Kỷ lục Của Một Bậc Thầy
ky luc
Vĩnh Hảo
Ngọn
đồi không cao nhưng diện tích khá rộng. Nếu đi bộ một vòng quanh chân
đồi, cũng mất gần một ngày. Cây cối trên đồi đã được đốn hạ trụi lủi từ
năm năm trước để tiến hành công trình xây dựng ngôi chùa, đạt kỷ lục là
có chánh điện rộng lớn nhất nước; bên cạnh đó, lại thêm một kỷ lục là
có tượng Phật tọa thiền vĩ đại nhất châu lục. Thế nên, khi công trình
xây dựng hoàn tất, nhìn từ xa, chỉ thấy ngôi chùa nguy nga với mái ngói
xanh đỏ và tượng Phật to lớn thếp vàng nhũ lóng lánh, nổi bật giữa trời
mây, không còn thấy ngọn đồi.
Ngoài
chánh điện, nơi đây còn có nhiều tòa nhà rộng lớn, bao gồm tiền sảnh,
hậu sảnh, tăng xá, tàng kinh các, bảo tàng viện, tăng quán, v.v… với
ngói lợp nhập cảng và cột kèo chạm trổ tinh vi, tiếp nối liền lạc nhau
tạo nên một quần thể kiến trúc qui mô, chiếm hết diện tích ngọn đồi, từ
chân lên đỉnh, từ mặt trước đến mặt sau.
Trên
đỉnh đồi, phía tây của chánh điện, sư phụ cho dựng một căn nhà rường
bằng gỗ, hình lục lăng, không vách, đặt tên là Không Phong Các. Gió
lồng lộng suốt ngày đêm. Sư phụ thường ngồi uống trà một mình nơi đó.
Thỉnh thoảng mới có khách phương xa đến, xin được bái kiến vị tăng sĩ
nổi danh chế tác nhiều kỷ lục không ai làm nổi.
Sư
phụ chỉ có một đệ tử xuất gia, đã theo chân sư phụ từ lúc còn niên
thiếu. Trước, cũng có nhiều đệ tử khác xin thọ pháp với sư phụ nhưng đã
lần lượt hoàn tục hoặc rời bỏ thầy để cầu học với minh sư khác. Còn lại
người đệ tử hữu duyên này, nay đã là một vị tỳ-kheo xấp xỉ tuổi ba
mươi. Từ khi sư phụ dấn thân vào việc xây dựng cơ sở, nay tỉnh này, mai
tỉnh nọ, thầy trò ít có cơ hội ngồi với nhau để dùng bữa hay đàm đạo.
Liên tục nhiều năm, sư phụ thường đi tham sát, đốc thúc các công trình
xây dựng, trong khi đệ tử thì đóng cửa nghiên cứu kinh điển, tham thiền
nhập định. Sư phụ đi đến tỉnh nào, đệ tử khệ nệ mang kinh sách theo đó;
chưa một lần bắt tay vào việc của sư phụ, mà sư phụ cũng chưa bao giờ
yêu cầu đệ tử tiếp giúp. Việc thầy thầy làm, việc trò trò làm; người lo
xây dựng bên ngoài, người lo xây dựng bên trong.
Hôm
nay sư phụ muốn vời đệ tử ra ngoài đàm đạo. Cửa phòng đệ tử đóng kín,
bên trong im lặng như tờ. Sư phụ gõ cửa ba tiếng không thấy trả lời,
đành để lại một mẩu giấy nhỏ rồi một mình ra ngồi nơi Không Phong Các,
chờ đợi. Nửa giờ đồng hồ sau mới thấy đệ tử xuất hiện.
“Thầy gọi con có việc?” đệ tử cung kính thưa.
Sư
phụ không nói, chỉ tay nơi một ghế trống, bảo đệ tử ngồi. Đệ tử không
dám ngồi, vẫn cung kính đứng một bên, chờ sư phụ dạy bảo.
“Con vào thiền bao năm đã tìm thấy gì rồi?” sư phụ hỏi với nụ cười nhẹ.
“Thưa, vẫn nơi ấy, không tăng không giảm.”
“Nghĩa là cứ lẩn quẩn một chỗ hay sao?”
“Thưa, chỉ là không rơi vào chỗ nào ạ,” đệ tử minh xác.
Sư phụ trầm ngâm một lúc, nói:
“Tri
không đủ, phải hành con ạ. Thầy đã dấn thân thực hiện nhiều phật-sự ở
khắp các tỉnh thành, dù miệt mài trong nhiều năm qua vẫn cảm thấy là
chưa thỏa nguyện. Vì không muốn làm gián đoạn công phu và ý nguyện của
con, thầy cứ một mình gánh hết mọi việc. Nay thầy đã già, cảm thấy sức
lực không kham nổi những công trình lớn. Những ngày qua, sau khi hai kỷ
lục vĩ đại cuối cùng được hoàn thành nơi đây, thầy nghĩ là tạm đủ. Thầy
muốn tịnh dưỡng. Nhưng cũng nhờ ngồi nơi đỉnh đồi này nhiều ngày, thầy
bất ngờ nghĩ ra một công trình vĩ đại hơn tất cả những công trình mà
trước đây đã làm. Ôi, thật thú vị, thật kỳ diệu thay!...”
Đệ tử liền lên tiếng, cắt ngang hứng cảm của sư phụ:
“Thưa
thầy, con nghĩ thầy nên nghỉ ngơi. Một mình thầy đã tạo nên 9 kỷ lục
không ai làm nổi. Nay thầy cũng bắt đầu già yếu, thầy nên tịnh dưỡng,
không cần phải tạo thêm kỷ lục nào nữa.”
Sư phụ chưng hửng một thoáng, rồi nói, giọng hơi gắt:
“Ta nói chưa hết ý mà!”
Thầy-trò im lặng một khoảng lâu. Sư phụ tằng hắng, nói:
“Như
đã nói khi nãy, thầy muốn tịnh dưỡng. Nhưng sáng kiến thực hiện kỷ lục
vô tiền khoáng hậu này, nhất định không thể bỏ qua, mà nên làm cho bằng
được. Kỷ lục này, thầy đặt lên vai con đấy!”
“Ồ,
thầy muốn con… thay thầy thực hiện kỷ lục.. thứ mười à? Thưa thầy, con…
sao làm nổi…, con đâu biết bắt đầu từ đâu… biết làm gì bây giờ!” đệ tử
lúng búng nói trong họng.
Thầy nghiêm giọng, nói như trách móc, cũng vừa khích lệ:
“Con
đóng cửa hai mươi năm qua để dồi mài kinh điển, tìm gì, thấy gì vậy hả?
Pháp Phật không phải chỉ nằm trong những cuốn kinh, những bài thi kệ!
Năm xưa ta cũng như con, từ tịnh thất bước vào dòng đời, hai bàn tay
không, kinh nghiệm không có, biết gì mà làm! Cứ dấn thân đi vào, sẽ tự
tìm thấy con đường, tự biết việc gì phải làm. Những kiến thức nào con
đạt được từ kinh sách, chỉ có thể tự soi cho chính con, chứ soi sáng gì
được cho thế gian? Không lẽ cứ ngồi trong thư phòng mà nhai đi nhai lại
những sở văn, sở kiến! Hãy dũng mãnh dấn thân, mà cái dũng đầu tiên của
thiền sư là bước ra khỏi tháp ngà nhàn tịnh an vui của mình.”
Sư
phụ ngưng, xoay qua cái bàn nhỏ, với lấy bình nước sôi; đệ tử vội đỡ
lấy bình, tay run run chế nước vào ấm trà mới thay. Hương trà ướp sen
xông lên một thoáng rồi theo gió cuốn đi. Đệ tử rón rén ngồi xuống
chiếc ghế trống khi nãy sư phụ cho phép ngồi; châm trà vào chung. Hai
thầy trò im lặng hồi lâu. Một toán du khách ăn mặc lịch sự, ồn ào bước
ngang Không Phong Các; thấy hai thầy trò đang ngồi im lìm tư lự, họ lập
tức ra dấu với nhau, xuống giọng, không huyên náo nữa, chắp tay xá dài
rồi đi thẳng về hướng đông, khu vực chánh điện.
Chờ không khí chung quanh yên lắng rồi, sư phụ nhấp ngụm trà, tiếp tục dạy đệ tử:
“Thế
gian này không gì còn mãi, nhưng trong tương đối, có những cái tồn tại
rất dài lâu, mà một đời người không sao mục kích hoặc cảm nhận được sự
biến đổi trong chúng. Như mặt trời, mặt trăng, như tảng núi kia… bao
nhiêu triệu năm qua, vẫn như thế, có ai thấy được chúng đã đổi thay thế
nào. Chưa kịp thấy sự biến hoại của chúng là đã trở thành người thiên
cổ rồi. Vì vậy, thầy tạo nên 9 kỷ lục thì cũng có lý do: thầy muốn gây
ấn tượng thật mạnh vào tâm thức của người tham quan, chiêm bái; đồng
thời cũng muốn những kỷ lục này, tuy là vật chất hữu hình hữu hoại, sẽ
ở lại thật lâu với đời, ít ra cũng vài trăm cho đến cả nghìn năm. Mấy
trăm năm không so gì được với tuổi của thiên địa nhật nguyệt, nhưng dù
gì cũng khiến cho hàng triệu người của bao thế hệ thành tâm lễ bái,
hoặc chắp tay cung kính, hoặc cúi đầu ngưỡng mộ, thậm chí chỉ chiêm
quan vì tò mò, thị hiếu… cũng gieo được duyên lành với Phật. Con hiểu ý
chỉ của thầy rồi chứ?”
“Dạ, con hiểu,” đệ tử nhỏ giọng thưa.
“Hai
mươi năm qua, thầy chưa một lần yêu cầu con làm việc gì trọng đại. Nay
đã đến lúc thầy cậy đến con, mà con cũng nên xem đây như việc của con,
đừng miễn cưỡng nhận đó như là việc thầy giao phó. Con hãy rời khỏi
thiền sàng, dấn thân vào trần gian khổ lụy, vận dụng trí tuệ nội quán
mà phát khởi lòng từ đối với chúng sinh. Con chỉ có thể chứng nghiệm
được niết-bàn ngay nơi cuộc đời khổ đau tận cùng này mà thôi.”
Người
học trò run bấn cả người, đứng dậy rời khỏi ghế, có vẻ như muốn quỳ
xuống, hoặc đảnh lễ sư phụ, nhưng sư phụ đã nhanh nhẹn cầm lấy tay đệ
tử, nâng dậy, đẩy đệ tử trở lại chỗ ngồi. Đệ tử chắp tay, nói lắp bắp,
giọng đầy cảm xúc:
“Thưa thầy… con xin tâm lĩnh lời dạy của thầy… Xin cho con biết con nên bắt đầu từ đâu, và khi nào.”
Sư
phụ không vội trả lời; tầm mắt phóng đến tận chân trời phía tây, nơi
dãy núi Người Nằm mờ ảo ẩn hiện trong sương chiều. Một lúc, sư phụ chậm
rãi nói:
“Chúng
ta đã có quả chuông lớn nhất, tượng Phật trì bình cao nhất, ngôi chùa
có nhiều tượng Phật nhất, Phật khổ hạnh bằng đồng nặng nhất, tháp chín
tầng cao nhất, tượng Phật bằng đá hoa cương lớn nhất, tượng Phật bằng
ngọc lớn nhất, chánh điện rộng lớn nhất, và tượng Phật tọa thiền lớn
nhất…”
Sư
phụ nói ngang đó thì ngưng; mắt không rời dãy núi Người Nằm. Đệ tử dõi
theo mắt sư phụ, vẫn chưa đoán nổi kỷ lục thứ mười của sư phụ là gì.
Thầy trò chìm trong im lặng. Bất chợt, sư phụ lại lên tiếng:
“Có
ít nhất là hai lý do thầy muốn con thay thầy thực hiện kỷ lục cuối cùng
này. Thứ nhất, thầy đã bắt đầu yếu, không thể đi xa, không thể đảm
đương công trình lớn và dài hạn; thứ hai, thầy không muốn con hóa thành
gỗ đá trong thiền phòng. Con hãy nhìn xem, dãy núi kia, rõ ràng là dáng
một người nằm nghiêng bên phải, chiều dài non hai cây số, chiều cao
khoảng năm trăm thước. Thầy muốn biến cả dãy núi ấy thành tượng Phật
nhập diệt vĩ đại nhất thế giới! Chúng ta phải làm được, nhất định phải
làm được!”
Đệ tử thất kinh, mặt mày xanh mét, nói lắp bắp:
“Thưa thầy, sao mà làm nổi! Con không thể… Công trình này to tát quá… con e sức con…”
“Con sẽ làm được. Thầy tin con làm được,” sư phụ quả quyết.
Đệ tử ngồi im, mặt cúi xuống, hai bàn tay đan nhau đặt trên bàn, run lẩy bẩy. Sư phụ nhìn đệ tử, thương xót, khích lệ:
“Hai
mươi năm trước, việc này đối với thầy là một thách thức kỳ thú, nhất
định thầy phải thực hiện cho bằng được. Con đừng tự ti, chùn lòng trước
những việc lớn. Thực ra chẳng có đại sự gì ở đời này mà người xuất gia
chúng ta không làm nổi. Chỉ là muốn làm, quyết tâm làm hay không mà
thôi. Lìa tất cả vọng chấp, thoát ly sinh tử mới là đại sự; còn những
phật-sự hữu hình hữu tướng này, có đáng sá gì mà con phải khiếp hãi!”
Đệ tử bàng hoàng như vừa tỉnh mộng, đứng bật dậy, sụp lạy sư phụ một lạy, rồi quỳ chắp tay, kính cẩn thưa:
“Con xin vâng lĩnh ý chỉ của thầy. Con xin nhận.”
Sư phụ gật gù hài lòng; đỡ đệ tử dậy, ôn tồn nói:
“Thầy
đã bàn thảo với những người cọng sự của thầy từ tuần trước. Nhóm kiến
trúc sư ước tính kinh phí cho toàn công trình là khoảng 80 nghìn lượng
vàng, sử dụng khoảng 100 nhân công thường trực, chính thức, làm việc
ngày tám giờ, ròng rã trong 10 năm thì có thể hoàn tất. Nhóm người
trong hội của thầy sẽ trình bày chi tiết từng giai đoạn của công trình
dài hạn này. Nhóm này sẽ theo con đến hiện trường, gồm có 4 kiến trúc
sư, 4 kỹ sư xây dựng, 4 bác sĩ và y tá, 5 võ sĩ bảo vệ, 5 đốc công điều
hành, 7 người đảm trách thủ quỹ và vận động tài chánh, 8 người lo hậu
cần. Khi nào con sẵn sàng, họ sẽ cùng con lên đường. Phần thầy, sẽ nhập
thất dài hạn cho đến khi con hoàn tất công trình trở về.”
Đệ tử vẫn còn phân vân, rụt rè hỏi:
“80 nghìn lượng vàng, quá lớn, làm sao mà có?”
“Đừng
lo con à. Con không biết là 9 kỷ lục trước đây, kỷ lục nào cũng phải
tốn vài chục nghìn lượng vàng hay sao! Thầy làm việc nào cũng đều có
các đại thí chủ ở khắp các tỉnh cúng dường, ủng hộ cả. Sau thành công
của mỗi kỷ lục, họ đều mong muốn được tiếp tục đóng góp. Còn có những
phú thương đến tìm thầy, xin được cúng dường hàng trăm, hàng nghìn
lượng vàng để dành sẵn trong quỹ để dùng đến khi hữu sự. Những người
này đã tỏ ý hối tiếc vì không biết trước công trình thầy làm, và dặn
khi nào thực hiện công trình mới, hãy cho họ cơ hội đóng góp, kinh phí
lớn bao nhiêu họ cũng không ngại. Nói để con yên lòng, trong quỹ của
hội hiện nay không đủ con số 80 nghìn lượng vàng, nhưng cũng xấp xỉ gần
bằng con số ấy. Thầy chỉ cần thông báo với các đại thí chủ ở các tỉnh
là họ cấp tốc chuyển vàng cúng dường ngay; không chừng tịnh tài đóng
góp còn vượt khỏi số kinh phí cần đến nữa kìa!”
Thiền
sư xuống núi. Một túi vải đơn sơ với y áo và dăm cuốn kinh đã lật nhăn
cả giấy. Từ đỉnh đồi cao, quay nhìn ngôi chùa đồ sộ nguy nga lồng lộng
dưới ánh triêu dương; ngước nhìn tượng Phật kỳ vĩ vàng chóa, vươn lên
giữa bầu trời mây trắng; rồi nhìn về dãy núi xa, xanh thẫm, nổi bật ở
phương tây.
Nhóm người của hội đang trên xe, chờ đợi dưới chân đồi.
Thiền
sư nhìn hai bàn tay trắng của mình, tự hỏi: đâu là chỗ diệu dụng của bồ
tát hạnh? Rồi nhìn xuống hai chân với đôi giầy mới sư phụ vừa trao đêm
trước: đâu là khởi điểm của bồ-tát đạo?
Rời khỏi ngôi đại tự, từ cao xuống thấp, lững thững bước từng bậc cấp đi vào cuộc đời.
Những
người hành khất ăn mặc rách nát, ngồi dọc hai bên đường, ngửa tay xin.
Những người tàn tật nằm lết trên đất. Những đứa trẻ mặt mày nhem nhuốc,
tay chân dơ bẩn, níu lấy vạt áo thiền sư:
“Thầy ơi, chúng con đói lắm, thầy cho chúng con tiền mua cơm…”
“Ơ… thầy không có tiền,” thiền sư lúng túng, “các con vô trong chùa, nhà bếp sẽ cho cơm ăn nhé!”
“Không có đâu thầy ơi,” lũ trẻ nhao nhao lên, “chúng con chưa bao giờ vào được cổng thì làm sao đến được nhà bếp!”
Thiền
sư đứng lại, sững sờ, nhìn bầy trẻ, nhìn những hành khất cha mẹ chúng,
rồi quay nhìn về cổng tam quan đồ sộ kiên cố. Thực vậy sao? Những người
đói khổ này chưa bao giờ bước vào được cánh cổng kia, chưa bao giờ đặt
chân lên thềm ngôi chánh điện nổi tiếng rộng lớn nhất nước? Phải rồi,
ăn mặc rách rưới, đầu tóc rối bù, chân không giầy giép… thì làm sao mấy
người gác cổng cho phép họ vào bên trong ngôi chùa lộng lẫy nguy nga,
vườn hoa muôn sắc đẹp đẽ, sân trước sân sau lát đá hoa bóng loáng…
“Đi, mọi người đi theo thầy, thầy dắt vào trong bếp kiếm cơm,” thiền sư vừa nói, vừa đưa tay mời gọi.
“Không
dám thầy ơi, chúng con không vào đâu, đến cổng cũng bị chặn lại, mà
thầy có dẫn vô được bên trong chúng con cũng bị mấy bác ở bếp đuổi ra
thôi… chúng con sợ lắm, không dám đâu,” đứa trẻ lớn nhất nói; rồi một
đứa khác tiếp lời, “nhà bếp đã dặn không được vào đó, nếu không nghe
lời sẽ vĩnh viễn không cho ăn nữa.”
Đưa
họ vào bếp xin cơm không xong, mà cho họ tiền thì không có. Thiền sư
bao năm ẩn tích trong thiền phòng, mọi việc trong chùa đều có sư phụ và
các tín chủ lo, nên không có nhu cầu mua sắm vật dụng, chưa bao giờ giữ
tiền trong túi. Thiền sư biết ở trong các xe đậu dưới chân núi,
những
người trong hội đang giữ một số vàng kếch xù, để thực hiện một dự án
rất lớn, nhưng một ít đồng bạc lẻ để chia sẻ cho những người đói khổ
thì không có.
Thiền
sư chẳng biết nói gì, làm gì, cứ đứng sững nơi đó. Đoàn tùy tùng dưới
chân đồi ngóng cổ chờ đợi. Những kẻ đói nghèo ngước mắt trông mong. Mặt
trời lên cao, trồi khỏi mái chùa và nằm ngay sau tâm điểm của hình
tượng pháp luân trên nóc chánh điện, khiến biểu tượng này như tự tỏa
chiếu vầng hào quang sáng ngời. Nắng mai cũng rực rỡ trải ánh vàng trên
khắp ngọn đồi và làng mạc gần xa; lấp lánh trên mặt sông tĩnh lặng, và
soi rọi những nét mặt sầu não của những người hành khất nằm ngồi la liệt hai bên đường.
Con
người dễ khiếp sợ và trở nên nhỏ nhoi, co rúm trước những hình tượng vĩ
đại. Sự hân thưởng cái vĩ đại có khi chỉ là mặt trái của lòng tự ti,
yếu đuối và tùng phục, chưa hẳn là niềm tin hay ngưỡng vọng đối với
điều toàn thiện, toàn mỹ.
Những
kiến trúc hoành tráng cao sang, thường khi không dính nhập gì đến nỗi
thống khổ của con người, mà còn là sự trêu ngươi, dìm đẩy những kẻ khốn
cùng xuống tận đáy vực của niềm tuyệt vọng.
Kẻ
giàu có thường thích làm những gì to lớn, để lại danh thơm, không quan
tâm những điều nhỏ nhặt; trong khi những điều nhỏ nhặt ấy, lại thường
là ước vọng to lớn một đời của những người nghèo thiếu.
Một
kẻ đói khổ thiếu thốn thì chỉ nghĩ đến miếng cơm, manh áo, không dám
vọng cầu những điều xa hoa, cao viễn; trong khi những đền đài tráng lệ
nguy nga thì không thích hợp cho những đôi chân lấm bụi chạm đến.
Cái vô tận thì không có hình tướng; cái có hình tướng thì không thể vô biên.
Cái
vô hạn thì không đếm được bằng năm tháng; còn tính đếm được bằng dấu
mốc thời gian—dù là hàng nghìn năm—vẫn chỉ là những chớp mắt của cơn
đại mộng phù hư.
Mười
năm sau, sư phụ ra thất; ngày ngày ngồi lặng nơi Không Phong Các, dõi
mắt nhìn về dãy núi xa. Mắt đã mờ thêm hay sương mù phủ kín không thấy
dáng người nằm? Đệ tử xuống núi mười năm chưa thấy quay đầu. Chung trà
lạnh hơi chờ người đối ẩm, kể chuyện đội đá vá trời giữa nghìn trùng
gió bụi…
Rồi
một ngày, đang trưa đứng bóng, ve sầu râm ran đầu hạ, hiu hắt gió lùa
cửa không, người đâu từ xa về tới. Sư phụ nhướng mắt, cố nhìn, cố nhớ;
không biết là vui hay buồn.
“Con đó sao, Tuệ Không?”
“Thưa không phải, con là kiến trúc sư Tuệ Minh năm xưa, thầy còn nhớ không?”
“Ồ,
Tuệ Minh, con thí phát xuất gia rồi sao? Thế còn Tuệ Không, đệ tử của
ta đâu rồi? Thế còn kỷ lục Phật Nhập Diệt… đã tiến hành đến đâu, hoàn
tất chưa?”
Tuệ
Minh lạy sư phụ, dâng một tấm bản đồ thật lớn, trải ra chiếm hết mặt
bàn. Bản đồ địa lý của một nước mang hình dáng người nằm; chi chít dọc
theo địa danh các tỉnh, huyện, xã… là tên và địa điểm của những ngôi
chùa, nối nhau từ cực nam đến cực bắc, từ đông qua tây, tạo nên hình
dáng Phật nhập niết-bàn. Tuệ Minh nói, đó là một nghìn ngôi chùa nhỏ
được thầy Tuệ Không xây dựng suốt mười năm qua. Thay vì 80 nghìn lượng
vàng để thực hiện công trình Phật nằm vĩ đại nhất thế giới, một nghìn
ngôi chùa nhỏ đã được dựng lên khắp nước. Từ những vùng quê nghèo khó,
cho đến những thôn ấp, buôn làng hẻo lánh, xa xôi; từ thành thị lên non
cao, từ ven sông ra vùng biển, nơi nào cần chùa, cần tiếng chuông hôm
sớm, đều đã được xây một cảnh chùa nho nhỏ, nhưng ấm cúng, gần gũi với
dân tình địa phương.
Đoàn
tùy tùng 37 người năm ấy theo thiền sư thực hiện công trình, sau mười
năm vừa tu học vừa cất một nghìn ngôi chùa, đều đã thí phát xuất gia,
phân bố đi hoằng pháp khắp nước.
Sư
phụ im lặng, trầm ngâm, nhìn chăm chăm vào tấm bản đồ. Từ bức vẽ vô
tri, từ dáng Phật nằm mơ hồ với những tên chùa chằng chịt đan xen, sư
phụ có thể mường tượng ra những đạo tràng trang nghiêm, tiếp nhận tất
cả mọi người không phân biệt thành phần xã hội, kẻ trí thức hay người
bình dân, kẻ giàu sang hay người nghèo khó… Một nghìn ngôi chùa nhỏ,
trung bình mỗi ngôi chùa phí tổn tám mươi lượng vàng, hẳn không thể nào
là những ngôi danh lam hay thắng cảnh gì đặc biệt; cũng không ngôi chùa
nào trong số đó lập được kỷ lục Phật giáo hay thành tích văn hóa gì của
quốc gia. Nhưng nơi đó, nơi thềm hiên và nền chánh điện, những bàn chân
lấm lem sình lầy bụi đất, đều có thể hồn nhiên, không ngần ngại dẫm lên…
“Vậy bây giờ Tuệ Không ở đâu, sao không về thăm thầy?” sư phụ hỏi.
“Thưa, từ ngày xây ngôi chùa cuối cùng, đặt tên là Vô Tướng, chúng con không thấy thầy Tuệ Không đâu nữa. Bặt vô tung tích.”
Sư
phụ gật gù, nhìn xa xăm. Tuệ Minh đã cáo biệt từ lâu mà sư phụ hầu như
không biết. Nơi Không Phong Các, sư phụ châm trà dưới trăng, uống một
mình. Cạn cữ trà thì trăng đã chếch qua hướng tây, vằng vặc một phương
trời. Dãy núi Người Nằm ngời lên dưới ánh trăng vàng sáng. Sư phụ bỗng
bật cười lên sảng khoái, rồi buột miệng nói:
“Tuyệt vời thay học trò của ta! Kỷ lục vô danh vô tướng của con mới đúng thực là vô tiền khoáng hậu!”
California, ngày 01 tháng 8 năm 2015