Kham nhẫn
kham nhan
Kham Nhẫn
Mirka Knaster - Thích Ca Thiền Viện dịch
LTS: Mirka Knaster sinh ở châu Âu và được giáo dục
tại Hoa Kỳ. Bà có bằng tiến sĩ về nghiên cứu so sánh và châu Á. Mirka từng đến
nhiều nơi khác nhau trên thế giới để nghiên cứu về những truyền thống dân tộc
khác nhau. Bà có một cái nhìn liên văn hóa trong những nghiên cứu của mình về
phụ nữ, cơ thể con người, việc chữa bệnh và thực hành tâm linh. Bà đã viết nhiều
bài báo và sách, và một số đã được chuyển dịch sang tiếng Bồ Đào Nha, Trung Quốc,
Đan Mạch, và tiếng Nga. Bài viết dưới đây được trích từ cuốn sách Sống viên
mãn kiếp này: Những câu chuyện và lời dạy của Munindra (Living This Life Fully: Stories and Teachings of Munindra), một cuốn sách nói về một vị thiền sư người Ấn
được xem là cha đẻ của phong trào thiền Vipassana ở phương Tây và là người đã
giảng dạy cho nhiều vị thầy xuất chúng ở đó. Nguyệt san Giác Ngộ xin giới thiệu
bài viết này đến quý độc giả qua bản dịch của Thích Ca Thiền Viện. NSGN
Mùa xuân năm 1972, khi
Robert Pryor đến viếng Bodh Gaya lần đầu tiên, thời tiết nóng bức và công viên
quanh Cội Bồ-đề khô cằn, vắng vẻ. Robert nhìn quanh
tìm một chiếc lá bồ-đề, nghĩ rằng đó sẽ là vật lưu niệm khung cảnh
thiêng liêng nơi Đức Phật giác ngộ. Chẳng thấy có chiếc lá nào
trên mặt đất, Robert ngần ngừ rồi với tay hái một chiếc ở cành thấp nhất. Bật
chợt, một người đàn ông dáng nhỏ nhắn mặc y trắng xuất hiện và khẩn trương yêu
cầu: “Hãy chờ, chờ cho đến khi lá rụng xuống!”
Robert tâm sự: “Dĩ nhiên tôi hiểu ngay tức khắc lời khuyên đầy ý nghĩa đó và nhận
ra rằng lòng mong muốn có chiếc lá bồ-đề đã dẫn tôi đến một hành động không hợp
lẽ. Đó là lần đầu tiên tôi gặp Thầy Munindra, và cũng
là một điển hình về phương pháp dạy đạo của Thầy. Thầy không chỉ bảo
vệ Cội Bồ-đề mà cùng lúc còn dạy tôi sự thiết yếu của cách tu tập và cách sống
nhẫn nại, tùy duyên thuận đạo.”
Ngài Munindra dạy về hạnh kham nhẫn không chỉ qua những lời khuyên giải cá nhân
mà còn qua thân giáo và pháp thoại của Ngài. Jacqueline Schwartz Mandell kể,
“Tôi còn nhớ các môn sinh hay hỏi Thầy không biết họ hành thiền có tiến bộ
gì không, và Thầy dẫn giảng rằng phước báu của việc luyện tâm vượt hẳn những
hài lòng, toại ý nhất thời. Dĩ nhiên, Thầy vẫn dạy về đạo quả giải thoát, nhưng
Thầy đồng thời đề cập đến sự bao la, vô lượng của giáo pháp. Thầy có tầm
nhìn xa rộng về đạo cũng như đời, và Thầy tất nhiên là hiện thân của nhãn
quan ấy.”
Joseph Goldstein nói thêm, “Thầy thường dạy rằng, trên đường tu tập tâm linh, thời
gian không phải là một yếu tố. Hành thiền không thể đo lường bằng thời
gian nên phải biết buông xả toàn thể ý niệm về lúc nào và bao lâu. Tu tập
là một tiến trình của chuyển hóa, và nó sẽ tự hiển bày đúng lúc của nó.”
Những mặt khác nhau của
hạnh kham nhẫn
Cũng vậy, hạnh kham nhẫn được hiển bày qua nhiều cách khác nhau. Ngài
Munindra là hiện thân của hạnh kham nhẫn qua nhiều ý nghĩa khác nhau: chịu đựng đau
khổ do người khác gây ra, nhẫn nại trước sự phỉ báng hoặc điều bất toại, tha thứ
cho ai gây tổn hại cho mình, khoan dung hoặc không chống trả, bền chí làm việc
lợi ích cho người, biết chấp nhận, tâm vững chãi, không mong cầu sự đền đáp,
không tranh giành danh vọng, tiền tài…
Trong đời thường, ngài Munindra biểu lộ hạnh kiên nhẫn qua các hành động đơn giản
như ngồi chờ xe lửa (ở Ấn Độ thời gian chờ xe lửa có thể hàng nhiều giờ, có khi
cả ngày), hoặc băng qua đường. Bob Ray kể lại một kinh nghiệm ở Calcutta:
“Chúng tôi đi đến một trong những con đường rất rộng – vô cùng hỗn loạn, xe
buýt và thú vật chen nhau, không đèn giao thông – và tôi nghĩ thầm, ‘Làm sao
băng qua con đường này? Chắc phải đứng mãi ở đây rồi!’ Thầy chỉ đứng đó, chẳng
tỏ vẻ bị cảnh tượng này phiền hà gì cả. Thình lình, một khoảng trống mở
ra, và chúng tôi nhanh nhẹn len qua đường. Còn Thầy vẫn điềm nhiên, thật kiên
nhẫn, thật im lặng, thong thả bước qua đường!”
Dwarko Sundrani, hội trưởng trụ sở Gandhi Ashram ở Bodh Gaya, gặp ngài Munindra
lần đầu tiên năm 1954. Ông mô tả Thầy là “một người rất hòa nhã và trong sạch,” và
còn nhớ rõ những lần đàm đạo với nhau qua nhiều năm, nhất là bàn luận những điểm
khác nhau về niềm tin giữa hai bên, như Đức Phật là ai, giáo pháp là gì, thiền Vipassanā
phát xuất từ đâu, v.v… Dwarko nói: “Tôi nghĩ những
quan điểm Ấn giáo của tôi không thuyết phục được ngài. Ngài trình bày
nhận thức của mình, chúng tôi trình bày nhận thức của chúng tôi. Nhưng với
bản chất ôn hòa, không tranh cãi hay nóng giận, ngài chỉ nói, ‘Vâng, vâng, được
rồi, được rồi.’ Vì khuôn viên này có tên là Samanvaya (sự hòa hợp) nên
chúng tôi không muốn áp đặt điều gì ở đây. Lấy thí dụ về hoa hồng. Đây là
một loại hoa đẹp, nhưng khi kết tràng hoa thì ta dùng nhiều loại hoa khác nhau. Không
phải vì hoa hồng kém đẹp hơn, nhưng vì thứ hoa nào cũng hoàn mỹ. Cũng thế,
nếu con người có nhiều tôn giáo, nhiều tư tưởng, nhiều triết lý khác nhau,
chúng ta vẫn có thể sống hài hòa với nhau.”
Dwarko nói thêm: “Bản tính hòa hợp này được nhìn thấy ở ngài Munindra. Có
thể ngài sẽ không tin lời bạn, nhưng ngài không áp chế, không mâu thuẫn với bạn.
Trong vùng này có nhiều Phật tử. Họ sẽ không nghe theo chúng tôi và thường
nói, ‘Chúng tôi đúng.’ Còn với ngài, có thể ngài không đồng ý, song sẽ
không khi nào ngài nói ngài đúng. Ngài chỉ giữ im lặng.”
Zara Novikoff, trong lần gặp gỡ ngài Munindra lần đầu tiên ở Bodh Gaya năm 1968,
cũng nhận xét: “Thầy không bao giờ nóng giận, không bao giờ khăng
khăng chứng minh quan điểm của mình, mà rất tử tế, hòa nhã và hóm hỉnh.” Theo
Uffe Damborg, khi thấy thiền sinh bắt đầu tranh cãi về vấn đề gì Thầy đưa ra,
Thầy chỉ nói “Được rồi, đúng rồi! Các bạn đều có cách riêng của mình. Hãy
cứ làm theo cách của mình.”
Jacqueline Schwartz Mandell thấy “Thầy
vô cùng kiên nhẫn lắng nghe để tìm hiểu chúng tôi học hỏi ra sao. Thầy cũng rất
cởi mở khi trao đổi những quan điểm khác nhau về giáo pháp. Thầy làm gương cho
tôi thấy rằng, nếu tôi hiểu khác về một quan điểm đạo pháp nào đó, tôi có thể
trình bày ý kiến của mình mà không chấp chặt vào nó.”
Không oán ghét
Ngài Munindra vẫn kiên trì và thầm lặng tiếp tục công việc mình làm, ngay cả
khi bị người khác oán giận. Theo lời Dwarko Sundrani, trong những năm đầu
tiên ở Bodh Gaya, đủ thứ vấn đề liên quan đến chùa Đại Bồ-đề đã xảy ra và, với
chức vụ tổng quản trị, ngài có trách nhiệm phải giải quyết. Một trong các
tranh chấp có liên quan đến nghi lễ, tập tục.
Ở cuối khuôn viên, về phía Bắc, bên ngoài chùa có một bệ đường dài, cao khoảng
một thước, gọi là Con Đường Châu Báu. Vào thời đó, khách hành hương Tây Tạng
thường đặt trên đường các bát nhỏ đựng đầy dầu thảo mộc có một tim đèn bằng vải
xoắn. Những bát đèn dầu này không những làm dơ bẩn con đường vì dầu hay bị
sánh đổ ra ngoài, không tẩy rửa được, mà còn gây ô nhiễm vì tỏa khói khắp nơi
và để lại những vết than. Khách viếng thăm còn đặt các đèn đốt bằng dầu hay bằng
bơ ngay dưới Cội Bồ-đề khiến khói và hơi nóng gây hại cho cây.
Khi ngài Munindra yêu cầu khách thập
phương nên cử hành nghi lễ này ở một khoảng xa hơn, ngài chợt nhận ra mình là mục
tiêu đối kháng của họ. Mới đến nơi và chưa hiểu rõ tập quán địa phương, nhiều
người tỏ ra thô lỗ, xô đẩy, lấn áp ngài và lên tiếng phản đối, “Điều đó cản trở
nghi thức tôn giáo của chúng tôi. Thật là sai trái!”
Ngài chỉ nhẫn nhịn chịu đựng thái độ thù nghịch đó, “Tôi làm gì bây giờ?
Họ không sao hiểu được.” Những năm sau, ngài vẫn nói, “Tôi không giận
ghét gì họ. Rất khó nhanh chóng thay đổi những tập tục lâu đời, cần phải
chờ thời gian.” Để giải quyết vấn đề này, cả hai bên Phật tử Tây Tạng và
ban quản trị Hội Đại Bồ-đề đồng ý cho xây cất các kiến trúc đặc biệt để khói và
hơi nóng các bát đèn cúng dường không ảnh hưởng đến chùa hay Cội Bồ-đề.
Mọi hành vi cử chỉ của ngài đều biểu lộ rõ ràng một tâm hiền hòa, không hiềm hận. Zara
Novikoff thuật lại, sau buổi dạy, ngài thường đi hái một trái đu đủ đến dâng
cúng cho ngôi chùa Tây Tạng, “Tôi thấy việc làm của thầy thật đẹp vì lắm khi, mặc
dù cùng truyền thống tôn giáo, nhưng người ta không thông cảm, hòa đồng với
nhau. Còn thầy thì không như vậy. Thầy mang tặng phẩm lại cho họ, rồi cùng
đàm luận với nhau.” Đức nhẫn nại của ngài trải đều đến môn đệ, gia đình, bằng hữu. Zara
kể thêm, “Thầy là một người bạn rất trung thành và độ lượng. Tôi cũng có
nhiều khuyết điểm, đôi khi nói lời không được cung kính lễ phép lắm, nhưng Thầy
chỉ cười rồi bỏ qua. Thầy rõ ràng luôn ghi khắc lời dạy của Đức Bổn Sư trong
tâm, ‘Thế nào là không kham nhẫn? Nếu bị nhiếc mắng, người ấy nhiếc mắng lại;
nếu bị sỉ nhục, người ấy sỉ nhục lại; nếu bị hiếp đáp, người ấy hiếp đáp lại.
Còn thế nào là kham nhẫn? Nếu bị nhiếc mắng, người ấy không nhiếc mắng lại;
nếu bị sỉ nhục, người ấy không sỉ nhục lại; nếu bị hiếp đáp, người ấy không hiếp
đáp lại.’” (Tăng chi bộ kinh 4.165)
Mặc dù có người phỉ báng, bất kính, chống đối việc làm của ngài, thậm chí phao
tin đồn tiếng xấu, nhưng ngài không nổi giận hay trả đũa. Ngài đáp ứng lại
bằng tấm lòng từ mẫn. Đôi khi ngài tỏ vẻ lo lắng hay nản lòng, nhưng không phải
là sân hận. Chẳng ai nghe ngài nói xấu ai bao giờ. Ngài có thể rầy la,
nhưng không kèm theo giận dữ. Người cháu Tridib Barua chứng nhận điều đó,
“Lúc tôi lên mười tuổi, chú Munindra của tôi la rầy tôi việc gì đó.
Nhưng ngày hôm sau là một chú Munindra mới mẻ, tươi vui. Người chú hôm qua hoàn
toàn vắng bóng. Có lẽ vì thế mà chú hay nói, ‘Hãy sống trong từng giây phút của
hiện tại. Những gì của hôm qua đã qua rồi, sao phải phiền lo về nó? Hôm
nay là hôm nay, là hiện tại, không là hôm qua đã qua, cũng không là ngày mai
chưa đến.’ Thật là một Pháp bảo – đừng ôm giữ, chấp chặt mãi những cảm xúc hay
kinh nghiệm không thiện lành.”
Ngài luôn khuyến khích việc tu tập vì nó sẽ mang lại nhiều quả báu. Dhriti,
vợ của Tridib, kể rằng trước khi cô sanh cháu bé thì việc ngồi thiền
không có gì trở ngại. Nhưng sau đó cô thấy thật khó khăn khi phải dậy lúc
bốn giờ rưỡi sáng để hành thiền chung với gia đình. Ngài Munindra không
bao giờ chê trách cô, “Tôi nghĩ ngài hiểu và thông cảm.
Ngài thường dạy chúng tôi, ‘Pháp nào được học hỏi, nếu thích thì phải thực
hành, đừng bỏ trôi đi. Ta sẽ cần nó lúc này hay lúc khác. Hành thiền
là cách giữ tâm luôn được kiểm soát. Là người, chúng ta dễ nóng giận rất
nhanh. Ta cần kiên nhẫn. Nếu thường sân hận thì mối liên hệ giữa ta
và mọi người sẽ không tốt đẹp, vì vậy hãy tập kiểm soát tâm. Nếu ta tu tập,
kiên nhẫn sẽ đến.’”
Dhriti nói tiếp, “Thầy thường vỗ tay và nói, ‘Cái gì đang xảy ra đây? Những
gì bạn cảm nhận đang xảy ra ngay bây giờ, nhưng rồi không bao lâu sẽ qua đi. Bởi
vậy bạn phải huân tập đức tính kiên nhẫn. Trong cuộc sống, bạn chắc hẳn cần phải
giải quyết rất nhiều chuyện không hài lòng đẹp ý, cho nên đức tính này sẽ giúp
bạn.’”
Không nóng giận
Trong nhiều năm biết ngài Munindra, Vivian Darst luôn thấy ngài sống không nóng
giận. Cô hay theo dõi ngài trong thời gian năm tháng cùng đi du hành với
Ngài, “Tôi không hề thấy Thầy nổi nóng, bực mình hay cáu kỉnh. Thỉnh thoảng
Thầy có hơi sốt ruột với tôi đôi chút, chẳng hạn như phải đi đâu đúng giờ
mà tôi cứ kề cà đủng đỉnh mất nhiều thời gian. Thầy có thể thúc giục tôi, nhưng
không khi nào giận tôi. Thường khi ở gần ai lâu, ta dễ nhận ra bản tính
nóng nảy của họ thỉnh thoảng bất chợt lộ ra. Nhưng hầu như không thấy bản
tính này ở Thầy. Tôi nghĩ chắc nó đã được thanh lọc, tẩy sạch khá nhiều
trong tâm Ngài.”
Có lẽ ngài Munindra cảm thấy bối rối thay vì phản ứng bằng tâm sân hận. Christina
Feldman bật cười khi kể lại một sự kiện ở Bodh Gaya đầu thập niên bảy mươi. Các
môn sinh cùng lớp phàn nàn vì Thầy hay vắng mặt trong khóa học
đó. Cô nói, “Thầy hết sức lúng túng trước những lời than phiền đó –
có lẽ điều này ít khi xảy ra – và trả lời như sau, ‘Các bạn có sự hành thiền
để tự tu tập, sao còn phải cần đến tôi?’ Những lời trách cứ không làm Thầy
cảm thấy bị xúc phạm hay phải chống chế, mà chỉ làm Thầy bối rối thôi.”
Nhiều lúc khác, ngài có thể bật cười khi thấy ai bùng cơn giận dữ. Daw Than Myint
kể lại câu chuyện về một ông lão hàng xóm ở Rangoon sống độc thân
không họ hàng thân thích. Ông ta hay nóng giận và có tật uống rượu, “Ông chẳng
ưa mến và giao thiệp với ai cả, tính khí bất thường. Ông thường đến rạp chiếu
bóng và ngồi xem liên tiếp hai, ba phim. Mẹ tôi và tôi khuyên ông thử đi tập
thiền, vì vậy ông đến học với Thầy Munindra tại trung tâm thiền
Māhasī Sāsana Yeiktha. Chúng tôi hỗ trợ ông đủ mọi thứ ông cần, và ông đã
hành thiền một thời gian.”
Cô kể tiếp, “Rồi, một ngày nọ, ông ta
ôm vật dụng trở về, mắt đỏ ngầu, hết sức giận dữ, hét to từ ngoài đường đến tai
mẹ tôi, ‘Này bà chị, tôi đã về đây và sẽ không bao giờ trở lại nơi đó nữa. Thật
là quá quắt cái chỗ mà bà chị đem tôi tới đó!’ Nhưng sáng sớm hôm sau, ông đến
nhà tôi với cái bao đồ trên lưng, hỏi mẹ tôi: ‘Chị ơi, làm ơn đi với tôi đến
trường thiền.’ Rồi ông ta giải thích chuyện gì đã xảy ra: ‘Cái thiền này làm
cho tôi muốn khùng nên tôi bỏ đi uống rượu. Nhưng khi tôi nhìn vào ly rượu,
tôi không thể uống được. Vì thế tôi bỏ đi xem xi-nê. Nhưng trên màn ảnh
tôi chỉ thấy những bộ xương đang nhảy múa và không thể tiếp tục xem được nữa.
Sáng sớm, tôi đến trường thiền và hét vào Thầy Munindra, ‘Cái thiền của ông thật
vô tích sự, tôi đã lầm to khi đến đây!’ Và tôi bỏ đi, còn Thầy chỉ cười, không
nói gì.”
Daw thuật lại: “Khi ông ta trở lại, Thầy mỉm cười và yên lặng tiếp đón ông. Người
đàn ông này tiếp tục hành thiền và viên mãn tu tập (chứng
ngộ giáo pháp), và sau đó trở thành vị Tỳ-kheo trọn đời!”
Lắng nghe trọn vẹn.
Ngài Munindra không hề phiền hà vì tính khí thất thường ở các môn sinh, hoặc những
vấn đề và câu hỏi bất tận từ họ.
Trong ký ức Alan Clements, Thầy như có phẩm hạnh kham nhẫn của một bậc thánh. “Điều
quý nhất Thầy ban cho mọi người chính là sự hiện diện của Thầy, một hiện
diện phi thường. Thầy không khi nào tỏ ra mất kiên nhẫn. Rất nhiều người,
kể cả tôi, hỏi Thầy những câu ngớ ngẩn, lẩm cẩm, nhưng Thầy không thấy ai ngốc
nghếch. Là một học giả với kiến thức uyên bác, Thầy có một đức tính nhẫn nại
đáng phục, Thầy sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi đã được hỏi qua rồi một cách trân
trọng giống như nhau!” Trong giờ vấn đạo, ngài Munindra có phương cách đặc biệt
để giải quyết vấn đề thiếu nhẫn nại của các thiền sinh trong khi hành thiền. Michael
Liebenson Grady thấy “trái tim Thầy thật mềm mại, nhu nhuyễn, dịu dàng” với tất
cả các loại thiền sinh.
Michael nói: “Thầy không e ngại bày tỏ tình cảm thân thiện đối với ai đang
đau khổ chung quanh Thầy, nhất là các môn sinh gặp rắc rối, khó khăn, và
Thầy đặc biệt kiên trì, nhẫn nại với những thiền sinh được xem là ‘khó tính’. Tôi
thường nghĩ rằng Thầy có năng lực chữa lành cho họ bởi vì Thầy chịu lắng nghe
và cho họ những lời khuyên thỏa đáng để noi theo.”
Mặc dù Ngài Munindra không nhất thiết phải nhận ra hay hiểu được
những trạng thái thần kinh bất ổn hay rối loạn mà khoa tâm lý học Tây phương biết
đến, nhưng ngài sẵn sàng và kiên tâm lắng nghe khi có ai cần giải bày hay chia
sẻ.
Vivian Darst công nhận “Thầy rất, rất nhẫn nại với tất cả học trò, với những
người hay đến viếng hằng ngày mà cứ lập đi lập lại chừng đó câu hỏi, cả với
những ai không hiểu biết gì về Phật pháp.” Cô kể, “Một lần nọ, Thầy đến
thăm tôi ở Evergreen State College. Tôi có một người bạn cùng phòng chưa
bao giờ tu tập thiền. Gặp Thầy, bỗng dưng cô thổ lộ tâm tình, khóc và kể
nhiều điều sâu kín trong tâm làm cô phiền muộn bấy lâu nay mà tôi chẳng hề hay
biết. Trực giác cho cô cảm nhận Thầy là một người cô có thể giải bày tâm sự. Thầy
cho cô vài lời khuyên đạo vị về cách giải quyết tâm tiêu cực và phiền não hoặc
bất cứ ẩn uất nào cô đang chấp chặt, cách thấy được nó và buông bỏ nó, cách sống
với nó y như nó là, không phê phán hay phản ứng, chỉ cần quán sát kỹ lưỡng và
trọn vẹn.”
Carla Mancari thú nhận, “Tôi không bao giờ nhẫn nại. Nhưng
khi tôi nhìn Thầy dịu dàng nhỏ nhẹ với tất cả mọi người, mà trong đó có vài người
tôi có thể lấy cây nện vào đầu được, lúc đó tôi đã học được rất nhiều về hạnh
kham nhẫn.”
Lạt Ma Surya Das đã tóm tắt, “Ngài thật bao dung, sâu sắc, cởi mở, hiền hòa và
nhẫn nại… rất rộng lượng và kiên trì với thời gian cũng như với kiến thức của ngài.”
Thiếu kiên nhẫn với thầy
Thỉnh
thoảng có vài môn sinh tỏ vẻ thiếu kiên nhẫn với Ngài. Mặt trái của khả năng
kiên trì, lắng nghe người khác là khả năng giảng nói không ngừng nghỉ của
ngài. Giờ đây, họ bật cười khi nhắc lại những buổi giảng pháp dài vô tận ấy. Vivian
Darst nhớ, “Mặc dù là người biết lắng nghe, Thầy cũng có thể nói trong một thời
gian rất dài. Chỉ cần hỏi một câu, Thầy sẽ thuyết về Vi diệu pháp trong ba tiếng đồng hồ!”
Steven J. Schwartz thêm, “Thầy hoàn toàn không để tâm đến mức độ kiên nhẫn hay
khả năng lắng nghe của thiền sinh, dù rằng nó còn tùy thuộc vào điều kiện thể
chất nữa. Nhưng có thể đó là điều Thầy muốn nhấn mạnh nhất: hãy thử thách
tâm kham nhẫn, và Thầy đã không nương tay. Thầy giảng thao thao bất tuyệt.
Tôi nghĩ rằng Thầy vừa hết lòng quan tâm về việc giảng dạy, cũng vừa không thấy
được giới hạn của họ trong sự lãnh hội. Nhưng cũng có thể Thầy đã nhạy bén
đoán biết được các thiền sinh tự nghĩ khả năng mình có giới hạn, nên Thầy quyết
định thúc đẩy họ huân tập sự kiên nhẫn, khả năng thâu thập, và thiện ý ngồi
yên.”
Có lẽ vì ngài Munindra có thể giảng pháp bất tận, mà thời biểu khóa thiền phải
theo quy định rõ ràng, nên các thiền sư Âu-Mỹ đã cố gắng giới hạn thời gian ban
pháp thoại của ngài.
Erik Knud-Hansen có một cái nhìn khác: “Tôi thấy rõ một điều, mà đến nay vẫn
còn bị hiểu sai bởi nhiều người, là sự khác biệt giữa việc lôi kéo sự chú ý về
một vấn đề quan trọng và việc lôi kéo sự chú ý về chính người nói. Tôi
không bao giờ thấy Thầy muốn làm mình nổi bật mà chỉ muốn làm nổi bật giáo
pháp.”
Erik hóm hỉnh nhận xét rằng đa số chúng ta dễ dàng ngồi trước màn ảnh chăm chú
theo dõi một truyện phim dài một mạch mấy tiếng đồng hồ, hoặc mãi mê đọc một cuốn
sách trong một thời gian rất lâu. “Vậy điều gì làm ta khó mà ngồi nghe pháp suốt
hai giờ? Ai đã đặt để ra cái giới hạn bốn mươi lăm phút cho bài pháp?
Và giới hạn ấy có ảnh hưởng gì đến tâm bạn? Bạn có bắt đầu nghe pháp
bằng ý nghĩ, ‘Được rồi, tôi sẽ cho Thầy giảng bốn mươi lăm phút thôi?’”
Erik nói tiếp, “Đến thời điểm nào tâm bạn bắt đầu phóng dật, chán nản và lơ là,
và bạn có ghi nhận được tâm mình lúc đó hay không? Cũng như các vị thầy
khác, Thầy Munindra có khuynh hướng tin rằng thử thách sức chú tâm của thiền
sinh là một việc làm đúng, và hy vọng rằng, qua các cuộc đàm luận hay vấn đạo
sau đó, sẽ thấy được những gì thật sự xảy ra trong tâm đã gây khó khăn cho họ
như vậy.”
Erik nói thêm, “Vấn đề không phải do từ bên ngoài, không phải bởi ai đó nói quá
nhiều, mà vì người ta không lắng nghe với tâm rộng mở, độ lượng nên gặp chướng
ngại. Không nên hạn chế Thầy chỉ vì có một người khó chịu.”
Thầy còn có thể thử thách sự kiên nhẫn của thiền sinh bằng những phương cách
khác, ngoài việc giảng nói hằng giờ. Quan niệm của Thầy về thời gian và thời
khóa biểu khác với quan niệm của hầu hết thiền sinh phương Tây. Những
người phụ trách việc dàn xếp cho Thầy ở một nơi này hay nơi khác – Thái Lan hay
Massachusetts – thường phải nóng lòng chờ đợi Thầy đến, hết tuần này đến tháng
nọ. Thầy thì thong thả trong công việc, như rửa dọn bàn thờ mỗi ngày, chẳng
hạn.
Và một khi Thầy đang đàm luận với ai đó, Thầy sẽ không tự cho phép mình bỏ đi
giữa chừng. Theo Gregg Galbraith, mỗi khi có ai tỏ ra lo lắng về thời
khóa biểu, Munindra thường nói: “Thời gian phục vụ chúng ta; chúng ta không phục
vụ thời gian.” Thầy kiên nhẫn và giữ chánh niệm trong mọi việc làm, và
không ai thúc giục Thầy được.
Chúng con đã đến đó
chưa?
Nóng lòng muốn kinh nghiệm các tuệ giác, muốn chứng đắc giác ngộ, nhiều thiền
sinh nao nức đến gặp Thầy để được xác nhận, “Đó là tuệ giác, là đạo quả phải
không?” “Con đã đạt được chưa?” Và nhiều câu hỏi nữa mà câu trả lời
bao giờ cũng là “Cần phải tu tập để tự hiểu lấy.” “Tiếp tục tọa thiền, sẽ
thấy tất cả.” “Hãy giữ chánh niệm, rồi sẽ hiểu.” “Kiên trì hành thiền, rồi
sẽ biết.” “Cứ để nó hiển lộ tự nhiên.”
Qua
nhiều bài pháp thoại, Ngài Munindra lột tả cốt tủy của tâm nhẫn nại trong
pháp hành:
Nhờ hành thiền, tuệ
giác có thể đến bất cứ lúc nào, ở bất cứ căn nào, khi tâm hành giả đã sẵn
sàng, nhưng không phải do mong cầu. Hãy tiếp tục hành trì. Mỗi một bước tu tập
đưa ta tiến đến gần mục tiêu hơn. Bền chí là bí quyết của thành công. Bất cứ ai
muốn biết nghệ thuật sống, muốn kinh nghiệm được giáo pháp, đều phải nắm vững
bí quyết ấy. Nhưng nếu khởi tâm mong cầu, điều ấy sẽ không đến.
Mỗi khi Robin Sunbeam thấy lúng túng, khó khăn trong
việc hành thiền, Thầy dạy cô phải nhẫn nại. Lần nọ, cô chạy đến Thầy và thốt
lời ta thán, “Tại sao mỗi lần con thấy được tuệ giác, con vẫn chưa đạt được nó? Phải
thấy đến bao nhiêu lần mới thật sự giác ngộ?”
Thầy trả lời bằng câu chuyện một đám đông người già và trẻ
con, với bàn tay bị thương đang băng bó, mà phải dùng búa đập đá thành từng
viên nhỏ để trải mặt đường. Thầy hỏi, “Nếu người đập đá đập lên hòn đá
chín mươi chín lần, nó vẫn chưa vỡ, đến lần thứ một trăm, đá vỡ. Vậy mình có
xem chín mươi chín lần trước là vô ích, uổng phí không? Có thể chín mươi chín lần
trước cần thiết cho hòn đá vỡ ra, nhưng đến lần thứ chín mươi chín, bạn vẫn có
thể thấy mình chẳng tiến bộ gì cả.”
Đáp lại những ai đang thối chí, mất niềm tin, ngài Munindra giảng giải bằng các
cách khác nhau, chẳng hạn như cho Kamala Masters, “Đó là nghiệp của cô. Tất
cả những chuyện này dồn dập đến cùng một lúc để cô huân tập, vun bồi đức
tính nhẫn nại.” Hay khi Kamala cảm thấy việc hành thiền như đứng dừng lại, Thầy
nói, “Khi trái chín, nó sẽ từ trên cây rụng xuống.”
Học trò ngài đã nhiều lần học được ý nghĩa của lời dạy ví von này. Khanti
Moraitis ghi nhận, “Thầy dạy cho tôi hiểu ngay từ đầu rằng thiền tập là một cuộc
hành trình cá nhân, do chúng ta tự nguyện dấn thân và tiếp tục đi tùy theo nhân
duyên và hạn kỳ riêng của chúng ta.”
Ngài Munindra là hiện thân toàn hảo của hạnh kham nhẫn, và những lời ngài khuyến
khích trau giồi đức tính này còn tiếp tục vang mãi trong tâm tất cả môn sinh.
Eric Kupers nói, “Tôi đã học được ý nghĩa của sự kiên định trong thiền tập và của
tâm nhẫn nại với tiến trình tự nhiên của vạn pháp, nhưng vì nhân duyên nào đó,
tôi vẫn thấy mình thiếu nhiệt tâm nóng bỏng trong cuộc hành trình tâm linh
này.”
Eric tiếp, “Gương kham nhẫn của Thầy cho chúng ta thấy rằng không nên bận tâm đợi
chờ trống kèn tán thưởng, hoặc nóng lòng mong cầu đạt được điều gì. Chúng
ta chỉ cần kiên trì tiếp tục bước chậm mà bền trên đường đạo. Đây thật là
một niềm khích lệ lớn lao, dạy tôi nhẫn nại chấp nhận căn cơ và thành đạt của
mình.”
Trong phẩm hạnh tối thượng,
không gì hơn kham nhẫn…
Người
mạnh, hộ trì pháp, không bao giờ gây hấn…
Không
lấy sân đáp sân, được chiến thắng bội phần.
(Tương ưng bộ kinh 11.4, Tương ưng Sakka).
Khanti: từ gốc Sankrit kṣam (chịu
đựng, cam chịu); nguyên nghĩa là “kham nhẫn”, còn được hiểu là chịu đựng, nhẫn nhịn,
tha thứ, khoan dung, không chống trả, chấp nhận trực diện những gì
không vừa lòng và cả những điều toại ý trong cuộc đời. Khác hơn
một phản ứng từ tâm sân hận hay báo thù điềm tĩnh. Khanti bao
hàm một thái độ hiền hòa, đôn hậu, kham nhẫn thể hiện qua sự nhẫn nhịn,
dũng cảm chịu đựng, hay kiên trì trên đường tu. Quả gần của khanti là
tuệ giác thấy được thực tướng của các pháp. Khanti đứng thứ sáu trong mười
ba-la-mật (pāramī) và một trong các pháp bảo vệ và phúc
chúc cao thượng nhất mà Đức Thế Tôn nêu ra trong Hạnh phúc kinh Mahā-mangala Sutta (Kinh Tập –
Sutta Nipāta 2.4 và Kinh Tiểu Tụng – Khuddakapāṭha 5)
(Trích, Mirka Knaster, Sống viên mãn kiếp này, chương 9)