Khảo về Tám thức với Tâm lý học hiện đại – Thức thứ tám

khao ve

Chánh Tấn Tuệ

 

Trong phần thức thứ bảy ở số báo trước đã nói sơ về thức thứ tám. Kỳ này nói chính về thức thứ tám.

Thức thứ tám có nhiều công năng, nhiều nghĩa sai khác, nên Duy thức học gọi nó bằng nhiều tên khác nhau. Có khi gọi là tâm, vì thức này là chỗ chứa nhóm chúng tử do các pháp huân tập vào. Thức này cũng là nơi mà các chủng tử phát khởi hiện hành. Có khi gọi là thức A-lại-da, vì thức này là nơi tập hợp các pháp tạp nhiễm, giữ gìn không để mất đi, vì là chỗ để thức thứ bảy chấp làm nội ngã. Gọi là A-đà-na, vì thức này có công năng giữ gìn chủng tử và thân thể chúng sinh không để tan hoại. Có khi gọi là bản thức, vì bảy thức trước phải y cứ vào đây mà khởi hiện hành. Nó là sở y của bảy thức trước v.v…

Để không làm phức tạp vấn đề, bài viết này chỉ lược nêu vài nghĩa của thức thứ tám.

Thức thứ tám có tên là tâm, vì nó là nơi tập hợp và phát khởi chủng tử của các pháp. Chúng ta sẽ tìm hiểu về ý nghĩa tập hợp và phát khởi chủng tử của các pháp.

Nghĩa tập hợp chủng tử

Trong cuộc sống, mỗi ngày chúng ta tiếp xúc với nhiều người, nhiều sự vật và nhiều sự kiện khác nhau. Nói theo ngôn ngữ Duy thức học, mỗi ngày chúng ta tiếp xúc với nhiều pháp khác nhau. Các pháp này được tiền ngũ thứcý thức ghi nhận rồi khởi lên các so đo, suy lường, toan tính, quyết định làm việc này hay việc kia, thâu nhận các khổ lạc, phát sinh sự yêu, ghét… Tất cả các việc trên đều được đưa vào thức thứ tám lưu trữ. Mặc dù tất cả đều được lưu trữ, nhưng chỉ những sự kiện nào huân tập thành chủng tử mới được lưu trữ lâu dài. Các sự kiện khác chỉ được lưu trữ trong một thời gian rồi mất đi.

Thí dụ: Có những người không có gì đặc biệt đối với ta. Ta chỉ gặp họ một đôi lần rồi thôi. Sau đó một thời gian, ta sẽ quên họ. Và nếu có gặp lại cũng không nhận ra. Có những người chúng ta thường gặp, có sự quan tâm, trao đổi nhiều vấn đề với nhau. Sau đó dù không còn gặp lại, thỉnh thoảng hình ảnh của họ vẫn xuất hiện trong ý thức của ta. Trải qua thời gian dài, thậm chí đến khi không còn nhớ nghĩ về họ, nhưng nếu gặp lại, chúng ta vẫn có khả năng nhận biết họ. Ở đây, sự gặp gỡ nhiều lần (tập), sự quan tâm tương tác với nhau chính là điều kiện huân tập để hình ảnh người ấy biến thành chủng tử, lưu trữ lâu dài trong thức thứ tám.  

Nói một cách tổng quát, trong cuộc sống, việc tiếp xúc nhiều lần với một pháp nào chính là điều kiện huân tập để pháp ấy và các sự kiện liên quan đến pháp ấy biến thành chủng tử, lưu trữ lâu dài trong tâm. Trên mặt hành tác cũng vậy, công việc nào được chúng ta thực hiện nhiều lần thì hành vi ấy cũng được đưa vào thức thứ tám, lưu trữ dưới hình thức chủng tử. Tóm lại, thức thứ tám là nơi lưu trữ chủng tử của các pháp được huân tập. Đây là nghĩa tập hợp chủng tử các pháp của tâm.

* Hỏi: Ý thức cũng có khả năng lưu trữ các sự kiện quá khứ, đâu cần viện dẫn một thức thứ tám mơ hồ khó thấy khó hiểu?

- Đáp: Đúng là ý thức cũng có khả năng lưu trữ các sự kiện quá khứ nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Việc để cho pháp huân tập thành chủng tử rồi lưu trữ một cách lâu dài nằm ngoài khả năng của ý thức. Có nhiều lý do để chỉ ra rằng ý thức không có khả năng lưu trữ lâu dài. Ở đây lược nêu ba lý do:

1/ Nếu các sự kiện quá khứ được lưu trữ trong ý thức thì chúng ta phải thường ý thức được chúng. Trong thực tế, có nhiều sự kiện, đã lâu rồi chúng ta không còn nhớ nghĩ về chúng. Hôm nay đột nhiên lại hiện về trong ý thức. Khi không nhớ nghĩ về chúng, chúng ở đâu trong ý thức?

2/ Có những sự kiện do có nhu cầu buộc chúng ta phải nhớ lại, dù rất cố gắng vẫn không sao nhớ được. Sau đó một thời gian, thậm chí khi không còn quan tâm, sự kiện ấy lại xuất hiện trong ý thức. Điều trên chỉ có thể lý giải rằng các sự kiện quá khứ phải được lưu trữ ở một thức khác, do thức này có cơ chế vận hành khác với ý thức, nên ý thức không có được sự chủ động trong vấn đề quên nhớ.

3/ Ý thức hoạt động có gián đoạn. Đó là những lúc ta chết giấc hoặc ngủ say. Nếu có sự lưu trữ thì khi ý thức ngừng hoạt động, các sự kiện được lưu trữ phải mất đi. Trên thực tế, chúng ta từng có lần chết giấc hoặc không ít lần ngủ say, những lúc đó ý thức hoàn toàn vắng mặt. Song khi về già, chúng ta vẫn có khả năng nhớ lại nhiều sự kiện thuộc thời niên thiếu. Điều đó chứng tỏ thức có khả năng lưu trữ lâu dài các sự kiện quá khứ phải hoạt động không ngừng nghỉ. Vậy phải là thức thứ tám không thể là ý thức.

Nghĩa phát khởi hiện hành chủng tử

Thông thường, các chủng tử ở trong trạng thái thùy miên, nghĩa là ngủ ngầm trong tâm. Lúc này, các chủng tử đồng như không. Khi đủ duyên, chủng tử mới sinh khởi làm nhân cho pháp xuất hiện trở lại nơi các thức. Đây là nghĩa phát khởi hiện hành chủng tử các pháp của tâm.

Thí dụ: Nhiều người khi về già, nhớ lại các sự kiện đã diễn ra vào lúc còn niên thiếu. Các sự kiện này đã không được nhớ nghĩ đến trong nhiều năm tháng, hôm nay đột nhiên tràn về. Rõ ràng trong bao năm tháng qua, các sự kiện này ngủ ngầm trong tâm, nhưng không mất đi, để nay có thể tái hiện trong ý thức. Hoặc trong cuộc sống, có nhiều sự kiện thuộc quá khứ, đã từ lâu chúng ta không hề nhớ nghĩ về chúng. Đột nhiên một ngày đẹp trời lại xuất hiện trong ý thức. Quá khứ vẫn ngủ yên trong tâm, chờ khi đủ duyên lại hiện hành nơi ý thức.      

Nghĩa huân tập

Như đã nói ở trên, chỉ những pháp nào có sự huân tập mới thành chủng tử. Vậy là huân tập gì? Huân là xông ướp. Như tấm vải sạch vốn không mùi, nếu ướp hương hoa lâu ngày, nó sẽ có mùi hương hoa. Tập là lặp đi lặp lại. Sự lặp đi lặp lại nhiều lần của nhận thức, tư tưởng, tình cảm, hành vi… của một người có tác động huân tập thành chủng tử trong thức thứ tám của người ấy. Sự lặp đi lặp lại, nếu đi kèm với các trạng thái tâm lý thích hợp như sự ưa thích, sự tập trung v.v… sẽ mau thành chủng tử.

Học bài là một sự huân tập. Khi học bài, chúng ta phải đọc tới đọc lui bài học nhiều lần. Nếu ngồi học với tinh thần tự giác, có sự ham muốn tìm hiểu, có sự tập trung v.v… chúng ta sẽ mau thuộc bài. Nếu ngồi học với tinh thần chán ngán, vì bị ép buộc, học với thái độ lơ đểnh… chúng ta sẽ lâu thuộc bài. Ở trường hợp đầu, sau khi thuộc bài sẽ nhớ lâu và dễ dàng hơn khi cần nhớ lại. Ở trường hợp sau, dù đã thuộc bài nhưng dễ quên, vì trường hợp này chưa có được sự huân tập tốt. Tương tự, nếu chúng ta làm một công việc gì với sự ưa thích, sự tập trung, chúng ta sẽ mau thành thục công việc ấy. Trong trường hợp ngược lại, dù đã làm lâu, cũng khó làm giỏi công việc ấy.

Mối quan hệ giữa pháp được huân tập và pháp hiện hành

Sự huân tập của pháp làm xuất hiện chủng tử trong tâm. Ở đây pháp được huân tập là nhân, chủng tử là quả. Do có sự phát khởi của chủng tử mà pháp hiện hành nơi các thức. Ở đây chủng tử là nhân, pháp hiện hành là quả. Do nhân và quả luôn đồng loại hoặc đồng tính, nên pháp được huân tập và pháp hiện hành luôn đồng loại hoặc đồng tính. Nói một cách dễ hiểu, chúng ta huân vào tâm thứ gì về sau nó sẽ phát ra lại thứ đó.

Thí dụ: Nếu thường học toán, chúng ta sẽ có kiến thức về toán. Hiểu được toán học, giải được các bài toán. Các môn học khác cũng vậy. Nếu ngày nào cũng tập ngồi thiền, về sau ta sẽ thành người giỏi tọa thiền. Nếu hay hút thuốc, sẽ trở thành người ghiền thuốc. Nếu thường xuyên uống rượu sẽ trở thành bợm nhậu.

Nếu hay nhìn về người về vật với tâm vị tha, chúng ta sẽ trở thành người sống vì người khác. Nếu thường nhìn về người về vật với tâm vị kỷ, chúng ta sẽ trở thành người chỉ biết vì mình.

Nếu thường để tâm sân làm chủ, ta sẽ trở thành người hay sân. Nếu thường để tâm kiêu mạn làm chủ, ta trở thành người kiêu mạn.

Nếu hay nói nhiều, ta sẽ trở thành người nhiều chuyện…

Sự huân tập chủ động và huân tập bị động

Sự huân tập do ta quyết định thực hiện để đạt một mục tiêu nào đó, gọi là huân tập chủ động.

Thí dụ: Ta quyết định học đàn để trở thành người đàn giỏi, quyết định học toán để trở thành nhà toán học.

Trong cuộc sống, có nhiều sự kiện thường diễn ra trước mắt chúng ta, dù không có chủ định, tâm chúng ta vẫn chịu sự huân tập của các sự kiện đó. Đây là sự huân tập bị động.

Thí dụ: Bước ra đường là bảng quảng cáo thuốc đau đầu của công ty A đập vào mắt ta. Việc này diễn ra mỗi ngày. Lâu dần huân thành chủng tử. Thông thường chủng tử này ngủ yên trong tâm. Đến khi đủ duyên, như khi đau đầu, nó sẽ sinh khởi khiến chúng ta nhớ lại loại thuốc của công ty A. Kèm với cảm tưởng rằng, sản phẩm ấy là tốt nhất, là phù hợp với ta hơn cả. Điều này đóng vai trò rất lớn trong việc quyết định chọn mua loại thuốc để trị bệnh. Ở đây các nhà quảng cáo đã vận dụng tính dễ bị huân tập của tâm để hướng chúng ta đến với các sản phẩm của họ.

Trên thực tế, có sự huân tập chủ động, có sự huân tập bị động, có sự huân tập vừa chủ động vừa bị động, có sự huân tập tự nguyện hay huân tập do bị ép buộc. Điều đó đóng vai trò rất lớn trong việc hình thành tính cách tâm lý của con người.

Tính cá nhân của sự huân tập

 Sự huân tập chỉ có tác dụng đối với chủ thể được huân tập, không có tác dụng với người khác.

Thí dụ: Anh A tập hút thuốc, về sau trở thành người ghiền thuốc. Anh B không tập hút thuốc thì không thành người ghiền thuốc. Cũng là bợm rượu như nhau, nhưng nếu A tập không uống rượu nữa (cai rượu) lâu dần A hết ghiền rượu. Nếu B không tập cai rượu và vẫn có đủ điều kiện để uống tiếp thì B không hết ghiền rượu.

Không chỉ với sự huân tập chủ động, sự huân tập bị động cũng mang tính cá nhân. Vì kết quả của sự huân tập không chỉ phụ thuộc vào số lần lặp đi lặp lại của pháp mà còn phụ thuộc vào trạng thái tâm lý của mỗi cá nhân khi có tập.

Sự huân tập bị động giải thích tại sao ở những vùng miền có những phong tục tập quán đặc thù, tâm lý những người ở đó có những điểm giống nhau (đồng nghiệp). Mặc dù vậy, do tính cá nhân của sự huân tập, nếu nhìn kỹ sẽ thấy tính cách tâm lý của mỗi người vẫn có những điểm riêng khác với người khác (biệt nghiệp). Do số lượng chủng tử trong thức thứ tám của mỗi người là rất lớn, nên trong thực tế, không thể tìm thấy hai người có tính cách tâm lý hoàn toàn giống nhau.

Huân sanh huân trưởng

Việc huân tập để tạo ra chủng tử mới gọi là huân sanh. Việc huân tập để chủng tử sẵn có phát khởi hiện hành, gọi là huân trưởng. Vì thế, đối với các thiện nghiệp, luôn cần có sự huân tập để làm phát sinh chủng tử mới cũng như để giúp cho chủng tử sẵn có phát triển lớn mạnh.

Thí dụ: Để nhớ lại một điều nào đó, chúng ta cần tập trung nghĩ về điều ấy. Việc nghĩ tới nghĩ lui về điều muốn nhớ là cách để chủng tử thuộc điều ấy phát khởi hiện hành. Với chủng tử đang ở giai đoạn huân sanh sẽ khó phát khởi hiện hành hơn chủng tử sẵn có. Vì chủng tử đang ở giai đoạn huân sanh chưa đủ mạnh như chủng tử sẵn có.    

Thí dụ: Trước đây ta đã học Anh văn và có một trình độ nhất định. Do không có nhu cầu sử dụng nên không học tiếp. Trải qua thời gian dài, vốn liếng Anh văn dường như quên hết. Song do có nhu cầu trong hiện tại, ta học lại Anh văn. Việc học bây giờ dễ dàng hơn nhiều so với lần học trước. Vì lúc này chủng tử Anh văn đã sẵn có trong tâm. Chỉ cần huân trưởng là nó phát khởi hiện hành cho ta sử dụng.

Chủng tử mạnh, chủng tử yếu 

Chủng tử gọi là yếu vì nó khó phát khởi hiện hành. Đây là chủng tử chưa có được sự huân tập đủ và thường xuyên.

Chủng tử gọi là mạnh vì nó dễ phát khởi hiện hành. Đây là chủng tử có sự huân tập thường xuyên trong thời gian dài. Chủng tử mạnh nếu để lâu không có sự huân tập tiếp sẽ trở nên yếu và khó phát khởi hiện hành. Cần có nhiều thời gian huân trưởng để nó phát khởi.

Thí dụ: Trước đây ta đã từng chơi đàn giỏi, do bỏ lâu nên hiện tại việc đánh đàn gặp nhiều khó khăn. Trước đây ta đã vận dụng Anh văn một cách thành thạo. Do không sử dụng đã lâu, cũng không huân tập, nên hiện tại ta gặp khó khăn khi sử dụng Anh văn trong việc giao tiếp hay dịch thuật.

Quay trở lại vấn đế quên và nhớ của ý thức. Ý thức chỉ có sự chủ động trong vấn đề huân trưởng, nghĩa là chủ động quyết định nhớ lại một sự kiện nào đó và thực hiện việc nghĩ về sự kiện ấy để tạo ra sự huân trưởng cho chủng tử. Việc có nhớ được hay không, dễ nhớ hay khó nhớ còn phụ thuộc vào tình trạng mạnh yếu của chủng tử. Điều này giải thích tại sao ý thức không hoàn toàn có được sự chủ động trong vấn đề quên nhớ.

Chủng tử sẵn có, chủng tử mới sinh

Chủng tử sẵn có là chủng tử có sẵn khi sinh ra.

Chủng tử mới sinh là chủng tử mới được tập thành trong đời này.

Bất kỳ một người nào cũng được sinh ra với thức thứ tám chứa nhiều chủng tử sẵn có, nhờ những chủng tử này mà một đứa bé lúc mới sanh đã biết khóc, biết đói, biết tìm sự che chở ở người mẹ.

Do có sự sai khác về chủng loại của chủng tử, sự sai khác giữa chủng tử mạnh và chủng tử yếu, nên vô thức lúc mới sinh đã mang tính cá nhân cá biệt. Chính điều này đã làm cho những đứa trẻ dù được nuôi dạy trong môi trường giống nhau, chịu sự huân tập như nhau vẫn phát triển thành những tính cách tâm lý khác nhau.

Sự sai khác về chủng tử sẵn có sẽ giải thích tại sao con người lại có nhiều khuynh hướng khác nhau, như người hướng nội, người hướng ngoại, người có năng khiếu về toán, người có năng khiếu về văn, người thích làm giáo viên, người thích buôn bán, người dễ dạy, người khó dạy, người có khuynh hướng chạy theo đời sống dục lạc, người có khuynh hướng tu hành xa lìa các dục... Chủng tử sẵn có cũng giải thích vì sao có các hiện tượng đặc biệt như thần đồng.

Chủng tử sẵn có với Phân tâm học

Ai cũng sinh ra với thức thứ tám chứa nhiều chủng tử sẵn có. Những chủng tử này tiềm chứa nhiều sai biệt giữa người này với người khác. Lúc mới sinh ra, đứa bé chưa chịu nhiều sự huân tập đến từ bên ngoài, nhu cầu còn đơn giản, chỉ là nhu cầu sinh tồn tối thiểu như ăn, ngủ, bài tiết… nên chỉ có một ít chủng tử sẵn có phát khởi hiện hành. Ở giai đoạn này sự sai khác tâm lý của đứa bé này với đưa bé kia chưa nhiều. Càng lớn lên, con người càng chịu nhiều sự huân tập đến từ bên ngoài. Sự phát triển của thân xác và sự phát triển của ý thức phân biệt làm phát sinh nhiều nhu cầu mới như nhu cần thương yêu, che chở, nhu cầu thích ứng với môi trường và những người chung quanh, nhu cầu được hưởng các thú vui vật chất và tinh thần, nhu cầu học hỏi tìm hiểu, nhu cầu phô trương bản ngã v.v... Những điều vừa nói là điều kiện (duyên) để nhiều chủng tử sẵn có phát khởi hiện hành, dẫn đến sự sai khác về mặt tâm lý và hành vi giữa người này và người kia ngày càng nhiều, càng rõ nét. Hiện nay, dù số lượng con người trên thế giới rất lớn, hơn 7 tỷ người, nhưng chúng ta vẫn không thể tìm thấy hai người hoàn toàn giống nhau về mặt tâm lý.  

Nhìn lại Phân tâm học, khi mới xuất hiện ở đầu thế kỷ XX, Phân tâm học Freud đã tạo ra một chấn động lớn. Nhiều người cho rằng đây là một cuộc cách mạng trong Tâm lý học. Tuy vậy, trải qua hơn một thế kỷ phát triển, Phân tâm học vẫn chưa có những khám phá mới đáng kể. Nhược điểm chủ yếu của Phân tâm học là các nhà Phân tâm học chỉ mới thấy được một vô thức lúc mới sinh mang tính đại đồng. Những mô hình vô thức này còn quá đơn giản, nên không thể thích ứng với sự đa dạng, phức tạp, tinh vi của các hiện tượng tâm lý con người. Chính điều này đã làm cho Phân tâm học chưa có được vị trí tương xứng trong Tâm lý học hiện đại.       

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle