đều biến chuyển, thay đổi như mây trên đỉnh núi, như gió ở
ngọn cây tùng. Ngô Thì Nhậm ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo, đồng thời, cuộc đời
lại chứng kiến cảnh đổi thay của các triều đại nên ông cảm nhận một cách sâu
sắc lẽ có - không, thành - hoại…
Quan sát sự thịnh suy đổi thay của xã
hội, của cuộc đời, không chỉ riêng mình Ngô Thì Nhậm mà rất nhiều nhà văn nhà
thơ đã có những cái nhìn tương tự. Chẳng hạn như được mất chỉ trong một đêm của
Nguyễn Trãi, lời than vãn cùng kiếp người khổ đau hàng ngàn năm của Nguyễn Du…
đều nằm trong cảm quan của sự thế đổi thay. Cùng thời với Ngô Thì Nhậm, thế hệ
chứng kiến đổi thay “sớm chúa chiều vua”, “ba bè bảy mối” tranh giành quyền lực
diễn ra trước mắt, họ đã nhìn thấy nhưng lại với một tâm trạng vô cùng bi quan.
Nguyễn Gia Thiều với con mắt đầy cảm thương về số phận con người, đầy bi đát về
thế sự.
“Khóc vì nỗi đau sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu”.
Tiếng khóc của sự thế đổi thay trở thành
nỗi ám ảnh cho biết bao thế hệ trí thức. Nó tạo dựng một nhân sinh quan để quan
niệm vào Nho ra Phật - Lão trong mọi thời đại trở thành con đường chung.
2.
Kiếp
nhân sinh huyễn mộng
Trong kinh Bát đại nhân giác đức Phật dạy rằng:
“Thế gian vô thường
Quốc độ nguy thúy
Tứ đại khổ không
Ngũ ấm vô ngã
Sinh diệt biến dị
Hư ngụy vô chủ”.
(Cuộc đời là vô thường, vũ trụ mong manh
tạm bợ, bốn đại rỗng không và đau khổ, tập hợp năm ấm là vô ngã, sinh diệt thay
đổi không ngừng, không thực và không chủ thể).
Chi phối bởi định luật Vô thường nên
không chỉ vũ trụ biến đổi, vạn vật xoay chuyển đổi thay mà con người cũng biến
đổi. Trong kinh Kim Cang đức Phật dạy
rằng:
“Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện”
(Tất cả các pháp hữu vi
Như giấc mộng, như ảo ảnh, như bọt nước
như bóng
Như sương, như ánh chớp).
Các pháp không nằm ngoài quy
luật biến chuyển thành - trụ - hoại - không nên các pháp đều có sinh và có
diệt. Trong Kinh Niết Bàn (quyển 4) Phật nói về Vô thường như
sau:
“Chư hành vô thường
Thị sinh diệt pháp”.
(Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt).
Thiền Sư Vạn Hạnh đời nhà Lý
(1010 - 1225) trước giờ thị tịch đã nhắc nhở chúng đệ tử về sự vận hành của vô
thường qua bài kệ:
“Thân
như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn
mộc xuân vinh thu hựu khô”.
(Thân
như ánh chớp có rồi không
Cỏ
cây xuân tốt thu qua lụi tàn).
Vũ trụ nằm trong vòng thành - trụ - hoại
- không còn con người nằm trong vòng sinh - già - bệnh - chết. Vô thường biến
chuyển nên kiếp nhân sinh chỉ là bọt nước tan hợp trong sát-na. Dưới cái nhìn
của người học Phật, Hải Lượng Ngô Thì Nhậm nhận chân ra sự giả hợp của cuộc
đời, tất cả là huyễn mộng.
Trong bài Xuân nhật, Ngô Thì Nhậm đã nói cái vô thường khiến tuổi trẻ qua đi,
con người sẽ già, dù muốn trẻ lại cũng không dùng gì để mua được:
“Lão chí hữu tiền nan mãi thiếu”
(Già đến có tiền khó mua lại tuổi trẻ) [7,
tr.287]
Thời gian trôi qua, khiến cho tuổi già
bộc lộ trên mái tóc lốm đốm bạc:
“Tự lai tam kỷ cách từ nhan
Du tử như kim phát dĩ ban”.
(Từ ấy lại đây đã ba kỷ xa cách từ nhan
Kẻ du tử đến nay tóc đã lốm đốm). [7,
tr.361]
Nói về kiếp nhân sinh mong mỏi được lâu
dài nhưng dù có sống trăm năm đi nữa thì thời gian ấy cũng chỉ như tên bay mà
thôi.
“Nhân sinh tại thế, tam vạn lục thiên
nhật
Thiều quan tự tiễn, đẳng nhàn bạch liễu
thiếu niên đầu”.
(Người ta sống ở đời ba vạn sáu nghìn
ngày
Bóng thiều quang như tên bay, thấm
thoắt bạc hết mái đầu xanh). [7, tr.150]
Hay trong bài Đạo ý, thiền sư Hải Lượng Ngô Thì Nhậm cũng lại nói:
“Niên tiễn xâm tầm thành bạch tẩu”
(Năm như tên bay, lần lữa thành lão bạc
đầu). [7, tr.144]
Vì thời gian như tên bay, mọi thứ chuyển
xoay một cách nhanh chóng nên kiếp sống con người cũng chỉ là như giấc mộng.
Ngô Thì Nhậm nhiều lần nói đến giấc mộng Nam Kha không ngoài mục đích nói đến
cuộc đời của con người. Trong các bài Vãn
thu tham Thiền, Ngụ dinh cầu muộn thuật, Hàm đan ký du, Đăng Bàn A sơn cảm
hứng… ông đã lặp đi lặp lại các từ “Hòe mộng”, “mộng tàn”, “giấc mộng hạc
đen”, “Hoàng lương mộng”… Giấc mộng Nam Kha hay giấc mộng Hòe là sự nhanh chóng
của cuộc đời, là sự giả tạo của công danh lợi lộc. Kiếp nhân sinh không hiểu rõ
tính phù hư, huyễn hoặc của cuộc đời nên cứ chìm đắm mãi trong cuộc thế. Dưới
cái nhìn tuệ nhãn, người học Phật nói chung và Hải Lượng Ngô Thì Nhậm nói riêng
đã nhìn nhận cuộc đời này là trò huyễn ảo, con người chìm đắm trong cuộc thế
đầy vui buồn lẫn lộn:
“Phù thế đại đô bi hỉ cục”
(Cõi phù thế hầu hết là cuộc buồn vui). [7,
tr.303]
Trong bài Đăng Hổ Sơn hữu cảm, Ngô Thì Nhậm đã nói danh lợi chỉ là giấc mơ,
cuộc phù thế là dạo cảnh sống chết vô thường:
“Thiên thai dạ dạ mộng y quan
Du tử kim phiên bái Hỗ San
Vạn cổ tinh thần dư thúy cái
Lục thu phong nguyệt lão thương can
Từ bi lạc quốc Phật thiên thượng
Ly hợp phù âu nhân thế gian”
(Bên trời đêm đêm nằm mơ áo mũ
Kẻ du tử phen này được bái núi Hỗ
Tinh thần muôn thuở, tán thông biếc tốt
tươi
Trăng gió sáu thu, thân trúc xanh già
giặn
Phật trên trời, từ bi nơi cực lạc
Người cõi thế, tan hợp bọt nổi trôi). [7,
tr.182]
Vào thế kỷ
thứ 4, Ngài Vô Trước (Asanga), một vị luận sư nổi tiếng của Phật giáo sáng lập
phái Du Già (Yogàcàra) đã viết trong Trung
Quán Luận rằng: “Vạn pháp đều tạo thành bởi
sự kết hợp giữa nhân và duyên, nên không có tự tánh, khi sự kết hợp đã bị phân
hóa thì chắc chắn phải có sự hủy diệt. Thân của chúng sanh gồm Tứ đại (đất,
nước, gió, lửa), và khi tứ đại dung giải thành nguyên tố thì sự chết sẽ tiếp
theo". Người
sống trong cõi thế tưởng chừng bền vững nhưng chung cục chỉ là sự giả tạm như
bọt nổi hợp tan, huống hồ được mất hơn thua giữa chốn danh lợi chỉ là phù hoa.
Sự giả hợp tứ đại tạo nên thân người không thật tồn tại nên giống như chim đàn
lạc nhau khi tiếng súng vô thường vang nổ. Ngô Thì Nhậm nhìn nhận:
“Thế cục thăng trầm dã điểu phi”
(Cuộc thế thăng trầm, chim nội bay
liệng). [7, tr.187]
Thân người được chăm chuốt kỹ càng nhưng
cũng không vĩnh hằng mà luôn thay đổi theo từng sát - na, hơi thở huống gì công
danh phú quý thăng trầm theo thời cuộc thịnh suy…. Cuộc đời dài ngắn rút cuộc
vẫn là sự tan rã theo lẽ tự nhiên, chỉ là trò huyễn, là giấc mộng không thật.
Nhận ra giá trị giữa chân và thật, Ngô Thì Nhậm trong bài Hữu sở tiếu đã quán triệt được hai lẽ chân và giả của triết lý Phật
giáo:
“Hám
giao khắc thạch chân hoàn huyễn
Ky hạc yêu tiền thực dã vu”.
(Cúi nhìn thuồng luồng khắc hình vào đá
chân cũng là giả
Cười kẻ cưỡi hạc đeo tiền đầy lưng, thực
cũng viễn vông). [7, tr.170]
Như vậy, Ngô Thì Nhậm đã hiểu rõ một
cách sâu sắc về thế giới quan và nhân sinh quan của đạo Phật. Với cái nhìn của
một người học Phật, ông đã nhận chân được bản chất của cuộc sống, bản chất của
vạn vật là sự biến đổi theo định luật vô thường. Vô thường biến chuyển khiến đại
địa sơn hà thay đổi, kiếp sống nhân sinh cũng chỉ như bọt nước, như ánh điện
chớp… Tất cả chỉ tồn tại trong một phạm trù không gian thời gian tương đối chứ
không tồn tại vĩnh hằng. Nhìn ra được tính chất vô thường và duyên sinh tan
hợp, Ngô Thì Nhậm tiến xa hơn trong vấn đề nhận thức về vũ trụ và nhân sinh.
Những thế hệ trí thức cùng thời Ngô Thì
Nhậm như Nguyễn Thiếp, Ngô Thế Lân, Ninh Tốn, Vũ Huy Tấn, Phan Huy Ích, Nguyễn
Đề… đều có chung cái nhìn về kiếp người, về cuộc hưng phế của xã hội. Thế sự
phù hư thay đổi lại thêm mất niềm tin ở chế độ Phong kiến, bế tắc tư tưởng ở
ngôi nhà Nho học, họ đã nhìn đời bằng con mắt bi quan, chán chường. Đa số mất
niềm tin ở cuộc sống, họ tìm về ẩn dật, xa lánh cuộc đời. Riêng Ngô Thì Nhậm,
nhìn thấy bản chất thực của cuộc sống nhưng không hề bi quan, chán chường mà
tìm cách để xây dựng cuộc sống ý nghĩa. Ông đã theo lời Đức Phật dạy Khổ đế
trong Tứ diệu đế, nhìn thấy khổ không phải để bi quan mà để thấy rõ bản chất
cuộc sống. Từ đó bình thản tự tại trước sự đổi thay. Ngô Thì Nhậm đi xa hơn
trong tư tưởng so với những nhà trí thức cùng thời lúc bấy giờ.
Tài liệu tham khảo chính:
1.
Trần Ngọc Ánh (2007), “Nhận thức luận
của Ngô Thì Nhậm - bước tiến tư tưởng triết học Việt Nam thế kỷ XVIII”, Tạp chí Triết học, số 5 (192).
2.
Nguyễn Huệ Chi chủ biên (1988), Thơ văn Lý Trần tập 1-2-3, NXB.Khoa học
xã hội, Hà Nội.
3.
Doãn Chính (2012), Lịch sử triết học phương đông, NXB.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4.
Lê Thị Lan (2003), “Những biến động trong đời sống chính trị văn hóa tinh thần ở
nước ta cuối thế kỷ XVIII và ảnh hưởng của chúng đối với các nhà tư tưởng thời
kỳ này”, Tạp chí Triết học, số
4(143).
5.
Nguyễn Lang (2014), Việt Nam Phật giáo sử luận toàn tập, NXB.Văn học.
6.
Mai Quốc Liên chủ biên (2001), Ngô Thì Nhậm tác phẩm, tập 1, NXB.Văn
học.
7.
Mai Quốc Liên chủ biên (2001), Ngô Thì Nhậm tác phẩm, tập 2, NXB.Văn
học.
8.
Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII- hết thế kỷ XIX, NXB.Giáo
dục, Hà Nội.
9.
Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học Trung đại Việt Nam - quan niệm con
người và tiến trình phát triển, NXB.Khoa học xã hội.
10. Takakusu
(2008), Tinh hoa triết học Phật giáo,
Tuệ Sỹ dịch, NXB.Phương Đông.
11. Phân
viện nghiên cứu Phật học (2012), Từ điển
Phật học Hán Việt, NXB.Khoa học xã hội.
Địa chỉ: Thích Chấn Đạo (Phan Thạnh) chùa
Tra Am, phương An Tây, thành phố Huế. SĐT:0988012018.