Trong vòng tay của ngã
trong vong tay
Lê Khắc Thanh Hoài
Ngồi buồn mà trách ông xanh
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Giữa trời, vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thời trèo với thông.(1)
Nguyễn Công Trứ ngán ngẫm kiếp người đến nỗi chỉ muốn làm cây thông vào kiếp sau. Cuộc đời con người đáng chán đến như vậy sao?
Bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật há không nói đời là bể khổ?
Trong Thánh kinh, khi trục xuất Adam và Eve ra khỏi thiên đường, Đức Chúa trời chẳng phải đã phán rằng : “… Tu
enfanteras dans la douleur…A la sueur de ton front, tu gagneras ton pain. “ (…Ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén, lúc sinh con…Ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời người mới kiếm được miếng ăn từ đất ra. Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn.) (2)
Mọi người ai cũng đồng ý, nếu đời không là khổ thì đứa trẻ sơ sinh đã không mở mắt chào đời bằng tiếng khóc oe oe. Người đàn bà mang nặng đẻ đau, đôi khi còn bỏ cả mạng sống và người đàn ông thì phải vất vả lao động để gánh vác gia đình, đôi khi đến hết cả cuộc đời, chưa kể còn gánh vác luôn cả nhà vợ, họ hàng thân thích, con cháu!
Hãy thử nhìn lại từ đầu khi con người cất tiếng khóc chào đời. Trong những năm tháng đầu đời thì chắc chắn đứa bé chẳng hiểu gì về mình và cuộc đời, có khóc chăng cũng chỉ là những phản ứng tự nhiên của các hiện tượng sinh vật lý, vì đói, vì khát, vì đau, vì nhức, vì nóng, vì lạnh… Rồi dần dà theo ngày tháng, nhờ vào các giác quan mà thấy và nhận ra hình ảnh, nghe được âm thanh, ngửi được mùi, biết được vị của thức ăn, có cảm giác dễ chịu khi được hôn, được vuốt ve âu yếm, và cái trí nhỏ bé cũng bắt đầu biết, nhận ra, phân biệt, tích lũy trong trí nhớ các sự vật chung quanh, những người chung quanh, người quen, người lạ, kèm những phản ứng không đồng đều, vui mừng, sợ hãi, thích thú, không thích thú, khó chịu, dễ chịu…
Đứa
bé đã bắt đầu
biết có mình
và người khác
quanh mình.
Kêu tên nó
thì nó nhận
ra là nó. Nếu
không kêu đúng tên nó
thì nó cũng
biết là không phải
mình.
Chỉ cần
một khoảng thời
gian từ một năm
tuổi cho đến hai tuổi
trở đi là đứa bé
con hoàn toàn nhận
thức mình là
ai, tên gì, trai hay gái,
ai là cha mẹ mình,
anh chị em mình, nhận
biết các thứ đồ vật, cái này
là gì, cái
kia là gì, và
biết giành giật
với các chúng
bạn, đồ chơi này
là của tôi, tôi thích
cái này, không được
lấy đồ của
tôi… Khái
niệm “của
tôi ” thật rõ rệt.
Trong cái đầu óc non nớt nhưng
đã có đầy đủ mầm tư duy, gốc
rễ của trí
tuệ phát triển
theo với thân hình, vóc
dáng, theo thời gian.
Triết gia Descartes đã khẳng định: “Je pense donc je suis” ( Tôi tư duy tức
là tôi tồn tại).
Cũng nhờ cái tư duy này
mà có sự
nhận biết phân biệt
tôi và người khác.
Ý thức tôi hiện hữu
với thế giới
chung quanh tôi. Cái
tôi liên quan, mật thiết
gắn liền với
xã hội.
Thời gian trôi qua, bên
ngoài là cái
tôi vật lý, sinh lý cao lớn dần thì bên trong, cái tôi tinh thần,
tâm lý, tâm linh, là cốt lõi của ý thức
cũng lớn theo. Tùy
môi trường sinh sống, tùy
sự hấp thụ
giáo dục, tùy ảnh hưởng của
xã hội, người chung quanh mà cái tôi này khác
với cái tôi kia. Cho dù cùng sinh trong một môi trường,
cùng hấp thụ một nền giáo
dục, cùng chịu
chung ảnh hưởng của
một xã hội nhưng
cái tôi nào cũng
là một cá
thể hoàn toàn
khác biệt.
Từ những
nhận thức hay ý thức đơn giản nhất,
cái tôi bỗng thành
hình thật vững
chắc, với những
nhận thức hay ý thức
càng ngày càng
phức tạp.
Cái Tôi không chỉ là biết đi,
biết ăn, biết
nói, biết ngủ,
biết thức… Cái tôi còn biết
vui biết buồn, biết
giận, biết hờn,
nghĩa là đủ thứ hỉ nộ ái ố.
Nhà Phật
thì tóm gọn
vào ba tánh xấu
căn bản tham, sân, si. Tham là lòng muốn, muốn
sở hữu, muốn
là của tôi, muốn
thuộc về tôi, muốn
chiếm đoạt,
muốn có, muốn được, muốn thỏa
mãn “ý muốn” của tôi. Từ cái
muốn này mà
không biết
tự chủ thì
gây ra vô số
phiền toái, lầm
lỗi, từ lỗi
nhỏ có thể
thành lỗi to, từ ăn
cắp vặt có
thể trở thành
tướng cướp, giết
người cướp của
không gớm
tay, vì muốn chiếm đoạt người
mình yêu mà có thể không ngần
ngại giết chết
tình địch… Tai
họa của tham không nhỏ. Sân
là lòng tức
giận, không bằng lòng,
không vừa
ý, không thỏa
mãn, không có,
không được, không đúng như
những gì cái
tôi mong cầu,
ao ước, chờ đợi thì sẽ nổi lên
lòng tức tối,
giận hờn, buồn
phiền thậm chí mạnh mẽ hơn
nữa thì trở
thành thù ghét,
oán hận. Từ đó cũng có thể tạo ra những mối
thù “không đội trời
chung”, đưa đến
bạo lực, tàn
phá, giết hại… Tai họa đem lại từ cái sân thành hận
này cũng không nhỏ. Si
là mê mờ,
ngu si, không trí
tuệ, tư duy sai, lệch
lạc với đạo đức, lẽ phải,
phép tắc hay luân lý. Và hậu quả của si
cũng vô cùng nguy hiểm,
có thể dẫn đến bạo lực,
chết chóc. Chỉ cần suy nghĩ không đúng
thì sẽ hành
động không đúng và tất yếu là hậu quả cũng
không đúng.
Nơi cái thân
hình bé nhỏ
chứa đựng một
cái tôi bé nhỏ và đang lớn dần
với thời gian, thì
chuyện gì cũng
có thể xảy
ra. Thiện
cũng như ác. Cho dù “Nhân
chi sơ tánh bổn
thiện”(3), nghĩa
là bản tánh
con người sinh ra vốn đã
thiện. Nhưng vì “Tánh tương cận,
tập tương viễn”(3) nên con người
có thể không còn
thiện nữa vì
thói quen tật xấu
làm cho xa rời cái
bản tánh thiện
của thuở ban đầu.
Điều này cho thấy ảnh hưởng của
môi trường sinh sống, giáo
dục và xã hội
thật quan trọng.
Chúng ta đang
ở vào thế kỷ thứ 21 và dường như mọi
sự việc vận
hành với một
tốc độ thật
nhanh, quá
nhanh. Một đứa trẻ 10 tuổi
cũng có điện
thoại cầm tay, có IPad
và lướt trên
mạng tài tình
hơn cả người
lớn, tuyệt nhiên
là vượt xa người…già, nếu
người già không chịu
hiện đại hóa
kiến thức và đời
sống.
Chúng trẻ này hiểu nhiều,
hiểu sớm, hiểu
nhanh và cũng từ đó, nảy
sinh ra rất
nhanh chóng
ý thức về một
cái tôi rất đồ sộ “tôi hiểu hết,
tôi biết hết, tôi làm được hết”.
Dạy dỗ một đứa trẻ thời đại này thật
khó hơn xưa
nhiều lắm.
Cái tôi sinh vật
lý và cái tôi tinh thần,
tâm lý đã
thành hình và lớn lên rõ rệt,
mang một khuôn mặt, một
cái tên, một
cá tính, một
phong cách.
Từ cái
ý thức đơn giản
nhận biết có
người khác và có mình, nảy
sinh cái tham muốn: cái
này là của
tôi, cái này phải
thuộc về tôi, tương
tự như cái
ý thức đem thức ăn về nuôi dưỡng
tấm thân, ý thức của
bản năng, của
sinh tồn, sẽ xuất
hiện cái ý thức
Tôi Là. Cho dù ý
thức này đã
có từ ban đầu
nhưng nó rất
tiềm tàng và
chỉ rõ rệt dần
dà với thời
gian cùng với sự
trưởng thành của cả hai phần tâm sinh lý.
Khi cái ý thức Tôi
Là bắt đầu hoạt động thì tất
cả mọi chướng
ngại, phiền toái
dường như cũng
bủa đến.
Như một
giòng sông đang trôi chảy
tự nhiên “đói ăn,
mệt nghỉ ”(4) bỗng
bị chặn lại
bởi muôn vàn con đê.
Những con đê của định kiến, kiến
chấp. Tôi là tôi. Tôi không là
anh, không là
chị. Tôi không thể làm
như anh, không thể làm
như chị, không chấp
nhận như thế này, không chấp nhận
như thế kia, việc đó phải là
như thế này,
không thể
như thế kia… Nhiều vô tận không thể kể hết. Tất
cả cũng bởi
vì Tôi Là. Tôi là như vậy, không thể khác.
Ý thức này
chắc chắn như núi đá. Một
sự tự tin mạnh
mẽ không gì làm
lay chuyển.
Cùng xuất
hiện với ý thức Tôi
Là này là ý thức
về các giá
trị nơi bản thân.
Tôi đẹp, tôi thông minh, tôi tài ba và cũng
có thể ngược
lại, tôi xấu xí,
tôi ngu si, tôi không ra gì…Tùy theo đó mà cái tôi có thể
trở thành tự
cao, tự mãn hay tự ti mặc
cảm. Cái tôi tự
tôn hay cái
tôi tự ti đều đem
lại khổ đau và
phiền toái cho chính
bản thân.
Ý thức về
Tôi, sự hiện hữu
của cái Tôi, Tôi Là,
dễ dàng kéo
theo tính ích kỷ.
Ít có suy nghĩ nào
mà không quy về mình
trước. Tôi phải ăn để nuôi cái thân của
tôi trước, tôi phải làm để cho tôi đươc hưởng
trước, thỏa mãn tôi trước,
tôi muốn như thế này bởi vì lợi cho tôi trước, hại
cho ai thì dường như tôi không cần
biết đến... Vừa
tự tôn mà vừa ích kỷ có
thể không ngần ngại
chà đạp kẻ khác,
xem như hàng nô lệ,
tôi tớ những kẻ
không may, thấp
kém hơn về
tinh thần
lẫn vật chất.
Từ cái
tôi tự cao cũng dẫn đến sự tự ái.
Mà tự ái có
nghĩa là thương
mình, cũng bắt
nguồn từ cái
tính ích kỷ.
Vì thương mình,
chỉ nghĩ đến mình
trước nên dễ dàng thấy mọi
chuyện dưòng như đều đụng chạm đến
mình, đến cái
tôi và cần đưọc
bảo vệ tối đa, như thế là có phản ứng ngay để tự vệ. Sự tự ái
thường làm mù
nhận thức phải
trái, đúng sai, chỉ
thấy một điều duy nhất là cái tôi đang bị tổn thương. Cái
tôi đang bị chỉ
trích, phê bình,
đánh giá. Đó có thể là một mối đe
dọa lớn cho tên
tuổi, địa vị,
gia tộc, nghề nghiệp… của
tôi. Tôi có
thể vùng lên
gào thét như một con hổ.
Cái tôi tự
cao này thì rất
khó mà nhận
lỗi, nhất là với những ai có địa
vị cao hay danh tiếng, ngược
lại cái tôi tự ti thì lại dễ nhận
lỗi dù mình
chẳng có lỗi
gì!
Cái tôi tự
tin thì dễ thành
công, thành
đạt. Cái tôi tự
ti thì dễ nản
chí, thụt lùi.
Cái khó là
giữ được mức trung dung, quân bình. Khổng Tử dạy đạo Trung Dung, biết
tiết chế, điều phục mình
để giữ hòa
khí ở đời. Phật cũng
dạy Trung Đạo, con đường
tránh hai cực đoan,
dù đích thực là nói đến hai cực
đoan của người xuất
gia: hoặc
là buông theo dục lạc,
hoặc là ép mình
khổ hạnh. Cũng
như tránh cực đoan chấp có
chấp không. Nhưng rồi
cụm từ Trung Đạo
này trở thành
thông dụng,
áp dụng cho người đời,
được hiểu như là một thái độ sống dung hòa,
hành động gì
không thái
quá, không cực đoan.
Khổng giáo
xem trọng cái tôi có tình, có nghĩa,
hợp với lẽ
Trời: dân biết kính
trọng, tuân thủ vua, quan, con cái
hiếu thảo với
cha mẹ, sống thuận
hòa, vợ chồng,
con cái, có trên
có dưới, có
trật tự, có
luân thường
đạo lý, xã hội có kỷ cương, con người
biết sống hợp
với thời thế,
biết giữ gìn
khí tiết, biết điều hòa âm dương…
Lão giáo chủ
trương xem cái tôi như
không có,
không hiện
hữu thì mới
có thể đồng nhất
vớí vũ trụ,
như vũ trụ
thì hòa nhập
vào Đạo. Cuộc
sống mới thật
sự là cuộc
sống đúng nghĩa,
không gì
ngăn ngại làm khổ đau.
Phật giáo giúp con người thoát
khổ bằng cách
nhìn thẳng vào
bản chất thật
của cái tôi hay ngã là
không thật,
là vô thường, không thường
còn mà biến
chuyển, hợp rồi
tan, tan rồi
hợp tùy theo nhân duyên
cả. Vì bản
chất của cái
tôi là không chắc thật,
không thường
hằng, bám vào thì chỉ có tự mình rước khổ. Rũ bỏ cái ngã này, trong Phật
giáo, cũng là một trong những pháp
môn tu tập để giải thoát.
Thiên Chúa
giáo chẳng thường
dạy: Nước Chúa
dành cho những ai có lòng khiêm hạ và tinh thần nghèo
khó ư?(4)
Ngã, chữ Hán,
có nghĩa đơn
giản là Tôi, không gì
khác hay phức tạp
hơn cả. Song khi muốn đề cập đến những
cái “bịnh” liên quan đến
cái tôi thì chúng
ta thấy thường chỉ dùng các từ Hán việt như ngã
chấp, ngã kiến, ngã mạn,
ngã Ái. Và tự nhiên khi dùng
đến chữ ngã thì
chúng ta liên tưởng
đến ngay những cái
bệnh vấp phải của
cái tôi. Một cái
tôi thuờng
hằng, bất diệt,
một cái tôi khổng
lồ đồ sộ, một cái
tôi hiện diện bất
cứ ở đâu dù ở
đó tôi không có mặt,
không ai thấy
tôi, dù tôi không thức, tôi ngủ,
nhưng cái tôi không thể
ngủ, cái vô thức
của cái tôi vẫn
làm cho tôi hiện hữu,
không hề có gián đoạn. Trong mơ, đôi
lúc tôi lại thấy
tôi càng rõ hơn cả
thức, lúc mở mắt to vào ban ngày.
Thậm chí tôi cũng
có thể vươn
dài, với tới
cái chẳng phải
là tôi (le faux moi) được xem như tôi bởi
cùng vui, cùng buồn, cùng
lên xuống thăng
trầm với cái
tôi không thật
này. Đó
là
trường hợp của
những tín đồ “fan” ngưỡng mộ
thần tượng của
mình. Đó có
thể là những
tài tử xi nê,
ca sĩ, nhạc sĩ,
họa sĩ, văn
sĩ, siêu mẫu,
siêu nhân, anh hùng dân tộc,
cầu thủ đá bóng,
vô địch thể thao…
Chữ Ngã nói
lên được tất
cả những đặc
tính và hoạt động của cái
tôi.
Bắt đầu
từ đây chúng ta sẽ làm quen với Ngã. Ngã có đủ
khuôn mặt:
trang nghiêm,
lễ độ, trịnh trọng,
khiêm cung, dịu dàng,
hòa ái… cũng như vô phép
tắc, kiêu căng,
cuồng ngông, hài hước,
châm biếm, thô tục,
lỗ mãng… Muôn hình
vạn trạng, kể
không thể hết.
Ngã có nhiều
cách hiện diện.
Có khi đường đường
chính chính. Đưa
cái mặt ra mà
ai cũng thấy. Có
khi không ra mặt
mà ai cũng thấy!
Ngã đã có mặt tự khi con người được sinh ra song Ngã không được nhắc đến
nếu không phải là “con
của Trời’’,
nghĩa là vua, hoặc
là đấng thay mặt Trời,
thay mặt Thượng Đế,
như Chúa Giê
Su, hoặc là các đấng tiên tri, các
bậc đại hiền đại thánh như
Phật, như Khổng,
như Lão, hoặc các
vị cứu tinh, anh hùng
dân tộc.
Cái Ngã của
kẻ phàm phu tục
tử, của thường
dân thì không ai nói đến.
Hạng này chỉ
biết cúi đầu
kính phục các
bậc cao trọng hơn
mình.
Qua lịch sử,
văn học, nghệ
thuật chúng ta khó
kiếm ra dấu tích
của phàm phu tục
tử, dường như
không có gì đáng nói. Được
nhắc đến chỉ là những vị
siêu nhân, siêu đẳng
với các thành
tích, lập công hay đức
hạnh đáng tôn kính,
đáng noi theo của các “Ngài”.
Từ thời
cổ đại qua đến trung đại
và rồi chỉ có thời hiện đại thì cái
Ngã của phàm phu tục
tử mới bùng
nổ, vùng lên
như núi lửa
phực cháy.
Trong văn chương,
thi ca, hội
họa, âm nhạc, hay kịch
nghệ chúng ta đều
nhận thấy sự bùng nổ của cái
Ngã phải trải qua rất nhiều giai đoạn.
Và tất cả các phong trào hầu
như đều dính líu,
ảnh hưởng qua lại.
Âm nhạc, hội họa,
kịch nghệ đều dựa
trên thi ca, văn chương
để tìm cảm
hứng. Thi sĩ người Đức, Geothe, đã cung cấp
những vần thơ
tuyệt diệu cho các
bài Lied nổi tiếng
của Schubert, Schumann, Brahms… Các thi
sĩ, nhà viết
lời cho nhạc kịch
như Monteverdi, Metastasio, Boito đều viết lời
cho Mozart, Scarlatti, Handel, Verdi… Những
bản Préludes của Lizst
đều có phụ đính
thơ của Lamartine. Bản “ Prélude à L’après midi d’un
faune” của Debussy thì dựa trên một
bài thơ của
Mallarmé.
Từ thời
xa xưa nhất, hầu
như từ Tây sang Đông,
âm nhạc chỉ mang tính
cách tôn giáo, phục
vụ cho nhu cầu tôn giáo
của con người, đó là loại nhạc
Lễ, nhạc Phụng
Tự (liturgical), nhạc hỗ trợ
cho các nghi lễ tôn giáo,
nhà thờ, chùa
chiền. Loại nhạc
này được giữ gìn như một
kho tàng qúy giá.
Trong dân gian thì
chỉ có các
bài hát rong, hát
ru con, các điệu hò của các tác
giả vô danh và chỉ được
truyền miệng.
Trong âm nhạc Tây phương,
cho đến thời cận đại, âm nhạc vẫn
còn mang màu sắc tôn
giáo mạnh mẽ,
bởi một lẽ dễ hiểu là các nhà soạn
nhạc phần đông
sống được là
nhờ vào sự bảo trợ tài
chính của Giáo hội. Thử
nghe nhạc
của Bach, chúng ta thấy
ngay tính chất tâm linh hiển
hiện trong đó, ngược
lại với Beethoven, mở đường cho dòng
nhạc Lãng mạn thì
chúng ta cảm nhận
ngay những
cảm xúc riêng tư,
cá nhân, sáng tạo đầy cá tính,
được thể hiện
một cách mạnh
mẽ, tiếp đến
là Schubert, Berlioz, qua đến Chopin được xem như là thượng đỉnh
của dòng nhạc
này. Qua nghệ thuật,
nhờ nghệ thuật,
cái Ngã trở nên siêu việt. Cái đẹp của Ngã là cái đẹp đáng
yêu, đáng trân quý, bởi
nó đã thăng hoa, trở
thành Mỹ, cùng
đứng ngang hàng với
Chân và Thiện.
Trong hội họa
thì có quá
nhiều trường phái
từ Tân cổ điển
cho đến Pop Art, phải trải
qua nhiều
giai đoạn mới
thấy sự bùng
nổ của Ngã, làm
nổi bật hoàn
toàn cá tính
riêng biệt của
mình khởi đầu
từ trường phái
Hậu Ấn Tượng với
Van Gogh, rồi
từ từ xuất
hiện những khuôn mặt
nổi bật như
Picasso, Braque của
trường phái Lập
Thể và Dali với
trường phái Dada. Lại
tiếp tục với
các truờng phái
mang tính khiêu khích
cao độ, tính đập
phá, phủ định, đề
cao chủ nghĩa hư
vô, chống lại nghệ
thuật, nghệ thuật
phi nghệ
thuật. Cái Ngã càng
ngày càng lớn
mạnh.
Thử ngắm và so sánh La Joconde của
Leonard de Vinci, thế kỷ thứ 16 với
Weeping Woman của
Picasso thế kỷ thứ 20, chúng
ta nhận ra nàng Mona Lisa đích
thực là nàng
Mona Lisa mà
Leonard de Vinci muốn
cho chúng ta thấy, cái
hồn, cái “Tinh
khí thần” của nàng tỏa
rạng nơi bức
tranh. Nhưng
người đàn bà đang
khóc của Picasso là
người đàn bà của Picasso. Là cái
Ngã của Picasso hiện lên,
ụp xuống nơi
khuôn mặt
người đàn bà được
Picasso phác
họa lại trong tranh. Ở đây
đã biến mất
cái Tinh khí thần của người đàn
bà, chỉ còn
lại cái Tinh khí thần của Picasso!
Có thể đó là lối nhìn
chủ quan của người
viết. Sẽ có
người nói: cách
vẽ của Picasso không phải
là cách vẽ
truyền thần. Không thể có sự so sánh.
Đồng ý ở điểm
này, nhưng ở đây
điều mà
người viết muốn đề cập đến
là cái Ngã được
hiển lộ rõ rệt
qua nét độc đáo,
cá tính riêng
biệt, phong cách đặc
thù của sự sáng
tạo.
Cái Ngã bắt đầu phát triển trong
thơ ca Lãng Mạn là đề
cao sự sáng tạo,
tự do cá nhân, phá bỏ lề luật,
ràng buộc với
quy luật, hình thức.
Phong trào
Tượng Trưng đi
xa hơn nữa và
quan niệm
thi ca là
giải phóng ngôn ngữ.
Ngôn ngữ được
sáng tạo hoàn
toàn mới, xa lạ với ngôn ngữ thông thường.
Cái Ngã cũng không dừng
ở đó, nó lôi kéo
vào luôn cả Mộng
và Thực. Vô hình
và Hữu hình.
Tỉnh táo và Điên loạn. Phong trào
Siêu Thực ra đời.
Có thể nói, bằng mọi
giá, qua mọi hình
thức, con người cần
bộc lộ, cần
phơi bày. Hoan hô, đả đảo,
biểu tình, chống
đối, đồng tình,
xuống đường, và… lên đường (xung phong, làm
nghĩa vụ, đấu
tranh hoặc
từ bỏ, xa lánh…) cho đến cả
việc tuyệt thực,
tự thiêu, tự hủy.
Ở đây
cái Ngã có một
lý tưởng, một mục đích, hướng thượng,
hướng thiện. Sống
trong xã hội,
thao thức
cùng xã hội.
Cái Ngã cũng
có thể chẳng
có một mục đích gì gọi
là cao thượng mà
chỉ thấm đẫm
nét trữ tình,
như Hồ Dzếnh:
Em
cứ hẹn nhưng
em đừng đến nhé
Tôi
sẽ trách, cố
nhiên, nhưng rất
nhẹ
Nếu trót đi
em hãy gắng
quay về
Tình chỉ đẹp
khi tình dang dở
Đời
mất vui khi đã vẹn
câu thề
Thơ viết đừng
xong, thuyền
trôi bến đỗ
Cho
ngàn sau lơ lững
với ngàn xưa.(6)
Hay Nguyên Sa :
Nắng Sài Gòn
anh đi mà chợt
mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh
vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn
nguyên màu lụa
trắng.(7)
Cái Ngã của
Hàn Mặc Tử
thì đã hóa dại
hóa khờ:
Người đi một
nửa hồn tôi mất
Một nửa
hồn tôi bỗng dại
khờ.(8)
Xuân Diệu cũng
là một nhà
thơ trữ tình,
song cái Ngã của ông lớn
và ông cũng không che giấu,
kênh kiệu:
Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất
Không
có chi bè bạn nỗi cùng ta.(9)
Kỳ lạ, vậy mà có lúc ông lại thấy mình thật nhỏ bé:
Tôi
chỉ là cây kim bé nhỏ
Mà vạn vật là muôn đá nam châm!(10)
Thế rồi cái Ngã của ông lại huênh hoang qua hai câu thơ:
Tôi
là con chim đến từ núi lạ
Ngứa cổ hót chơi.(11)
Cái Ngã của Tản Đà thật phóng túng, ông lên tận cõi trời để bán thơ mình và được trời khen (hay tự khen):
Văn dài hơi tốt ran cùng mây
Trời nghe trời cũng lấy làm hay.(12)
Cái Ngã của Hoàng Cầm thấm đượm tình cảm khắng khít giữa người, thú và thiên nhiên:
Ta
con chim cu về gù rặng tre
Đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng
Đưa mây lành những phương trời lạ
Về tụ nóc cây rơm
Ta
con bê vàng lạc dáng chiều xanh
Đi mãi tìm sim chẳng chín.(13)
Cái Ngã của Thế Lữ thì thong dong lãng tử:
Tôi
là người bộ hành phiêu lãng
Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi.(14)
Mỗi người đều có thể tự tìm thấy cái Ngã của mình. Cũng như uốn nắn cái Ngã theo ý mình muốn.
Thời gian thì vô hình, không diện mạo và chỉ biểu hiện qua các sự vật hay sự việc (15) mà cái Ngã thì có một diện mạo rõ rệt, có tên, có tuổi hẳn hòi, tuy vậy mà nó cũng khi ẩn, khi hiện, đó gọi là không thực, không chân tình, giả dối, trốn tránh, khuất lấp, dấu diếm sau những lời nói, nụ cười, ánh mắt, cử chỉ…Đôi lúc vì hoàn cảnh, vì thời thế, cái Ngã phải được che dấu, dẹp qua một bên, nhắm mắt, bịt tai, ngậm miệng mới mong an toàn mạng sống!
Cụ Nguyễn Công Trứ muốn trở thành cây thông cũng chỉ vì ngán ngẫm cái Ngã này. Nhưng suốt cuộc đời thăng trầm của cụ, cụ vẫn luôn đứng thẳng và vững chắc như cây thông rồi.
Biết sống với thời gian là điều khó, bởi vì con người chỉ có một thời gian hạn định, phí phạm nó rất uổng. Cũng thế, sống trong vòng tay của Ngã cũng là điều vô cùng khó. Ngã mà siết chặt vòng tay thì con người…chết. Chết vì kiêu căng, ngạo mạn, khinh khi, ích kỷ, hoặc là quá tham sân si ngu
muội, bị người chung quanh ghét bỏ, xa lánh, tự cô lập mình, chết trong cô đơn.
Nhưng vòng tay của Ngã có thể rất êm ái dịu dàng, đong đưa như võng ban trưa dưới ánh mặt trời, ru ta giấc ngủ hiền hòa. Bởi Ngã chính là… Ta, không ai khác và Ta đã làm chủ được Ngã, điều phục được Ngã. Ngã chỉ còn biết nghe lời Ta!
Chú Thích:
1. Cây Thông, Nguyễn Công Trứ.
2. La
Bible, Ancien Testament, Génèse 3 / Kinh Thánh Cựu ước, Sáng thế ký.
3. Tam tự
kinh.
4. Cư
trần lạc đạo, Trần Nhân Tông.
5. Kinh Thánh, Bài giảng trên núi, Tám mối phúc,
6. Ngập ngừng, Hồ Dzếnh.
7. Áo lụa Hà Đông, Nguyên Sa.
8. Những giọt lệ, Hàn Mặc Tử,
9. Hi Mã Lạp Sơn, Xuân Diệu.
10. Cảm xúc, Xuân Diệu,
11. Lời thơ vào tập Gửi hương, Xuân Diệu.
12. Hầu Trời, Tản Đà.
13. Về
với ta, Hoàng Cầm.
14. Thế Lữ tên thật là Nguyễn Đình Lễ, và cũng là Thứ Lễ. Lấy biệt hiệu là Thế Lữ, từ Thứ Lễ nói lái. Có nghĩa là người khách phiêu du cõi trần thế.
15. Tản mạn về thời gian, LKTH.