Nói Với Người Xuất Gia
noi voi nguoi xuat gia
Nói Với
Người Xuất Gia
Thiền Sư
Ajahn Chah
Ajahn Chah sinh năm 1918 trong
một ngôi làng phía Bắc Thái Lan. Ngài xuất gia sa di từ lúc còn nhỏ và trở thành
một vị tỳ khưu năm 20 tuổi. Ngài theo truyền thống hành đầu
đà của các sơn tăng trong nhiều năm. Hằng ngày mang bát xin ăn,
chuyên tâm hành thiền và đi khắp nơi
để truyền bá giáo pháp.
Ajahn Chah hành thiền dưới sự
chỉ dẫn của nhiều thiền sư danh tiếng trong đó
có ngài Ajahn Mun, một vị thiền sư nổi tiếng và được
kính trọng vào thời bấy giờ. Ajahn Chah đã
chịu nhiều ảnh hưởng của ngài Ajahn Mun. Ajahn Chah là một thiền sư tuyệt diệu,
Ngài đã dạy đạo
một cách trực tiếp, rõ ràng, và tận tụy chia sẻ sự chứng nghiệm giáo pháp của
mình cho những người đến sau. Lời dạy
của Ngài thật đơn giản: "Hãy để
sự vật tự nhiên, đừng
dính mắc. Hãy xả bỏ tất cả. Sự vật thế nào, hãy để
y như vậy".
Ajahn Chah viên tịch vào ngày
16 tháng Giêng, 1992 ở Wat Pah Pong, tỉnh Ubon Ratchathani.
(Tiểu
sử Ngài Ajahn Chah lấy từ nguồn:
www.trungtamhotong.org)
Hôm nay
Sư đặc biệt giảng cho chư tỳ kheo và các sadi,
mong quý vị
hãy
lắng lòng nghe. Ngoài việc thực hành Pháp và gìn giữ
giới luật, chúng ta không còn gì khác để bàn, để học và trao đổi ý kiến.
Sư muốn
mọi người hiểu rằng,
giờ chúng ta đã là người phát nguyện
xuất gia,
nên ta cần phải hành xử sao cho phù hợp với tư cách của người tu sĩ hay sadi.
Chúng ta đã từ bỏ cuộc sống của người cư sĩ.
Đó là
một cuộc sống đầy những biến động, và không có một mẫu mực
nhất định nào trong
hành xử.
Nhưng hiện
giờ,
chúng ta đang ở trong cuộc sống của người xuất gia;
theo
như lời Đức
Phật dạy, chúng ta phải chuyển đổi tâm trí cho khác với người tại gia. Ngôn
ngữ, sự đi lại, cách ăn uống, bước tới, bước lui –tất cả
hành động thân khẩu ý
của chúng ta,
đều phải phù hợp với người được coi là xuất gia, nghĩa là những người trầm tĩnh,
tự tại. Trước kia, chúng ta là người tại gia, không hiểu ý nghĩa của việc xuất
gia là sống
trầm tĩnh và
tự tại. Tất cả mọi người đều
đã để
thân và tâm được hưởng lạc theo những đòi hỏi và uế nhiễm của ta. Khi mọi thứ
tốt đẹp, thuận theo
ý muốn,
chúng khiến ta hạnh phúc. Ngược lại, chúng khiến ta sầu não.
Điều đó
là do chúng ta
bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh, bởi các pháp bên ngoài. Đức Phật dạy rằng,
khi chúng ta để các pháp bên ngoài tác động lên mình,
là ta không biết
cách
chăm sóc bản thân. Chúng ta chưa có nơi nương tựa, nên ta để thân tâm tán loạn
theo những vui, buồn, khổ, oán thán và thất vọng. Chúng ta không biết tự kiềm
chế,
không biết quán chiếu các pháp.
Theo giáo
lý của đức Phật, khi ta đã phát nguyện xuất gia,
ta phải khiến thân
thể này
thành thân của người xuất gia. Thí dụ, trước hết, ta phải cạo tóc,
cắt móng tay, móng chân.
Đắp lên mình tấm
y vàng –dấu hiệu của những người thanh cao, dấu hiệu của Phật, của các bậc
A-la-hán. Khi
chúng
ta được xuất gia là
chúng ta đã nhận được
một sự thừa hưởng, một gia tài mà vị Thầy Cao Thượng bậc nhất đã để lại cho
chúng ta. Đó là lý do tại sao ta có thể sinh tồn theo cách sống này. Thí dụ,
chốn trú ngụ của ta là do công đức của thí chủ xây dựng. Ta cũng không phải lo
cái ăn –và đó cũng là sự thừa hưởng, là gia tài của vị Bổn Sư để lại. Thuốc men,
y áo cũng tùy thuộc vào gia tài của đức Phật để lại.
Một khi
quý vị đã xuất gia theo giáo lý của đức Phật, là quý vị đang bước vào, đang
chuẩn bị thành một tu sĩ, nhưng
nếu không thận trọng và nghiêm túc, quý vị
chưa
phải
là người tu sĩ thực thụ. Quý vị chỉ là một tu sĩ giả
định
–nói cách khác, vẻ bề ngoài của quý vị là tu sĩ: đầu cạo, y vàng,
nhưng
thật sự
quý vị mới
chỉ là tu sĩ
trên hình thức.
Cũng
giống như khi người ta đẽo, đục gỗ, đắp tượng
xi-măng,
hay đổ đồng làm tượng Phật, là làm theo
hình thức giả định.
Đó không phải là Phật thực sự. Đó chỉ là vàng, chì, đồng, gỗ, sơn mài hay đá.
Những thứ này là để làm thành hình tưọng
Phật,
nhưng chúng không phải là Phật. Chúng chỉ là Phật
biểu tượng,
không phải thực sự là
Đức
Phật.
Quý vị
cũng thế: đã
phát nguyện theo giáo lý của Phật, quý vị đã chính thức được xem là người xuất
gia, nhưng quý vị chưa là tu sĩ thực thụ. Điều này có nghĩa là tâm quý vị chưa
hoàn toàn đầy đủ
từ, bi, hỷ và xả. Quý vị chưa hoàn toàn thanh tịnh,
quý
vị vẫn còn tham, sân và si-
các chướng ngại này
cản trở sự
hình thành người tu sĩ thực thụ trong quý vị.
Các thứ
uế nhiễm này quý vị đã mang trong mình từ rất lâu: từ ngày mới chào đời, từ bao
kiếp trước. Quý vị đã được nuôi dưỡng bằng lòng tham, sân và si từ bấy cho đến
nay. Vì thế,
khi những người như quý vị xuất gia thành tu sĩ, thì quý vị vẫn là những tu sĩ
hình thức.
Quý vị vẫn còn sống với tham, sân và si trong tâm. Người tu sĩ thực thụ phải
buông bỏ các uế nhiễm này. Họ đã xua tham, xua sân và xua si ra khỏi tâm mình.
Trong họ không còn chất độc, không còn gì nguy hại. Nếu quý vị vẫn mang trong
mình các chất độc, thì quý vị chưa phải là người tu sĩ thực thụ. Quý vị phải
xua đuổi những thứ này ra khỏi tâm để được thanh tịnh.
Vì thế,
quý vị phải bắt đầu cố gắng
đoạn
diệt tham, sân và si, là các uế nhiễm nổi trội trong từng cá nhân. Chúng khiến
ta trôi theo sinh tử luân hồi. Lý do quý vị không tìm được sự bình an là vì
tham, sân và si là những chướng ngại cản trở sự bình an, tĩnh lặng,
phát khởi bên trong quý vị. Và khi nào những điều này chưa xảy ra, quý vị chưa
thực sự là người xuất gia. Nói cách khác là tâm quý vị
còn bị
tham, sân và
si
chi phối.
Lý
do quý vị đã đến đây tu tập
là để
diệt trừ
tham, sân và si ra khỏi tâm. Một khi đã bứng được tham, sân,
si ra khỏi tâm, quý vị sẽ được thanh tịnh.
Lúc ấy, quý
vị sẽ trở thành người tu sĩ thực thụ. Vì thế,
hãy xây đắp người tu sĩ thực thụ trong tâm quý vị,
bằng phương tiện của trái tim –chứ không phải
bằng hình thức bên
ngoài hay bằng
bất cứ thứ gì khác.
Khi tu
tập để trở thành người tu sĩ bằng những phương tiện từ trái tim, quý vị không
chỉ sử dụng tâm mình.
Có
hai thứ: một là thân; hai là lời nói- phải lưu tâm đến cả hai. Trước khi
nói hoặc làm điều
gì,
hãy xem
chúng có
phải xuất
phát từ trái tim
hay không.
Các pháp đều do ý
dẫn đầu.
Như
vậy, tâm và hành động luôn
liên hệ với nhau.
Khi nói
về tâm, vẻ đẹp của
thiện
tâm, sự sáng bóng của tâm
cao thượng hay tĩnh lặng,
thì cũng giống như ta đang nói đến những trụ cột bằng gỗ bóng láng. Chúng ta
dùng gỗ để làm cột hay làm mặt bằng –nhưng trước khi chà mịn, làm bóng, đánh
vẹt-ni để gỗ thêm đẹp- đầu tiên người ta phải xẻ gỗ từ cây. Họ phải cắt các
ngọn thô, xẻ và cưa gỗ -nhiều thứ lắm. Tâm ta cũng giống như cây. Chúng ta
phải bắt đầu bằng tâm thô ráp, rồi gọt bỏ các phần thô ráp, gọt bỏ gốc rể, cành
lá, vỏ cây, bỏ hết tất cả những gì không láng mịn. Quý vị phải cắt bỏ tất cả
những phần đó cho đến khi miếng gỗ đã đẹp, và đều đặn. Miếng gỗ được đẹp ra và
đều đặn chính vì nó đã trải qua các giai đoạn thô ráp.
Đối với
những ai đang tu tập thì cũng giống như thế. Quý vị đến đây để làm cho tâm trí
mình được thanh tịnh và bình an là chuyện tốt, nhưng
điều này
không phải
dễ với những người
vốn nhiều tham ái.
Chúng ta phải bắt đầu với những thứ ở bên ngoài –ở thân, ở lời nói- rồi từ đó
tiến vào bên trong. Có vậy ta mới dần trở nên sạch, nên bóng, nên đẹp. Giống
như một chiếc bàn hay cái giường đã được đóng xong. Hiện giờ trông chúng đẹp
lắm, nhưng chúng từng xấu xí, thô kệt. Chúng từng là cây, là thân cây. Rồi ta
cắt cây –đốn thân, tỉa cành lá- vì đó là cách ta phải làm để cây có thể trở
thành cái bàn hay cái giường, để nó có thể trở thành cái gì đó đẹp, tốt và thanh
thoát. Như con đường đạo đức
mà Đức
Phật đã đề ra. Đây là con đường giới, định và tuệ, con đường đưa đến thanh
tịnh, đưa đến việc trở thành một người xuất gia
giải thoát.
Con
đường đoạn diệt
tham, sân và si bằng giới, định và tuệ. Không khác gì việc làm ra cái bàn, cái
giường này. Khi chúng ta so sánh các pháp ở bên ngoài và các pháp ở nội tâm như
trên, chúng không khác gì nhau.
Vì thế
khi Sư huân tập các thói quen cho quý vị-
khuyên
quý vị nghe
Pháp, tụng kinh, ngồi thiền- các hành
động này sẽ
bào dũa tâm quý vị. Chúng gọt, chúng bào vì tâm quý vị dễ duôi, biếng nhác.
Tâm dễ duôi, biếng
nhác
đó không thích làm bất cứ thứ gì gây khó chịu cho nó, đối đầu với nó. Nó không
muốn những thứ đó; không muốn thực hành những thứ đó. Đó là lý do tại sao quý
vị phải nỗ lực chịu đựng. Tất cả mọi người đều phải kiên trì và kham nhẫn để
vượt qua và tiếp tục thực hành chúng. Thí dụ về thân: nó đã quen phóng túng,
hưởng lạc, làm đủ thứ chuyện, nhưng giờ quý vị kiềm chế nó, đó là điều khó. Lời
nói của quý vị thường không giữ gìn, nhưng giờ quý vị cẩn trọng với chúng, đó là
điều khó. Nhưng dầu có khó, ta cũng không để chúng cản trở ta. Giống như cây
gỗ
kia, trước
khi có thể biến nó thành cái bàn hay cái giường, chúng phải trải qua nhiều giai
đoạn. . Để có được cái bàn hay cái giường chúng ta phải giải quyết những phần
thô ráp của cây.
Chúng ta
cũng thế.
Khi
Đức
Phật giáo huấn để các đệ tử của Ngài đạt được tâm tỉnh thức,
các vị ấy, trước
khi thọ giới đều là những người bình thường –bình thường như chúng ta. Họ cũng
có các phần thân thể -chân tay, mũi, mắt- như chúng ta; tham, sân như chúng ta.
Họ không có bất cứ yếu tố, đặc điểm gì khác chúng ta. Đức Phật cũng thế; các vị
đệ tử của Ngài cũng thế. Nhưng tất cả họ đã khiến những việc không thể thành có
thể; những gì chưa tốt đẹp thành tốt đẹp; những gì chưa chuẩn mực thành chuẩn
mực. Đây là chân lý từ ngàn xưa cho đến hôm nay. Sư đã ban giới cho đủ thành
phần –nhà nông, doanh nhân- những người đã nếm trải đủ mọi cảnh dục lạc. Đó là
những người Sư đã ban giới, đã huân tập họ. Và nơi đây luôn có khả năng rèn
luyện họ tu tập.
Vì thế,
hãy nhớ rằng quý vị cũng giống như các vị thánh trong quá khứ. Quý vị có cùng
các uẩn. Quý vị có thân, cũng như họ. Quý vị có cảm xúc –buồn, vui- cũng như
họ. Quý vị có tưởng –nhận thức và đánh giá- giống như họ. Quý vị có hành, có
thức –tốt, xấu: tất cả mọi thứ, giống như họ. Như thế mỗi vị ở đây đều có thân,
tâm giống như các vị đệ tử của Phật trong thời quá khứ. Quý vị không có gì khác
cả. Các vị thánh đệ tử của Phật khởi đầu cũng là những người bình thường. Có
kẻ sai lầm, có kẻ ngu si, có người tầm thường, có người thánh thiện –giống như
quý vị. Họ không khác gì quý vị. Như thế cũng như đức Phật ngày xưa tiếp nhận
các vị ấy và giáo huấn để họ tu tập hầu đạt được đạo quả thánh, Sư ngày nay cũng
tiếp nhận mọi người đến tu học –để phát triển giới, định, tuệ.
Giới,
định và tuệ là tên các pháp tu của chúng ta. Khi quý vị thực hành giới, định,
tuệ, quý vị thực hành ngay nơi bản thân. Thực tập ngay nơi bản thân, đó là đối
tưọng của chúng ta. Chúng ta nhắm đến giới ngay tại đây, nhắm đến định ngay tại
đây. Tại sao? Vì thân ở ngay tại đây với ta. Giới là việc của toàn thân, tất
cả mọi phần mà đức Phật dạy ta chú tâm đến. Qua giới, quý vị học cách chăm sóc
thân. Ai mà không có thân?
Chúng ta có tay; chúng ta có chân. Chúng ta ai cũng có thân. Đó là nơi chúng
ta cần giữ giới. Để giới phát triển, chúng ta phải quan tâm đến cái thân mà ta
đang sở hữu. Với lời nói cũng thế: Dầu quý vị có nói lời dối trá hay lời chia
rẽ, lời thô tục, hay
phù
phiếm, dầu quý vị có dùng thân mình để giết hại chúng sanh, ăn cắp của người hay
tà dâm –tất cả những
hành động đó
đều là những thứ nằm ngay nơi quý vị. Quý vị có thân,
có ngôn ngữ. Những thứ này nằm ngay nơi quý vị. Vì thế khi
thực tập kiềm chế, quý vị hãy
quan sát chúng. Thí dụ, quán sát sự sát hại, trộm cắp, hay tà dâm. Đức Phật
dạy ta phải quán sát những hành vi thô thiển nơi thân. Sát hại là sử dụng tay
chân hay vũ khí để giết súc vật, dù lớn hay nhỏ. Đây là cái thô –là loại việc
quý vị vẫn thường làm trước khi bắt đầu nguyện giữ các giới. Quý vị đã phạm
giới. Rồi có những lúc mà quý vị không kiềm chế được ngôn ngữ: nói dối, nói lời
chia rẽ, thô tục, hay
phù
phiếm. Nói dối là bóp méo sự thật. Lời thô tục nhằm hạ nhục người khác một
cách không thương tiếc: “Đồ heo! Đồ chó!”,
Phiếm luận là nói vui về nhiều thứ chuyện chẳng nhằm mục đích gì, nói bất cứ thứ
gì hiện lên trong đầu. Những điều này tất cả chúng ta đều đã phạm trong quá
khứ. Chúng ta đã không thực tập kiềm chế. Nhưng giờ, khi chúng ta giữ giới:
chúng ta quán sát thân; chúng ta quán sát lời nói của mình.
Ai làm
công việc quán sát đó? Quý vị đã đem ai ra làm việc quán sát đó? Khi quý vị
giết một con vật, ai biết? Tay quý vị có biết không? Hay ai vậy? Khi quý vị
ăn cắp gì đó, ai biết? Tay quý vị có biết không? Hay ai vậy? Khi quý vị phạm
tội tà dâm, ai là người biết đầu tiên? Thân quý vị biết phải không? Khi quý vị
nói lời thô tục hay chuyện phiếm, ai là người biết đầu tiên? Miệng quý vị phải
không? Hay ngôn ngữ biết? Hãy suy nghĩ về điều đó. Ai là người đã biết, hãy
để người đó quán sát thân và lời nói của quý vị. Ai là người đã biết, hãy để
người đó canh giữ quý vị. Hãy đem kẻ đã khiến người khác hành động –khiến họ
làm tốt, khiến họ làm xấu- hãy đem kẻ đó ra làm người canh giữ chúng. Hãy
bắt kẻ cắp và cho hắn làm trưởng làng. Hãy để kẻ đó chăm sóc kẻ khác. Hãy
để kẻ đó quán chiếu.
Khi được
dạy phải xem xét hành động của thân, ai là người sẽ xem xét? Thân thì chẳng
biết gì. Thân bước đi, dẫm đạp, đến nơi này nơi kia. Tay ta cũng thế: chúng
chẳng biết gì cả. Chúng chỉ biết cầm nắm, sờ mó thứ này thứ kia –nhưng chỉ khi
có ai bảo chúng làm thế. Chúng cầm thứ này lên, rồi để xuống. Rồi lại cầm lên,
rồi vứt đi để lấy thứ khác. Trong mọi trường hợp đều có người khác bảo chúng
làm thế. Chúng không biết gì cả. Phải có ai đó bảo chúng, ra lệnh cho chúng.
Với miệng cũng thế: Dầu nó nói dối hay nói thật, nói lời chia rẽ hay thô tục,
phải có ai đó bảo nó.
Vì lý do
đó, khi tu tập, chúng ta thiết lập chánh niệm –khả năng kiềm chế - ngay nơi kẻ
biết, kẻ thức tỉnh. Nếu ta ăn cắp, giết hại, tà dâm, nói dối, nói chia rẽ, thô
tục hay chuyện phiếm –bất cứ thứ gì- chính là kẻ biết đã dẫn dắt để ta hành động
hay nói năng như thế. Hãy bám theo, dù kẻ ấy đến nơi nào. Luôn tỉnh
giác,
chánh niệm theo liền với kẻ biết, để nó quán sát các pháp, để nó tỉnh thức.
Đó là lý
do tại sao giới luật của Phật nói đến các pháp thô:
sát sanh
là ác; đó là phạm giới. Trộm cắp là sai. Tà dâm là sai. Nói dối là sai. Nói
lời thô tục hay phù
phiếm là sai. Đây là những
điều học
ta phải nhớ. Chúng là giới của
Đức
Phật, là luật của đức Phật. Vì thế từ giờ quý vị phải cẩn thận về chúng. Kẻ
từng phạm chúng –kẻ thường ra lệnh cho ta giết thú vật, nói thô tục, chuyện
phiếm, hành động không kiềm chế qua nhiều cách –ca hát, nhảy múa, hút gió, chơi
nhạc cụ: kẻ từng bảo ta làm những việc này giờ trở thành người canh giữ hành
động của chúng ta. Chúng ta sử dụng chánh niệm –tỉnh
giác-
để nó thực tập kiềm chế,
tự
canh giữ cẩn
thận.
Nếu tâm
có thể tự gìn giữ, thì thân cũng không khó quán sát. Vì thân nằm dưới sự điều
khiển của tâm. Lời nói cũng không khó kiềm chế, vì lời nói cũng nằm dưới sự
điều khiển của tâm.
Như vậy,
việc gìn giữ giới –gìn giữ thân và lời nói- không khó. Trong mọi oai nghi chúng
ta đều biết –đi, đứng, nằm hay ngồi- tất cả mọi
hoạt động
là của pháp. Quý vị phải biết mình sắp làm gì trước khi làm, biết mình sắp nói
gì trước khi nói. Đừng nói hay hành động trước khi biết mình đang làm gì. Phải
biết trước, chỉ khi đó mới nói hay hành động. Hãy chánh niệm -tự tại- trước khi
quý vị nói hay hành động như thế nào. Trước hết quý vị phải tự tại,
tức là phải tỉnh giác trọn vẹn ở ngay đây và bây giờ.
Thân ở đâu, tâm ở đó -
Hãy thực tập điều này cho đến khi quý vị thuần thục. Thực tập làm chủ. Phải
nhanh chóng trong việc trở về làm chủ mình trước khi hành động, làm chủ mình
trước khi nói. Hãy thiết lập chánh niệm như thế trong tâm quý vị. Hãy để
cái
biết tự lo cho bản thân – vì chính
cái biết
là người hành động,
là
người làm chủ hành, nếu quý vị
hành động mà không có sự
hiểu biết rõ ràng
thì sẽ thất bại. Quý vị phải để
chánh niệm – cái biết
tự
chăm sóc bản thân. Nếu không
để chánh niệm
tự chăm sóc, thì mọi thứ đều hỏng.
Đức Phật
đã dạy rằng việc giữ giới không khó, nếu quý vị biết giữ gìn bản thân. Nếu bất
cứ ác hại nào có thể phát khởi nơi thân hay lời nói, thì với sự có mặt của chánh
niệm, quý vị sẽ nhận ra chúng ngay. Quý vị sẽ cảm nhận được điều đúng, sai. Đó
là cách giúp quý vị giữ giới
dễ dàng.
Thân và khẩu phụ thuộc vào quý vị. Đó là bước đầu tiên. Nếu quý vị có thể gìn
giữ hành vi nơi thân và khẩu, thì chúng sẽ tốt đẹp,
thoải
mái. Cung cách của quý vị, việc đi đứng, lời nói của quý vị, tất cả đều tốt
đẹp. Nét đẹp này là cái đẹp đến từ việc có người uốn nắn, nặn khuôn chúng
–người luôn theo dõi chúng và quán chiếu về chúng không ngừng nghỉ. Giống như
nhà ta, thất ta và môi trường chung quanh chúng
ta.
Nếu có ai đó luôn chăm lo, quét dọn, thì chúng sạch đẹp.
Và vì
luôn có người chăm lo nên chúng
sẽ luôn
sạch đẹp.
Với các
hành vi ở thân và khẩu cũng thế: nếu có người chăm lo, quán sát thì chúng cũng
tốt đẹp. Việc xấu ác, thô tục, nhiễm ô không thể phát khởi. Sự tu tập của quý
vị được tốt đẹp. Fidi-kalya.a., majjhe-kalya.a., pariyosana-kalya.a.:
Tốt đẹp ở phần đầu, tốt đẹp ở phần giữa và tốt đẹp ở phần cuối. Những lời này
có nghĩa là gì? Phần đầu là giới; giữa là định; và cuối là tuệ. Các pháp này
thật tốt đẹp. Chúng bắt đầu bằng việc tốt đẹp ở giai đoạn đầu. Nếu bắt đầu đã
tốt đẹp, thì đoạn giữa cũng tốt đẹp. Nếu quý vị có thể thực tập kiềm chế dễ
dàng, lúc nào cũng cẩn thận, cũng gìn giữ tới mức độ mà tâm quý vị được thiết
lập một cách vững vàng trong việc quán sát các pháp. Thực tập kiềm chế, luôn
chú tâm, luôn bám chắc vững chãi trong các hành động, vững chãi trong việc kiềm
chế, được gọi bằng một cái tên khác. Đó là “định”.
Đặc tính
của việc thực tập kiềm chế,
là
luôn thận
trọng các hành động
của
thân, thận trọng
lời nói, thận trọng
tất cả các pháp phát khởi lên ở thân và khẩu: Đó được gọi là “giới”. Đặc tính
của trạng thái vững chắc trong việc
chú tâm,
được gọi là “định”, sự bình ổn của tâm.
Chú tâm
trọn vẹn
với điều này
này, chú tâm trọn
vẹn đối với đối tưọng kia, luôn chú tâm.
Đây được gọi là định. Cấp độ định này ở bên ngoài, nhưng nó cũng ở trong tâm.
Hãy chắc chắn là quý vị luôn ở trong trạng thái này. Đây là điều tiên quyết.
Khi quý
vị kiên định trong các pháp này –khi quý vị có giới và định- thì quý vị cũng có
phẩm chất của sự
quan sát,
quan sát tự sẽ thấy
điều gì đúng, điều gì sai. “Việc này đúng không?” “Vậy có sai không?” Những
câu hỏi này sẽ phát khởi đối với mọi
cái thấy
trong tâm: khi tiếp xúc với cảnh, khi nghe âm thanh, khi ngửi, khi nếm, khi
tưởng. Cái
biết
sẽ hiện ra, có khi buồn, có khi vui, hay trung tính. Nó sẽ biết
rõ đâu là
chánh kiến, tà kiến. Quý vị sẽ thấy đủ thứ chuyện. Nếu quý vị biết
cẩn thận
kiềm chế,
quý vị sẽ thấy đủ thứ chuyện xảy ra, cũng như các phản ứng trong tâm, nơi
cái
biết. Quý vị sẽ có thể quán tưởng về chúng. Vì quý vị đã thực tập kiềm chế, và
kiên định trong việc kiềm chế của mình, thì dù bất cứ điều gì xảy ra, phản ứng
nơi thân, khẩu và ý sẽ hiển lộ. Các pháp tốt hay xấu, đúng hay sai sẽ phát
khởi. Và khi quý vị chọn lựa các kiến
tri
chánh đáng, điều đó được gọi là “một lớp mỏng của trí tuệ”. Tuệ này sẽ xuất
hiện trong tâm quý vị. Nó được coi là bao gồm cả ba: giới, định, tuệ. Đó là
cách chúng phát khởi trước tiên.
Điều xảy
ra kế tiếp sẽ là sự bám víu. Đây là giai đoạn quý vị bám víu vào cái thiện.
Quý vị sợ tâm xao lãng hay sai lầm về nhiều phương diện, sợ rằng tâm định của
quý vị sẽ bị hủy diệt. Hiện tưọng này xảy ra vì quý vị rất trân trọng trạng
thái định của mình. Quý vị rất bảo thủ, rất tinh tấn, rất kiên định. Bất cứ
tư tưởng
nào khởi lên, quý vị cũng sợ hãi,
lo
lắng,
quan
tâm. Quý vị sẽ thấy người này, người nọ hành động sai trái, quý vị thấy tất cả
mọi thứ. Quý vị rất chấp thủ. Đó là một cấp độ của giới, của định, của tuệ:
một cấp độ ở bên ngoài. Quý vị sẽ nhìn mọi thứ qua các giới luật của đức Phật.
Đây là giai đoạn khởi đầu. Nó phải được thiết lập trong tâm quý vị.
Nó phải có mặt trong tâm quý vị. Các phẩm chất này nổi bật lên trong tâm
–đến độ đi tới đâu, quý vị cũng thấy mọi người hành động sai trái. Quý vị sẽ
thấy buồn, thấy vui, quý vị bắt đầu có tâm
hoài
nghi về
đủ thứ chuyện. Quý vị luôn chăm chăm để tìm cái sai của người. Đó là việc làm
quá mức, nhưng,
vấn đề vẫn
không phải là ở đó.
Lúc ấy,
hãy cứ để nó quá mức như thế,
chỉ quan sát thôi. Nhưng trước tiên phải luôn thận
trọng
các hành động
nơi thân, gìn giữ lời nói, gìn giữ tâm càng nhiều càng tốt. Như thế sẽ không
thể có gì sai trái.
Đó là một
cấp độ của giới. Ở
cấp độ này
Giới, định, tuệ, đều có mặt.
Tuy nhiên, đây
chỉ
là cấp độ của sự
hướng
thiện,
một cấp độ mà do
tinh tấn tu tập
quý vị đã đạt được:
bố
thí ba-la-mật, trì giới ba-la-mật (dāna-pāramī,
sīla-pāramī).
Giai
đoạn kế tiếp –
dāna-upapāramī, sīla-upapāramī (sự
bám víu vào bố thí ba-la-mật, vào trì giới ba-la-mật) (1) -là cấp độ mà quý vị
phải vượt lên.
Để
lên một cấp độ tinh tế hơn. Giống như quý vị chắc lọc cái tinh túy ra khỏi cái
thô ráp mà thôi. Quý vị không phải tìm đâu xa để vượt lên cấp độ kế tiếp. Khi
quý vị đã thiết lập được cái nền tảng này, thực hành nó trong tâm ở giai đoạn
đầu, thì quý vị phát triển được ý thức lương tri, một cảm giác sợ ở nơi đông đúc
hay ở chốn riêng tư. Tâm quý vị luôn căng thẳng, sợ hãi. Tâm luôn lo lắng với
việc làm đúng hay sai. Nó luôn quan tâm đến việc thực hành kiềm chế các hành
động nơi thân và khẩu, luôn kiên định như thế,
luôn
bám vào đó thật chặt. Đó là giới, định, tuệ theo đúng như
Đức Phật đã chế định.
Khi quý
vị tiếp tục quán sát các pháp như thế, tiếp tục thực hành không ngừng nghỉ, tiếp
tục, tiếp tục, theo cách đó, các phẩm hạnh này sẽ nở đầy trong tâm quý vị.
Nhưng giai đoạn của giới, định, tuệ này chưa phải ở cấp độ của
minh sát.
Các pháp vẫn còn khá thô,
bản chất của giới, định, tuệ vốn rất
tinh tế. Ở giai
đoạn đầu này, do mới
chắc lọc từ cái bình thường, từ những người bình thường,
chưa từng làm những điều này trước đó, chưa từng kiềm chế hành vi của mình trước
đó, chưa từng hành thiền, chưa từng tu tập trước đó. Nên đối với họ,
đạt được
cấp độ này
đã là cái thấy
tinh tế.
Giống như
đối với người nghèo thì năm, mười đồng cũng có ý nghĩa. Nhưng với những người
có tiền triệu, thì năm, mười đồng không có ý nghĩa gì. Nó là như thế. Khả năng
buông bỏ được các hành ác dưới dạng thô của quý vị chỉ có ý nghĩa đối với những
người bình thường chưa bao giờ biết buông bỏ. Vì thế quý vị có thể tự hào khi
đạt đến cấp độ này. Quý vị đã hoàn toàn khắc phục được giai đoạn này. Quý vị
sẽ tự mình nhận ra điều đó. Tất cả những ai tu tập đều phải giữ điều đó trong
tâm.
Khi điều
đó xảy ra, quý vị nói rằng mình đang đi trên con đường của giới, con đường của
định, con đường của tuệ: giới, định, tuệ, cả ba đều có mặt. Không thể tách rời
chúng ra. Khi quý vị trì giới tốt, tâm định của quý vị càng kiên cố thêm. Khi
tâm định tĩnh, tuệ càng sắc bén hơn. Chúng trở thành đồng nghĩa với nhau.
Quý vị
không ngừng tu tập, tiếp tục, tiếp tục như thế. Không gián đoạn, đó là cách tu
tập đúng. Nên nếu quý vị thực tập theo cách đó, là quý vị đã bước vào giai đoạn
đầu trên con đường tu tập. Đây là cấp độ thô,
mặc dù vẫn
còn khó để
duy trì, nhưng các giai đoạn tinh tế của giới, định, tuệ, tất cả đều từ đó mà
ra. Dường như tất cả đều được chắc lọc từ một nguồn. Nói một cách đơn giản, nó
giống như cây dừa. Cây dừa hút nước thường qua thân, nhưng khi nước đến các
trái dừa, nó trở nên sạch và ngọt. Nước dừa đó là từ nước thường, từ thân cây,
từ đất cát thô mà ra. Nhưng khi nước đã được thấm vào cây, nó được chắc lọc
lại. Cũng là nước đó nhưng khi thấm vào cây dừa, nó trở nên sạch
và
ngọt hơn.
Cũng thế, giới, định, tuệ trên con đường đạo của quý vị còn thô, nhưng nếu tâm
quán chiếu các pháp này cho đến khi chúng ngày càng trở nên tinh luyện, thì chất
thô của chúng sẽ biến mất. Càng ngày chúng càng trở nên tinh túy hơn, những
hành động của thân, khẩu được gìn giữ từ
trong tâm,
nó trở nên dễ dàng. Các pháp trở nên gần gủi với quý vị hơn.
Ở giai
đoạn này, quý vị không còn phạm các lỗi nặng. Chỉ là khi có bất cứ vấn đề gì
khởi lên trong tâm, thì các câu hỏi phát khởi. Thí dụ, “Hành động như vầy là
đúng hay sai?” Hay: “Nói những lời này có tốt không?” “Nói như thế này có sai
không?”: đại loại như thế. Quý vị buông bỏ các pháp và ngày càng gần hơn, gần
hơn với nội tâm –tiếp tục, tiếp tục gần hơn với nội tâm. Định của quý vị cũng
vững chãi hơn; trí tuệ của quý vị dường như sáng hơn, nhìn các pháp dễ dàng hơn.
Kết quả
là quý vị chỉ nhìn sự vật qua con mắt tâm và
cái thấy
của nó. Quý vị không tách biệt giữa thân và khẩu. Quý vị
không tách biệt bất cứ thứ gì. Khi chúng ta nói về những vấn đề của thân và
tâm, thân và tâm tùy thuộc lẫn nhau. Quý vị sẽ thấy cái gì điều khiển thân:
chính là tâm. Bất cứ thân làm gì cũng đều do tâm. Trước khi tâm điều hành
thân, do các duyên
tiếp xúc với tâm và hành khiển tâm. Vì thế khi quý vị tiếp tục quay vào quán
chiếu nội tâm, thì dần dần sự tinh tế của quý vị sẽ được phát triển. Cuối cùng
thì không có gì ngoài tâm và
cái thấy
(preoccupations) của nó. Nói cách khác, thân là một hiện
tưọng vật lý, trở thành phi vật lý (non-physical). Do tâm
không nắm giữ thân theo tính vật lý
sở hữu
của nó. Nó biến tính vật lý này của thân thành phi vật lý; chính là
do
tâm
(danh pháp) và thân ( sắc pháp) duyên khởi với nhau.
Cuối cùng thì các pháp đều là sản phẩm của tâm và
ảo tưởng
của nó –những ảo
tưởng
phát khởi cùng lúc nơi tâm của chúng ta. Đây chính là nơi chúng ta
cầ
khám phá, đo
lường bản chất tâm. Tâm không có vấn đề gì. Nó giống như một mảnh vải hay một
lá cờ được cột ở đầu ngọn cờ, và chỉ ở đó: Không có gì xảy ra cả. Hay như một
chiếc lá được để tự nhiên: Nó nằm yên; không có gì xảy ra. Khi chiếc lá phe
phẩy đó là vì một cái gì đó: là gió. Bản chất của chiếc lá tự nó là yên, không
động đậy, không phiền hà gì tới ai. Khi nó chuyển động là do có điều gì đó tiếp
xúc với nó. Khi gió chạm vào, chiếc lá phe phẫy.
Bản chất
của tâm cũng thế. Không thương, không ghét, không trách móc ai. Nó ở yên như
thế -trong điều kiện thật thuần khiết, rõ ràng và trong sạch. Nó ở yên, không
vui, không buồn, không có bất cứ cảm thọ nào. Đó là trạng thái chân thật của
tâm. Lý do chúng ta tu tập là để khám phá nội tâm, khám phá nội tâm cho đến khi
chúng ta đạt được tâm ban sơ đó: tâm ban sơ được gọi là tâm thuần khiết. Tâm
thuần khiết là tâm không có bất cứ vấn đề gì. Không có bất cứ
ảo tưởng
nào lai vãng. Nói cách khác, tâm đó không chạy đuổi theo các
ảo tưởng.
Nó không phê phán cái này hay cái kia, không tìm vui trong điều này hay điều
nọ. Nó không hạnh phúc vì pháp này, hay buồn khổ vì pháp nọ.
Do
vậy, tâm luôn ở trạng thái tỉnh thức. Nó luôn biết rõ điều gì đang xảy ra.
Nếu tâm ở
trong trạng thái này, thì khi các
vọng tưởng
ào đến –tốt hay xấu, bất kể
vọng tưởng
gì: khi chúng xuất hiện hay khuấy động, tâm nhận diện được chúng nhưng vẫn ở
yên. Tâm không có vấn đề gì. Nó không lay động. Tại sao? Vì nó tự giác. Nó
tự biết mình. Nó thiết lập được sự giải thoát tự bên trong mình. Nó ở trong
trạng thái ban sơ của mình. Làm thế nào mà tâm có thể tái tạo lại trạng thái
ban sơ của mình? Vì kẻ biết đã quán chiếu với sự tinh tế để thấy rằng tất cả
các pháp đều là tạo tác của đối tượng và các thành tố (manifestation of
properties and elements). Không có ai làm gì cho ai. Như khi vui hay buồn phát
khởi: khi vui phát khởi, đó chỉ là vui. Khi khổ phát khởi, đó chỉ là khổ. Nó
không có ai là chủ. Tâm không biến mình thành người sở hữu của niềm vui, hay
nỗi khổ. Nó quán sát các trạng thái này và thấy rằng nó không cần phải bám vào
thứ gì cả. Chúng chỉ là những vấn đề khác nhau, những pháp khác nhau. Lạc chỉ
là lạc, chỉ có vậy. Khổ chỉ là khổ, chỉ vậy. Tâm chỉ là cái biết của các pháp.
Trước
đây, khi có cơ sở của tham, sân và si, tâm sẽ bám vào những thứ này ngay khi
chúng xuất hiện. Nó sẽ bám vào lạc; nó sẽ bám vào khổ. Nó chạy ngay đến để
vung dưỡng chúng. “Chúng ta” bám lấy khổ và lạc không ngừng nghỉ. Đó là dấu
hiệu của một tâm không biết nó đang làm gì. Nó si mê. Nó không có tự do, giải
thoát. Nó chạy đuổi theo các
ảo tưởng
của mình. Tâm mà chạy đuổi theo các
ảo tưởng
là tâm nghèo nàn. Nếu
đối tượng
của nó tốt thì nó được tốt theo. Khi
đối tượng
của nó xấu, thì nó xấu theo. Nó quên bản thân, quên rằng bản chất nguyên sơ của
nó là không tốt, không xấu. Nếu tâm tốt theo với kiến chấp của nó, thì tâm đó
si mê. Khi pháp bất thiện phát khởi, nó cũng bất thiện; khi
khổ
khởi lên, nó cũng
khổ
theo; khi lạc đến, nó cũng lạc, tâm biến thành cả thế giới. Chúng
ảo tưởng về
thế gian.
Chúng dính mắc với thế gian. Chúng phát khởi theo lạc, khổ, tốt, xấu –đủ mọi
thứ chuyện. Và chúng cũng không chắc chắn về điều gì. Nếu tâm không ở trạng
thái nguyên sơ, thì không có gì chắc chắn. Không có gì ngoài sinh, tử, sợ hãi,
bất ổn,
tiếc nuối
và khổ đau
–không có gì ngoài những khó khăn triền miên. Tất cả mọi thứ đều không có cách
gì chấm dứt, chúng ta thấy là chúng ta phải tiếp tục sống theo cách chúng ta
từng sống trong quá khứ.
Còn tâm,
nó không có bất cứ vấn đề gì. Khi nó có vấn đề, đó là vì chúng ta bám víu vào
sự việc. Như sự khen, chê của người đời: Nếu ai đó nói, “Bạn là người xấu”,
tại sao ta
đau khổ? Ta
đau khổ vì ta nghĩ
rằng họ chỉ trích
ta.
Nên ta
nắm lấy đó, đem vào trong tâm mình. Hành động nắm lấy và đem vào trong tâm.
Hành động nắm lấy –biết và
chấp
lấy nó theo cách đó- là vì
ta
không sáng suốt,
không biết đó là gì, nên
ta chấp vào đó.
Khi quý vị làm như thế, đó được gọi là tự đâm sau lưng mình bằng cái chấp. Khi
quý vị tự làm tổn thương mình, đó là cách phát khởi của sinh. Nếu quý vị chẳng
để ý đến lời người ta nói hay chẳng chấp –khi quý vị coi những thứ đó chỉ là âm
thanh, chỉ có vậy- thì sẽ chẳng có vấn đề gì. Thí dụ một người Khmer nguyền rủa
quý vị: quý vị nghe, nhưng coi đó chỉ là âm thanh, âm thanh Khmer, chỉ vậy.
Chúng chỉ là âm thanh. Khi quý vị không hiểu nghĩa, không biết rằng người ta
đang nguyền rủa mình, thì tâm không bám víu. Vậy là quý vị được an ổn. Hoặc
một người Việt Nam hay người nào đó có ngôn ngữ khác với quý vị nguyền rủa quý
vị, thì quý vị chỉ nghe âm thanh. Quý vị bình thản vì quý vị không đem chúng
vào tâm.
Còn cái
tâm này: Nói về sự sinh diệt của tâm, những thứ này dễ hiểu thôi khi quý vị
tiếp tục quán chiếu như thế không dừng, không dừng quay vào bên trong. Tâm sẽ
ngày càng tinh tế vì nó đã trải qua những giai đoạn thô của việc tu tập. Định
của quý vị cũng vững chãi hơn trong nội tâm, trụ vào bên trong hơn. Nó càng
quay vào bên trong, ta càng chắc rằng trạng thái tâm này sẽ không bị ảnh hưởng
bởi bất cứ thứ gì, bởi bất cứ kiến chấp nào.
ảo tưởng
là ảo tưởng;
tâm là tâm. Khi tâm cảm thấy lạc hay khổ, tốt hay xấu, là vì nó để
ảo tưởng phát sanh nên ảo
giác làm
ảnh hưởng mình. Nếu không, tâm sẽ chẳng có vấn đề gì, tâm sẽ không lay động.
Trạng thái này được gọi là trạng thái tỉnh giác. Tất cả các pháp mà tâm biết
đều là tạo tác của các đặc tính và các yếu tố. Chúng đến rồi đi, đến rồi đi.
Mặc dầu
quý vị biết điều này, quý vị vẫn chưa buông bỏ được. Nhưng ở thời điểm này,
không quan trọng là quý vị có thể buông bỏ được hay không. Chỉ cần quý vị giữ
được sự tỉnh giác này hay tư duy này như là giai đoạn đầu trong việc tu tập
tâm. Quý vị cứ quay vào nội tâm, nghiền nát, hủy diệt các uế nhiễm không ngừng
nghỉ.
Lúc đó
quý vị sẽ thấy tâm dường như
thuận theo tự nhiên.
Đức Bổn Sư trong các kinh gọi đó là “sự chuyển tâm” (gotarabhu-citta).
Đây là tâm vượt lên tâm chúng sanh –tâm của người bình thường- để hướng đến làm
bậc thánh, từ người bình thường như chúng ta. Người đã chuyển được tâm bước vào
trạng thái tâm niết-bàn nhưng chưa thể đi đến tận cùng. Hành giả đó
thuận theo pháp
để tiếp tục tu tập ở một cấp độ khác. So sánh điều này với một người đang cố
gắng để vượt qua bờ bên kia. Một chân người ấy ở bờ bên này; chân kia thì cố
với qua bờ bên kia. Hành giả ấy nhận thức rằng có bờ bên này và bờ bên kia,
nhưng vị ấy chưa thể bước sang. Vì thế vị ấy
tùy thuận pháp
sau khi nhận thức được rằng các pháp này có mặt. Sau đó vị ấy tiếp tục phát
triển tư duy. Vị ấy nhận thấy việc này là chân thật, rằng đây là cách sự vật
hiện hữu, và rằng vị ấy cuối cùng phải đến được bờ bên kia.
Nói đơn
giản là ở thời điểm này, chúng ta nhìn thấy được phương cách tu tập của mình:
rằng nếu chúng ta thực sự quán chiếu về những gì đang xảy ra, chúng ta sẽ thấy
rằng tâm có con đường nó phải đi theo. Ta biết rằng bước đầu tiên trên đường tu
là niềm vui, nỗi buồn không phải là con đường chúng ta nên theo. Chúng ta phải
hiểu chắc về điều đó –và thực sự con đường đạo là như thế. Nếu quý vị vui, đó
không phải là con đường vì nó có thể làm phát khởi căng thẳng. Nếu quý vị khổ,
nó cũng có thể phát khởi căng thẳng. Chúng ta suy nghĩ như thế, nhưng chúng ta
chưa thể buông bỏ các pháp.
Vậy chúng
ta phải làm sao cho đúng? Chúng ta phải bỏ qua
mọi ảo tưởng về
cái vui, cái khổ, để cố gắng đi theo trung đạo. Khi quý vị có thể giữ điều đó
trong tâm, là quý vị đã đi đúng đường. Quý vị hiểu điều này, nhưng quý vị chưa
thể làm được. Chừng nào quý vị chưa thể làm được, là quý vị còn bị dính mắc vào
lạc hay khổ. Quý vị luôn biết mình bị dính mắc –và đó là khi quý vị có thể đi
đúng đường. Khi tâm chấp vào lạc như thế, chúng ta không tán đồng nó. Khi tâm
chấp vào khổ, ta không chê bai nó. Giờ ta chỉ quán sát chúng. Lạc, khổ
chỉ thuần túy là cảm thọ.
Chúng ta biết chúng không phải là con đường đạo. Chúng ta biết, tuy nhiên dầu
ta biết, ta vẫn không thể buông bỏ chúng. Không thể buông bỏ chúng, dầu ta
biết. Khi biết, ta không chấp vào lạc, ta không chấp vào khổ. Ta không chấp
vào trạng thái nào, và ta không nghi ngờ gì về điều đó, vì ta biết chúng giống
nhau ở điểm không phải là con đường đạo. Đây không phải con đường; đó cũng
không phải là con đường –nên chúng ta chọn khoảng giữa làm đối tưọng không thay
đổi.
Nếu chúng
ta có thể buông bỏ
mọi ảo tưởng về
lạc và khổ, trả lại
đúng bản chất như nó là,
thì đó là
con đường. Tâm ta sẽ bước vào đó và biết điều đó, nhưng nó vẫn chưa thể đi trọn
con đường. Vì thế
cần phải tùy thuận pháp
để tiếp tục thực hành.
Khi lạc
phát khởi và ta bị dính vào đó, thì ta hãy đem lạc làm đề mục quán chiếu. Khi
khổ phát khởi và ta chấp vào đó thì ta lấy khổ làm đề mục để quán chiếu –cho đến
khi thấy rõ nó
thuần túy chỉ là những cảm thọ của thân và tâm,
khi đó
tâm buông bỏ lạc, buông bỏ khổ, buông bỏ vui, buông bỏ buốn. Nó buông bỏ tất cả
mọi thứ trên đời. Tâm sẽ trở thành tất cả với thế giới (lokavidu-thế
gian giải), lỗi lạc về thế gian. Khi tâm buông bỏ, khi người giác ngộ buông bỏ,
tâm trụ ngay tại đó. Tại sao nó có thể trụ ngay đó? Vì nó đã bước vào đó trước
đây –nơi mà nó biết nhưng chưa thể với tới. Vì thế khi tâm dính vào lạc và khổ,
ta không lụy vì chúng, ta cứ cố gắng dẹp chúng qua một bên: Đó là khi ta đạt
đến cấp độ của một du già (yogavacara) –người đi trên con đường đạo nhưng
chưa đến đích. Những phương cách này là các pháp mà quý vị có thể chú tâm vào
trong từng giây phút của tâm. Quý vị không cần phải quan tâm về bất cứ điều gì
khác. Khi chúng ta bị dính vào phía nào, ta phải tự biết chắc chắn là chúng
sai, vì cả hai phía đều dính chấp vào thế gian. Lạc dính chấp vào thế gian,
Khổ cũng
dính chấp vào thế gian. Khi quý vị dính chấp trong thế gian, thế gian có thể
trở thành hiện hữu
(being). Tại sao? Thế gian này có thể sinh và có mặt vì
trí tuệ
của ta chưa đầy
đủ. Thế gian không thể có được trạng thái sinh từ bất cứ thứ gì khác
ngoài vô minh và tham ái.
Và vì trí tuệ
của ta không đủ để
soi chiếu,
nên
chúng ta bắt đầu phán đoán, thêu dệt các hư cấu .
Ngay đây
là nơi sự tu tập trở nên thú vị. Bất cứ chúng ta dính mắc vào thứ gì, ta
quan sát
nó ngay tại đó chứ không buông bỏ. Nếu dính chấp vào lạc, ta
quan sát
lạc ngay. Nếu khổ chi phối,
ta quan sát
khổ ngay. Tâm luôn tỉnh giác.
Nếu khổ hiện khởi,
ta tóm lấy nó ngay và quán chiếu về nó.
Đây là
nơi sợi chỉ bắt đầu được luồn vào lỗ kim. Tâm không lay động trước các
đối tượng
này nữa- và nó không chống lại các hành. Dầu sai, ta nhận biết mình sai. Tâm
không màng. Cái tâm rộng lớn này không màng.
Cũng
giống như khi đang đi và quý vị đạp nhầm gai. Chúng ta đâu muốn đạp gai, ta đã
rất cẩn thận, mà vẫn đạp nhầm gai. Ta đâu có vui vì điều đó, phải không? Ta
không vui vì đạp gai, khi đã biết con đường. Chúng ta biết đây là thế gian, đây
là khổ, đây là luân hồi. Chúng ta biết -tuy nhiên chúng ta vẫn đạp nhầm gai.
Tâm trôi theo dục lạc -hạnh phúc hay khổ đau - tuy nhiên chúng ta không bằng
lòng. Chúng ta cố gắng để xóa bỏ những thứ này, không ngừng xóa bỏ thế gian ra
khỏi tâm tưởng. Tâm ở thời điểm này luôn xây đắp, thực hành, phát triển: đây là
nỗ lực để tu tập. Tâm quán chiếu, tự nhủ về những gì đang xảy ra bên trong nó.
Các
loại pháp này: khi tâm bứng rễ khỏi thế gian, nó tiếp tục hướng vào bên trong,
hướng vào bên trong. Ở thời điểm này tất cả các bậc giác ngộ, khi họ biết, chỉ
biết mà không phản ứng. Tri thức của họ hòa đồng với các pháp, hoàn toàn sáng
suốt, và không tham dự vào bất cứ điều gì. Họ không còn ảo tưởng về điều gì. Họ
không tham dự vào gì. Họ biết, nhưng họ không dính mắc. Họ biết, nhưng để mọi
thứ xuống. Họ biết và buông xả. Vẫn còn có lạc ở đó, vẫn còn có khổ- hay bất cứ
là gì, chúng vẫn còn ở đó, nhưng tâm không dính mắc nữa.
Khi
chúng ta thấy điều này, chúng ta biết. Ồ! Tâm là thế đấy; các đối tượng là thế
đấy. Tâm tách biệt ra khỏi các đối tượng. Các đối tượng tách biệt khỏi tâm. Tâm
là tâm. Đối tượng là đối tượng. Khi quý vị ý thức về cả hai điều này thì khi
chúng tiếp cận, quý vị biết ngay lúc đó. Khi tâm tiếp xúc với đối tưọng, quý vị
biết ngay lúc đó.
Khi
vị hành giả luôn cảm nhận được điều này trong quá trình tu tập - dầu đi, đứng,
nằm, hay ngồi- đó được gọi là sự thực hành tu tập theo hình vòng tròn. Đó là sự
thực hành đúng. Chúng ta không đánh mất sự có mặt của tâm. Chúng ta không chỉ
quán sát các pháp thô. Chúng ta quay vào trong để quán sát các pháp tinh tế.
Chúng ta đặt những vấn đề ở bên ngoài qua một bên và chỉ quán sát tâm và thân,
hay chỉ tâm và các ảo tưởng của nó. Chúng ta quán sát chúng phát khởi, quán sát
chúng diệt đi, quán sát chúng sinh và diệt, quán sát chúng diệt và sinh – diệt,
sinh, sinh, diệt, diệt và rồi sinh, sinh và rồi diệt – cho đến cuối cùng ta chỉ
quán sát diệt: khaya-vaya sự kết thúc, tan rã. Kết thúc và tan rã là
trạng thái bình thường của chúng.
Khi
tâm giống như thế, nó không đuổi theo sự vật bất cứ nơi nào. Nó chỉ biết nó đang
làm gì. Khi thấy, nó chỉ thấy, chỉ có vậy. Khi biết, nó chỉ biết, chỉ có vậy. Nó
tự làm những điều này. Đây là thứ không thể thêu dệt.
Vì
thế đừng đi rêu rao về sự tu tập của mình. Đừng nghi ngờ điều gì. Điều này cũng
áp dụng cho việc giữ giới của quý vị, như tôi đã nói trước đây. Hãy quán chiếu
để biết điều gì sai và điều gì đúng. Khi quý vị thấy điều gì sai, hãy từ bỏ nó.
Đừng nghi ngờ gì. Với tâm định của quý vị cũng thế: Hãy khiến tâm im lặng,
khiến nó bình an. Nếu có tư tưởng phát khởi, đừng lo lắng về chúng. Nếu tư tưởng
vắng bặt thì cũng đừng lo lắng. Hãy làm quen với các hoạt động của tâm. Nhiều
người muốn tâm an tịnh nhưng họ không hiểu an tịnh là gì. Họ không hiểu sự bình
an của tâm.
Có
hai loại an tịnh: sự an tịnh của định và sự an tịnh của xả. Sự an tịnh của định
hời hợt, rất hời hợt. Sự an tịnh của định phát khởi khi tâm trở nên vắng lặng
vì không có bất cứ mối ưu tư nào – rồi sau đó nó dính mắc vào lạc. Nhưng khi
phải đối mặt với phiền não thì nó vỡ vụn. Nó sợ phiền não, sợ lạc, sợ khổ, sợ
sự chỉ trích, sợ sự khen, sợ nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt. Loại định này sợ tất cả mọi
thứ. Khi đạt được nó, quý vị không muốn giao tiếp với thế giới bên ngoài. Người
có loại định này chỉ ở trong hang động, bám víu vào lạc và không muốn ra ngoài.
Vị ấy trốn vào bất cứ nơi nào yên tĩnh. Loại định đó thật phiền não. Quý vị
không thể đi ra ngoài và sống với người khác. Quý vị không thể nhìn cảnh, nghe
âm thanh – quý vị không thể trải nghiệm điều gì. Quý vị cứ muốn ở nơi yên tĩnh:
quý vị không muốn ai nói gì. Nơi quý vị có mặt phải thật yên tĩnh.
Loại
an tịnh này vô ích. Vì thế khi đạt được cấp độ an tịnh đó, quý vị phải bước ra
ngoài. Đức Phật chẳng bao giờ dạy chúng ta tu tập như thế. Nếu quý vị đang tu
theo cách đó, hãy dừng lại. Khi quý vị an tĩnh, hãy thoát ra ngoài để quán
chiếu. Hãy dùng tâm an tĩnh đó để quán chiếu. Ứng dụng nó vào các đối tượng.
Dùng nó để quán chiếu về cảnh, âm thanh, mùi vị, lưỡi, xúc chạm, và ý. Hãy nhớ
trước hết phải thoát ra ngoài, rồi dùng sự tĩnh lặng để quán chiếu. Ví dụ quý vị
có thể quán chiếu về lông tóc trên đầu, trên thân, về móng, răng, da – đại loại
như thế. Quán chiếu về vô thường, khổ và vô ngã. Quán chiếu về tất cả vũ trụ.
Một
khi quý vị đã sử dụng tâm bình an để quán chiếu, thì khi đến lúc phải yên lặng,
hãy ngồi thiền, và để tâm phát khởi sự bình an bên trong. Sau đó đem sự bình an
đó ra ngoài lại để quán chiếu. Hãy sử dụng nó để tự rèn bản thân, để thanh lọc
tâm, để đối phó với các pháp. Khi quý vị phát triển sự tỉnh thức, hãy đem nó ra
ngoài để đối phó với các pháp. Sử dụng nó để huân tập bản thân, để tu tập – vì
nếu sự tỉnh giác của quý vị chỉ ở bên trong, thì quý vị không biết gì cả. Nó
chỉ làm cho tâm an. Hãy tiếp tục mang nó ra ngoài để quán chiếu những gì ở bên
ngoài và rồi để nó trở vào bên trong để an tịnh, giống như vậy lặp đi và lặp lại
cho đến khi mức độ bình an lớn của tâm phát khởi.
Về
sự an tịnh của xả: Khi tâm an tịnh, sau đó ra ngoài, thì tâm xả không ngại gì
cảnh, âm thanh, mùi, vị, xúc chạm và ý. Nó vô úy. Khi tiếp xúc với các pháp,
tâm biết chúng. Ngay khi các pháp tiếp xúc, tâm loại chúng ra, đặt chúng xuống,
để chúng đi. Đó là sự an tịnh của xả.
Khi
tâm đạt đến cấp độ này, nó tinh tế hơn sự an tịnh của định. Nó rất dũng mãnh.
Khi có sức mạnh, nó không chạy trốn. Khi có sức mạnh, nó không sợ hãi. Trước
kia chúng ta sợ hãi những điều này, nhưng giờ đã hiểu chúng, ta không còn sợ hãi
nữa. Ta biết sức mạnh của mình. Khi thấy cảnh, ta quán chiếu cảnh. Khi nghe
âm thanh, ta quán chiếu âm thanh. Đó là nhờ chúng ta biết quán chiếu. Chúng ta
có thể bám trụ vững. Chúng ta không sợ hãi. Bất cứ biểu hiện gì của pháp như
cảnh, âm thanh hay mùi vị, giờ khi ta thấy chúng, ta buông bỏ chúng. Bất cứ
chúng là gì, ta có thể buông bỏ tất cả. Khi cảm nhận lạc thọ, ta buông nó. Khi
cảm nhận khổ thọ, ta buông nó. Bất cứ ta thấy các pháp này ở nơi đâu, ta buông
bỏ chúng ngay tại đó. Chúng ta không ngừng để chúng qua đi tại đó, vứt bỏ chúng
ngay tại đó. Chúng ta không chấp vào bất cứ điều gì như một kiến chấp. Chúng
ta để các pháp ở nơi chúng có mặt. Chúng ta đã trở về nhà của mình.
Khi
thấy điều gì đó, ta vứt bỏ nó. Bất cứ ta thấy gì, ta quan sát. Khi đã quan
sát, ta buông bỏ. Thật ra tất cả các pháp này không có giá trị gì cả. Chúng
không làm gì được ta. Đây là sức mạnh của tuệ (thiền quán vipassana). Khi đạt
đến cấp độ này, có thể đổi tên thành “tuệ giác”. Chúng ta nhìn thấy các pháp rõ
ràng đúng như thật. Đúng vậy đó: Ta thấy các pháp rõ ràng đúng như thật. Đây
là một cấp độ cao hơn của an tĩnh: sự an tĩnh của tuệ giác.
Sự
an tĩnh mà ta đạt được qua thiền định rất khó. Vì nó khó đạt được, nên ta thực
sự sợ hãi khi đánh mất nó. Vì thế khi tâm tràn đầy an tĩnh, quý vị sẽ làm gì?
Quý vị mang nó ra ngoải để tu tập, để quán chiếu. Chớ sợ hãi, đừng để bị vướng
mắc. Khi hành thiền, thường thì quý vị không bám vào gì ngoài lạc thọ. Tuy
nhiên quý vị không được ngồi đó mà không làm gì kế tiếp. Hãy ra khỏi đó. Trên
chiến trường, quý vị được huấn luyện phải chiến đấu. Quý vị không được núp
trong hang, tránh đạn. Lúc lâm trận, khi súng nổ -Đoàn! Đoàn!- nếu quý vị đang
ở trong hang, quý vị phải đi ra khỏi hang. Lúc đó, quý vị không thể chiến đấu
bằng cách núp trong hang. Ở đây cũng thế. Quý vị không thể để tâm ẩn náu trong
đó.
Đó
là những gì quý vị phải trải qua trong những giai đoạn đầu với giới và định.
Quý vị phải tự rèn luyện bản thân theo đúng với kinh điển và phương cách đã được
vạch ra. Đó là con đường quý vị phải bước theo. Dầu gì, những gì tôi nói với
quý vị ở đây chỉ là những nét phác họa. Khi thực hành, quý vị chớ nghi ngờ điều
chi. Chớ nghi những lời giáo huấn này. Khi có lạc thọ, quán chiếu lạc. Khi có
khổ thọ, quán chiếu khổ. Sau khi quý vị quan sát nó, cố gắng để nó xuống, hủy
diệt nó, buông bỏ nó. Khi quý vị nhận ra các ảo tưởng, cứ để chúng qua đi. Dầu
quý vị muốn tọa thiền, đi kinh hành, hay quán tưởng các pháp, điều đó không quan
trọng. Hãy cố gắng tỉnh giác ngay giây phút hiện tại, đúng như những gì đang
xảy ra trong tâm quý vị. Nếu quý vị suy nghĩ nhiều, thâu tóm chúng lại rồi cắt
bỏ chúng bằng cách quán tưởng như sau: “Các pháp mà ta đang suy nghĩ, không là
gì ngoài tư tưởng, chỉ có vậy. Tất cả các pháp này đều vô thường, khổ và vô
ngã. Tất cả đều không chắc chắn”. Rồi buông bỏ chúng ngay tại đó.
Diệu
Liên Lý Thu Linh
2014
(Chuyển
ngữ theo Becoming A Samaṇa,,
trong
quyển Still, Flowing Water vừa được Sư Thanissaro, chuyển ngữ từ Thái qua
Anh ngữ (2013). Quyển sách có tám bài Pháp thoại, bài này và bài In The
Shape of A Circle là hai bài không có trong các ấn bản khác của Still,
Flowing Water). Bài pháp thoại này dùng một số từ Pali và khái niệm mà
người dịch thú thật là không thể tìm đâu ra tài liệu để chú giải, nên đã phải
cầu cứu đến sự giúp đỡ của quý sư. Cuối cùng Sư Thích Chơn Hữu, trụ trì chùa
Định Quang tại Huế đã ra hỗ trợ cho sự khiếm khuyết này bằng cách gửi phần chú
thích và nhuận sắc thêm cho bài dịch. Tuy nhiên dầu cố gắng nhiều, bài dịch
cũng còn nhiều thiếu sót, mong quý sư, quý đạo hữu chỉ bài thêm.
CHÚ
THÍCH
(1)
] Pàrami do
chữ "pàram" có nghĩa là "phía bên kia", hay sự sáng suốt, sự giác ngộ, và
chữ "i" là "đi". Theo nghĩa trắng, Pàrami là cái gì có thể đưa ta
qua bờ bên kia, "đáo bỉ ngạn". Phạn ngữPàramita cũng được dùng trong
nghĩa
Ba
La Mật có mười pháp. Mỗi pháp chia làm ba hạng là: Pàrami thuộc về tài
sản, sự nghiệp, vợ, con. Upàpàrami, thuộc về một, hay nhiều bộ phận trong
thân thể và Paramattha-parami, thuộc về mạng sống.
Thí
dụ như Bố Thí Ba La Mật có ba hạng: Dàna Pàrami, là bố thí tài sản,
sự nghiệp, hoặc vợ, con;Dàna upàpàrami là bố thí một bộ phận trong thân
thể như tay, chân, mũi, tai v.v...; và Dàna paramattha-pàrami là hy sinh
mạng sống mình cho kẻ khác, để cứu một chúng sanh.
Như
Trì Giới Ba La Mật, cũng có ba hạng là: Sìla Pàrami, hy sinh tài
sản sự nghiệp, hoặc vợ, con để giữ tròn giới luật; Sìla upàpàrami,
hy sinh một bộ phận trong thân thể để giữ tròn giới luật; vàSìla
paramattha-pàrami, hy sinh mạng sống để giữ giới luật trong sạch.
Cùng
một thế ấy, mỗi Ba La Mật đều có 3 hạng. Cộng chung tất cả, có (10 x 3) = 30 Ba
La Mật.