Minh
Thạnh
Tất cả nội
dung viết về thầy tôi, Hòa thượng Thích Minh Kiến, đều là những ghi nhận,
những suy nghĩ và cảm xúc chủ quan của tôi. Có thể đúng, có thể không
đúng, có thể chỉ đúng một phần.
Ngay cả
những ghi nhận vẫn có thể sai lệch, sau thời gian đã 30 năm. Còn những
suy nghĩ và cảm xúc là riêng của cá nhân tôi, không chắc là tôi nghĩ
đúng về thầy tôi, vì tôi chỉ biết một phần rất nhỏ về công việc của ông.
Nhưng tôi xin phép ghi lại đây để tưởng nhớ thầy, cũng như lưu lại một
số sự kiện và bình luận, có thể giúp ích cho việc tìm hiểu Phật giáo
miền Nam Việt Nam thời kỳ này, thời kỳ mà theo tôi, còn cần bổ sung
nhiều tư liệu cho việc tìm hiểu.
Thầy tôi,
khi đó là đại đức Thích Minh Kiến, Phó Tổng thư ký Viện Hóa đạo Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đã là một trong những chứng nhân lịch sử
quan trọng, là người trong cuộc trực tiếp đối với khúc quanh quan trọng
của Phật giáo Việt Nam. Còn tôi là đệ tử gần gũi với thầy trong thời
gian đó.
Thầy Thích
Minh Kiến tuy cũng biết tôi thọ giới với Thượng tọa Thích Hộ Giác khi đó,
luôn tự xác định mình là Phật tử Phật giáo Nguyên thủy, nhưng thầy vẫn
rất yêu mến tôi, coi tôi như đệ tử. Một phần vì tôi học ngành sư phạm
ngữ văn, ngành mà thầy yêu thích nhưng dang dở trong sự nghiệp (sau
1975, thầy phải từ giã công việc hiệu trưởng trường Bồ Đề). Tôi nghĩ, đã
có yếu tố, thầy coi tôi là tương lai của thầy trong khoa học về văn
chương và sư phạm, những ngành thầy đã theo đuổi có dáng dấp tình cảm
cha con bên cạnh tình cảm thầy trò.
Thật ra,
tôi không chọn ngành sư phạm, mà chỉ xem đây là bước quá độ, để sau đó
lại tiếp tục học một ngành khoa học xã hội để trở thành người làm công
việc nghiên cứu. Tôi là học sinh giỏi văn trong đội tuyển của TPHCM, nên
theo quy chế được tuyển thẳng vào Khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm. Nhưng
tôi ngại học Đại học Sư phạm, thuộc Bộ Giáo dục, phải cắt hộ khẩu, và
phân công đi tỉnh, nên chọn học Cao đẳng Sư phạm, thuộc Ủy ban Nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ công tác ở TPHCM, không cắt hộ khẩu, để sau
này thi lại đại học.
Thầy biết
tôi bỏ Đại học Sư phạm thì buồn phiền, nhưng cũng phải chấp nhận. Cho
nên tuy vậy thầy cũng hãnh diện về tôi, một trong những đệ tử ít ỏi học
tiếp lên trên sau phổ thông, và cũng ngành sư phạm, ngành của thầy.
Vì là đệ tử
nam, ít nhiều có trình độ, nên dù hết sức hạn chế nói về công việc giáo
hội với đệ tử, nhưng thầy đôi khi vẫn chia sẻ những suy nghĩ với tôi. Vì
vậy, tôi trở thành một Phật tử biết khá nhiều về Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống nhất, dù tôi không có chủ định tìm hiểu sâu. Rất tiếc, cũng vì
không định tìm hiểu, nên tôi không ghi chép lại gì cả, bây giờ chỉ viết
theo trí nhớ, nên rất có thể sai sót.
Lúc bấy giờ,
đại đức Thích Minh Kiến nhận trách nhiệm Phó Tổng thư ký Viện Hóa đạo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong tình trạng rất khó khăn, cả
về hoàn cảnh chung của hội lẫn đối với riêng cá nhân thầy.
Đối với
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, lúc này, vừa xảy ra sự kiện, sau
này thường gọi là “vụ 1977”, hay “vụ Thông tư số 2”, nhiều vị lãnh đạo
của Viện Hóa đạo vướng vào vòng lao lý. Những vị lãnh đạo còn lại thì
lúng túng, một số vị tìm kiếm quan hệ tốt hơn với chính quyền, nhưng nói
chung đều có tâm trạng bất an.
Đối với đại
đức Thích Minh Kiến lúc đó, thầy tuy trở thành thành viên Ban Chỉ đạo
Viện Hóa đạo, nhưng cũng có lúng túng, riêng thầy, vì thầy nhậm chức
không thông qua đại hội (kỳ 7). Điều đó, khiến thầy không hoàn toàn
thoải mái trong công việc.
Đây là công
việc rất nặng nề, vì phải thường trực giải quyết công việc, chỉ sau Hòa
thượng Viện trưởng Viện Hóa đạo. So với các vị Phó Viện trưởng, Tổng Vụ
trưởng, thì làm Phó Tổng thư ký, thực chất là làm công việc Tổng thư ký
trong khi vị Tổng thư ký vắng mặt, khó khăn vất vã hơn rất nhiều. Vì
vậy, trách nhiệm của Đại đức Thích Minh Kiến bấy giờ rất lớn, không chỉ
từ năm 1977 đến năm 1981, mà cả những năm sau đó, khi có nhiều người đòi
hỏi ở thầy “trách nhiệm” của một vị Phó Tổng thư ký Viện Hóa đạo.
KHÓ
KHĂN, MÂU THUẪN
Chúng ta đã
nói đến mâu thuẫn đè nặng lên thầy trước hết là mâu thuẫn giữa trách
nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn. Thầy nhận trách nhiệm với xác định chỉ là
người thừa hành chỉ đạo từ các hòa thượng, thượng tọa mà hầu hết các vị
đó đều ở vị trí sư phụ của thầy, thầy xưng “con” ở phần lớn trường hợp.
Thầy cũng không tránh khỏi điều có thể tạm gọi là “mặc cảm”, do không
phải được bầu từ đại hội.
Nhưng công
việc của thầy không phải là một người thư ký, mà là người làm nhiệm vụ
chánh văn phòng, tổng thư ký kiêm cả điều hành Tổng vụ Hoằng pháp. Mâu
thuẫn đó đặt thầy ở tư thế giằng co, dao động, giữa một bên thực chất là
người quyết định trong công việc thường trực và tham mưu để đi đến những
quyết định quan trọng và một bên não trạng người thừa hành, hàng đệ tử
không qua suy cử từ đại hội. Thực tế thầy phải chỉ đạo giải quyết nhiều
công việc, nhưng tôi chưa từng thấy một văn bản nào thầy ký tên, đóng
dấu tên mình trong chức vụ Phó Tổng Thư ký Viện Hóa đạo bao giờ, kể cả
đối với những việc thường trực, không đòi hỏi chịu trách nhiệm. Một số
văn bản thầy tế nhị chỉ đóng dấu treo nếu có thể, như lịch thuyết pháp
chẳng hạn. Theo tôi, không phải thầy lẫn tránh trách nhiệm, hay tỏ vẻ
khiêm nhường, mà vì thật sự thầy luôn xác định mình là người thừa hành.
Chính vì
việc xác định là cấp thừa hành nên thầy rất khó xử, thậm chí khổ tâm,
trong các năm 1979, 1980, 1981, khi Viện Hóa đạo phân hóa sâu sắc thành
2 cực, mà cả các vị hòa thượng, thượng tọa 2 bên thầy Minh Kiến đều coi
là những vị thầy (chỉ có Thượng tọa Thích Trí Quảng là người đồng thế
hệ). Cả hai bên đều tranh thủ thầy Thích Minh Kiến, cũng như chỉ đạo
thầy bằng những quan điểm, mệnh lệnh ngược hẳn nhau.
Nhưng trước
khi đi vào mâu thuẫn cơ bản đó, xin phép điểm lại một số mâu thuẫn đã đè
nặng lên vai thầy.
Tôi cảm
nhận những mâu thuẫn này khi thấy sự nặng nề phiền muộn, có phần bối rối
lúng túng của thầy khi tôi nêu ra những câu hỏi liên hệ về Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất.
Thầy Thích
Minh Kiến thực tế, là hình ảnh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
thu nhỏ trong một con người điển hình, là người lãnh đạo Giáo hội, gắn
bó với hoạt động Giáo hội từ lúc xuất gia, tham gia các hoạt động của
Giáo hội trong suốt thời kỳ tu học tại chùa Ấn Quang, trụ sở trung ương
tạm thời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Là một
người được Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất giáo dưỡng, đào tạo
cho việc kế thừa vị trí lãnh đạo, thầy tôi luôn có lòng tự hào và biết
ơn sâu sắc đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
Thầy thường
nói với tôi về vai trò tổ chức, hoạt động lãnh đạo của Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất trong những bữa cơm. Khi ở chùa Ấn Quang, buổi
chiều thầy thường không ăn cơm, còn nếu có thầy tự nấu cơm. Do đó, không
ít lần thầy nấu thêm gạo để 2 thầy trò cùng ăn. Những câu chuyện diễn ra
trong những bữa cơm thầy trò đó.
Tôi thấy
thầy đăm chiêu, suy nghĩ, buồn lòng, trầm tư có phần lúng túng, bối rối,
thường là không trả lời, mỗi khi tôi hỏi thầy về việc đánh giá về hoạt
động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất từ khi thành lập, về
cuộc phân hóa Ấn Quang/Việt Nam Quốc Tự, về sự kiện năm 1977.
Tôi nhớ rõ,
có một lần, trước câu hỏi của tôi, thầy đã quát lên: “Thôi, đừng nhắc
đến nữa!”.
Tôi cảm
nhận trong lòng thầy Thích Minh Kiến có 2 Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất. Một giáo hội mà thầy rất hết sức ngưỡng mộ, yêu quý, tâm
nguyện phục vụ, và một Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất làm thầy
thất vọng, có một chút ít bất mãn xen vào sự bối rối thường xuyên. Khi
nói về cơ cấu tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất thầy cao
hứng, phấn khởi bao nhiêu, thì khi được hỏi là đánh giá lịch sử Giáo hội,
yêu cầu giải thích về các sự kiện liên hệ đến Giáo hội, thì thầy khó
chịu, lúng túng bấy nhiêu. Càng về sau, khi tôi càng hiểu về những vấn
đề của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, thì tôi càng nhận thức rõ
các vấn đề ấy bộc lộ cụ thể qua thầy tôi.
Có một điểm
tôi cho là thật sự không có vấn đề của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất tồn tại trong thầy, đó là đánh giá về hoạt động giáo dục. Hoạt động
giáo dục, hệ thống trường Bồ Đề, đó là điều thầy hết sức nuối tiếc. Thầy
vẫn tâm sự với tôi “Nếu còn trường Bồ Đề, nhất định con là giáo sư Việt
Văn của trường mình”. Vấn đề có chăng là thầy cho rằng Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống Nhất đã không đầu tư nhiều hơn nữa cho hệ thống
trường Bồ Đề.
Tôi cảm
nhận rằng thầy tự hào và sung sướng hơn rất nhiều khi phục vụ Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong cương vị Hiệu trưởng Trường Bồ Đề,
so sánh với việc phục vụ Giáo hội trong cương vị Phó Tổng Thư ký Viện
Hóa đạo.
Sau này,
khi thầy ít khi nhắc đến giai đoạn làm Phó Tổng Thư ký Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất so với việc nhắc đến công việc Hiệu trưởng
Trường Bồ Đề, dù cả 2 công việc đều phục vụ Giáo hội, nhưng chức vụ Hiệu
trưởng Trường Bồ Đề nhỏ hơn nhiều.
Thấy thầy
chỉ vui khi nhắc đến công việc hiệu trưởng, về hoạt động giáo dục của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Tôi thường chủ động nhắc nhở
chuyện đó những lần thầy vui vẻ, cao hứng với nghề sư phạm, vì những lúc
như vậy thầy lại hoan hỷ mở tủ sách lấy đưa tôi một, hai quyển sách
chuyên ngành giáo dục học, tâm lý học xuất bản trước năm 1975. Thầy
không phải cho hẳn, chỉ nói rằng tôi đọc, rồi giữ kỹ cho thầy, biết đâu
sau này thầy lại có dịp dùng đến. Thầy vẫn mơ ước một ngày nào trở lại
với công việc sư phạm.
Bây giờ tôi
có dịp viết nhiều bài về giáo dục Phật giáo Việt Nam, thì đó là do tôi
được truyền thụ tinh thần một vị tu sĩ điển hình cho hoạt động giáo dục
của Phật giáo, là thầy Thích Minh Kiến, một vị hiệu trưởng trường Bồ Đề.
Tuy nhiên,
khi đó, tôi chưa có được nhận thức tế nhị, cứ ranh mãnh, tinh quái hỏi
thầy về bình luận quá trình hoạt động của giáo hội. Phần cũng vì tò mò,
với tính xấu thích hỏi cái gì người cố ý tránh nói, đến nỗi nhiều lần
làm thầy tôi phiền lòng. Mỗi lần như thế, thầy tôi thở dài, từ đó lại
kích thích sự tò mò của tôi để lại hỏi khi có dịp.
Mà không
hỏi cũng không được, vì những mâu thuẫn cứ bày ra trước mắt tôi.
Thầy tôi
dạy tôi rằng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là tổ chức Phật giáo
tiêu biểu nhất, lớn nhất của Phật giáo miền Nam, nhưng trong thực tế tôi
thấy Văn phòng Viện Hóa đạo chỉ có vài bàn giấy, chỗ làm việc của Hòa
thượng Viện trưởng chung với các cấp dưới và chỗ tiếp khách, trông chỉ
có vẻ như văn phòng một trường tiểu học. Thầy tôi, Phó Tổng Thư ký của
tổ chức được coi là có vài chục triệu tín đồ, hàng ngàn tu sĩ chỉ có một
bàn giấy nhỏ, không có nhân viên giúp việc.
Lễ Phật Đản
của trung ương Giáo hội thì số người dự lễ không bằng thánh lễ hàng tuần
của một giáo xứ lúc đó. Hoạt động Tổng vụ Hoằng pháp chỉ là một lớp
giảng vài ba trăm người ngày chủ nhật, có buổi ngồi không kín giảng
đường chùa Ấn Quang.
Còn Ban Chỉ
đạo Viện Hóa đạo thì trước 1978 cũng có vài người, tới năm 1980, khi có
chiều hướng thống nhất, thì cũng chỉ còn vài người (một số vị thấy chiều
hướng này nên không đi dự họp nữa). Văn phòng Viện Hóa đạo thì chỉ có
duy nhất một mình thầy tôi ngồi đó mỗi sáng. Vậy thôi. Giáo hội của tôn
giáo lớn nhất Việt Nam chỉ vỏn vẹn như thế!
Tự hào về
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, nhưng thầy tôi cũng không lạc
quan. Thầy vẫn nói, Giáo hội cần thì thầy làm việc đền ơn giáo hội, thôi
không cần thì thầy lo tu, đọc sách. Thầy đã có những dự cảm về tương lai.
Qua sự gần
gũi với thầy tôi, Phó Tổng Thư ký Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống nhất, tôi nhận thấy rất rõ mâu thuẫn giữa tầm cỡ lý tưởng và
quy mô hoạt động thực tế; giữa vai trò hiện tại và quá khứ lịch sử của
Giáo hội. Tôi không được trực tiếp tiếp xúc với những nhà lãnh đạo khác
của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, nhưng qua thầy tôi, tôi cũng
thấy chồng chất những vấn đề phức tạp, ngổn ngang, nan giải. Rất ít
người làm việc thật sự mà đổ dồn hết công việc cho thầy tôi.
Tôi thấy
môi trường công việc đem đến cho thầy tôi nặng trĩu lo âu, phiền muộn,
khổ tâm, giằng xé, cũng như không thấy sự thỏa mãn về quyền lực của một
nhà lãnh đạo tôn giáo có mấy chục triệu tín đồ. Thực tế, quyền lực đó
chỉ biểu hiện hạn chế qua việc tôn kính của một số rất ít tăng ni. Còn
đối với Phật tử, Phó Tổng Thư ký Viện Hóa đạo, cũng như cả Hòa thượng
Viện Trưởng là ai, họ cũng không biết và không cần biết đến.
Làm Phó
Tổng Thư ký Viện Hóa đạo, thầy tôi vẫn đi xe đạp, đội nón lá, sống trong
căn phòng khoảng 10m2,
chiều chiều nhóm lò dầu nấu cơm. Cái có thêm chỉ là những tiếng thở dài,
những giờ vắt tay lên trán.
THÚC ĐẨY QUAN HỆ TỐT ĐẸP HƠN VỚI CHÍNH QUYỀN
Đó là trong
khoảng từ năm 1977 đến 1980. Năm 1977, đại đức Thích Minh Kiến được Ban
Chỉ đạo Viện Hóa đạo cử giữ chức vụ Phó Tổng Thư ký Viện Hóa đạo để thay
vị Tổng Thư ký vắng mặt. Ban Chỉ đạo Viện Hóa đạo còn lại dưới sự lãnh
đạo của Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa đạo Thích Trí Thủ là những vị có
xu hướng mềm dẻo ôn hòa. Làm việc dưới sự chỉ đạo của riêng Hòa thượng
Thích Trí Thủ, thầy tôi có những ngày tháng tương đối dễ chịu, vì sự chỉ
đạo là duy nhất, một hướng, chỉ căn cứ chỉ đạo từ Hòa thượng Viện trưởng
mà làm theo.
Thầy tôi
hết sức tôn kính Hòa thượng Thích Trí Thủ. Cả những năm về sau này, thầy
tôi không hề có lời gì chỉ trích, phê bình Hòa thượng Thích Trí Thủ, mà
thường tránh không đề cập đến nói chuyện về hòa thượng.
Thầy tôi ý
thức rất rõ nhiệm vụ của mình trong hoàn cảnh nhận thức đặc biệt là phụ
giúp Hòa thượng Thích Trí Thủ, nên trong những năm 1977 đến 1980 thầy
tôi là cấp dưới hết sức đắc lực cho Hòa thượng Thích Trí Thủ, ra sức
thực hiện những nhiệm vụ do Hòa thượng giao và đều hoàn thành tốt đẹp.
Hòa thượng
Thích Trí Thủ là nhà lãnh đạo Phật giáo đại diện tiêu biểu cho xu hướng
ôn hòa, mềm dẻo. Từ năm 1977, ngài nhận thấy vấn đề căn bản mà Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất phải giải quyết là tìm kiếm mối quan hệ
tốt hơn giữa Phật giáo với chính quyền.
Đại đức
Thích Minh Kiến Phó Tổng Thư ký Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất là người trực tiếp thực hiện mục tiêu này.
Hòa thượng
Thích Trí Thủ chỉ đạo điều gì, thầy tôi thực hiện đúng theo sự chỉ đạo
đó. Nói Đại đức Thích Minh Kiến lúc đó có góp phần vào công cuộc thống
nhất Phật giáo năm 1981 thì không phải, nhưng vị Phó Tổng Thư ký Viện
Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất mẫn cán phục vụ Hòa
thượng Viện Trưởng Viện Hóa đạo Thích Trí Thủ đã trực tiếp điều hành
hoạt động của trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đúng
theo chỉ đạo Hòa thượng Viện trưởng, hướng tới mục tiêu cải thiện quan
hệ với chính quyền, làm cho giáo hội và chính quyền thông cảm nhau hơn,
khắc phục sự đổ vỡ do sự kiện 1977.
Bầu không
khí tương đối thuận lợi trong quan hệ giữa Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất với chính quyền vào những năm 1978, 1979, 1980 được hình
thành phần nào có những cố gắng của người trực tiếp điều hành văn phòng
Viện Hóa đạo lúc đó, thực hiện chủ trương của Hòa thượng Viện trưởng.
Chỉ có một
sự chỉ đạo duy nhất, với một hướng hoạt động, nhằm vào những mục đích
tương đối rõ ràng và dễ chấp hành, tôi cảm thấy ở thầy tôi sự thoải mái
nào đó. Thầy không lo nghĩ nhiều, mà vui lòng trong cương vị người thừa
hành, tận tâm làm việc.
Một sự kiện
đáng nhớ là năm 1978 thầy tôi, theo sự phân công của Hòa thượng Viện
trưởng, đã dẫn đầu đoàn tăng ni đi lao động đắp tuyến phòng thủ dài ngày
ở ngoại thành TPHCM, trong mục tiêu góp phần của Phật giáo vào sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc trong Chiến tranh biên giới Tây Nam chống Khmer đỏ xâm
lấn. Cuối đợt lao động quốc phòng của tăng ni dài ngày, Đai đức Thích
Minh Kiến Phó Tổng Thư ký Viện Hóa đạo đã có những phát biểu nói lên
lòng yêu nước, thương dân mà báo chí bấy giờ ghi nhận.
Trong
khoảng năm 1979, 1980, Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa đạo có những
thông điệp đầu xuân rất cởi mở trong quan hệ với chính quyền. Người chấp
bút những thông điệp này tôi cũng không thể xác định, tôi không nhớ
chính xác thầy tôi có phải là người tuyên đọc thông điệp này hay không,
nhưng tôi nhớ trong dịp đọc thông điệp Lễ Phật Thành đạo cuối năm âm
lịch, có thầy tôi bên cạnh Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa đạo, thầy tôi
là người xướng ngôn trong dịp lễ đó. Trong chỗ riêng tư, thầy tôi cũng
tỏ ý vâng thuận với thông điệp đó.
Tuy nhiên,
khoảng từ nửa sau năm 1980 đến cuối năm 1981, trước vấn đề thống nhất
Phật giáo, thì lãnh đạo cấp cao nhất Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống nhất có sự phân hóa, bất đồng, mâu thuẫn sâu sắc. Một bên
là Hòa thượng Viện trưởng Viện Hóa đạo còn phía bên kia là các vị Phó
Viện trưởng đệ nhất và Tổng Thư ký.
Về mặt
nguyên tắc, tuy thầy tôi được cử vào chức vụ Phó Tổng Thư ký Viện Hóa
đạo dưới sự chấp thuận của Hòa thượng Viện trưởng, để giúp việc cho Hòa
thượng Viện trưởng trong khi vị Tổng Thư ký vắng mặt, là người được Hòa
thượng Viện trưởng đề bạt nhưng là Phó Tổng thư ký thì thầy tôi là cấp
dưới trực tiếp của vị Tổng thư ký, thượng tọa Thích Quảng Độ khi đó.
Như vậy,
tất yếu khi Viện trưởng và Tổng Thư ký Viện Hóa đạo bất đồng nhau, thì
thầy tôi, Phó Tổng Thư ký Viện Hóa đạo, bị kẹt ở giữa sự bất đồng đó,
trong khi thầy Phó Tổng Thư ký đều tôn kính tuyệt đối cả 2 vị Viện
trưởng và Tổng Thư ký, tự coi mình đều là học trò, là người thừa hành
của tất cả các vị lãnh đạo cao niên hơn.
Từ khoảng
cuối năm 1980, tôi thấy ở thầy tôi tập trung sự mâu thuẫn trong nội bộ
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất lúc đó. Rất dễ để nhận ra thời kỳ
làm việc tương đối dễ chịu của thầy tôi, dưới sự lãnh đạo duy nhất của
Hòa thượng Viện trưởng đã chấm dứt.
Chính vì sự
trách nhiệm và tận tụy đã khiến thầy tôi kẹt vào mâu thuẫn giữa hai bên.
Thầy tôi
không nở quay lưng lại với bên nào, nhưng bên nào tất nhiên cũng muốn
thầy tôi vâng lời.
Thầy tôi
trước sau như một vẫn nhắc tới Hòa thượng Viện trưởng cũng như các đệ
nhất Phó Viện trưởng vị Tổng Thư ký với sự tôn kính tuyệt đối.
Hòa thượng
Viện trưởng hẳn là cũng đối xử tốt với thầy tôi. Hòa thượng đã đưa thầy
tôi đi Huế, giới thiệu thầy tôi với chư tôn đức khắp các chùa ở kinh đô
Phật giáo. Điều đó cho thấy Hòa thượng Viện trưởng quý thầy tôi đến mức
nào.
Còn thượng
tọa đệ nhất Phó Viện trưởng thì có lẽ chỉ thường qua phòng thầy tôi
trong số quý thầy ở chùa Ấn Quang.
Thầy tôi
cũng tâm sự, là Phó Tổng Thư ký thầy đương nhiên là cấp phó, là cánh tay
của vị Tổng Thư ký. Thầy cũng hết sức tôn kính vị Đệ nhất Phó Viện
trưởng và Tổng Thư ký.
Nửa sau năm
1981, mâu thuẫn trong giới lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
nhất lên đến tột độ và tôi rất lo lắng cho thầy tôi Thích Minh Kiến. Tôi
hiểu đây không phải chỉ đơn thuần là mâu thuẫn trong nội bộ Giáo hội, mà
tầm vóc, sự căng thẳng, cũng như ảnh hưởng có thể có với thầy tôi là lớn
hơn rất nhiều.
Bổn sư của
tôi, Thượng tọa Thích Hộ Giác khi đó, ông đã có cách giải quyết riêng
theo hướng của ngài. Nên bên ngoài, ngài tỏ vẻ thuận theo Hòa thượng
Viện trưởng Viện Hóa đạo. Sau này, tôi biết ngài ra đi thì không ngạc
nhiên.
Nhưng tôi
lo lắng cho thầy Minh Kiến, vì tôi biết thầy không tính đi đâu cả và
trước mặt là một lựa chọn rất khó khăn. Một lần, tôi thấy có người mang
đến tặng thầy Minh Kiến mô hình thủ công một con tàu buồm. Họ nói gì với
thầy tôi không rõ, nhưng tôi thấy thầy đem cho lại mô hình con tàu một
cách dứt khoát, với ý thầy không cần tàu, cũng không có gì bận tâm. Tôi
thấy ý thầy như thế, cũng yên tâm, vì tôi không phải xa thầy, nhưng lại
lo mối lo khác, không hiểu thầy giải quyết ra sao vấn đề thầy đang đối
mặt.
Càng về
cuối năm 1981 thượng tọa Đệ nhất Phó Viện trưởng Thích Huyền Quang ở
phòng ngay sát vách phòng thầy Minh Kiến thường xuyên qua phòng thầy
tôi. Mỗi lần như thế, tôi đều tế nhị ra về. Nhưng có khi Thượng tọa Phó
Viện trưởng cũng chẳng kể tới sự có mặt của tôi (1). Nên tôi cũng đoán
biết ít nhiều về tình hình mâu thuẫn lúc đó.
Con đường
trước mặt thầy tôi là rất khó cho thầy, vì thầy trước sau như một, chỉ
coi mình là đệ tử, là người thừa hành. Nhưng bây giờ lại thừa hành từ 2
phía có quan điểm mâu thuẫn, tất nhiên, có chỉ đạo trái ngược nhau.
Tôi thương
thầy tôi, thường người cho tôi sách vở, khuyến khích tôi trên con đường
học ngành giáo dục, thường nấu cơm chiều cho tôi ăn, dạy tôi cách hành
văn, nói chuyện, có lúc đến nhà tôi thăm tôi khi thấy một thời gian dài
tôi không đến thầy... nên dù không muốn có ý kiến việc của giáo hội, của
các vị tôn túc, nhưng do phản ứng tự nhiên của một người đệ tử không
muốn xa thầy, tôi tất yếu phải tìm cách tác động đến thầy tôi, để thầy
không rơi vào tình cảnh khó khăn hơn.
Thấy thầy
tôi ngồi trầm tư, âu lo, suy nghĩ, tôi đã không chịu được, huống chi là
hình dung đến những việc nặng nề hơn. Từ nửa sau 1980, tôi lên một kế
hoạch tác động đến thầy, với suy nghĩ mình học khoa văn, là học sinh
giỏi văn, đây là lúc dùng đến 3 tấc lưỡi. Từ đó, có khi tôi đưa thầy vào
tình trạng sốc, mâu thuẫn giữa tôi và thầy lên đến lúc cao độ, nhưng
thầy biết tôi làm thế chỉ vì thương thầy.
Cũng từ nửa
sau năm 1980 thầy tuyệt đối giữ kín chuyện Giáo hội với tôi, hỏi gì thầy
cũng không nói. Nhưng tôi cũng đoán được điều gì đang xảy ra giữa các
nhà lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và tôi đang rơi vào
tình thế phải tham gia bất đắc dĩ vào câu chuyện bằng những tác động với
thầy tôi.
Trong bài
kỳ sau, tôi sẽ kể chi tiết tôi đã tìm cách tác động đến thầy tôi trong
hơn một năm trời như thế nào, nên trước tiên chỉ ghi nhận ở đây lần thầy
trò tôi va chạm đến đỉnh điểm: Khi tôi và thầy nói chuyện về Nguyễn Du,
tôi đã cố gắng nhấn mạnh đến việc Nguyễn Du đã là quan 2 triều và theo
tôi đó là lựa chọn có lợi nhất cho đại thi hào, vì không ai trách Nguyễn
Du bất trung với nhà Lê cả. Theo tôi, Nguyễn Du không hề bỏ nhà Lê, vì
ông vẫn hoài Lê trong thơ văn, nhưng thi hào đã thích nghi được với hoàn
cảnh… Nghe đến đó, thầy tôi nổi giận, nạt tôi: “Con là ai vậy?”.
Từ lần đó
về sau, tôi không dám nói chuyện Nguyễn Du làm quan nhà Nguyễn với thầy
nữa, mà điều chỉnh cấp độ, chỉ nói rằng Truyện Kiều là một hình thức ở
ẩn của Nguyễn Du, cũng như quan niệm của triết học Đông Phương Trung
Quốc về kẻ sĩ làm quan giúp đời hay ở ẩn, về “hành” và “chỉ”, xa xôi,
bóng gió.
Bạn đọc
đừng trách tôi đã mạo phạm đến đại sự của hàng lãnh đạo Phật giáo khi
tìm cách tác động đến thầy mình. Tôi không bao giờ nghĩ rằng thầy tôi đã
nghe lời tôi, mà thầy có những lựa chọn riêng của thầy, không dễ gì để
ai tác động.
Bây giờ, ở
trời Tây, nếu thầy có gặp lại Hòa thượng Viện trưởng hay Hòa thượng Đệ
nhất Phó Viện trưởng, thầy Minh Kiến đều có thể chào lễ cả 2 vị mà không
vị nào có thể phiền trách gì thầy cả cho dù ở trên đó hai ngài vẫn giữ
quan điểm riêng.
Mục tiêu
của tôi suy cho cùng cũng là như vậy, không dám đi xa hơn, miễn sao là
thầy tránh được những gì bất lợi nhất, rắc rối nhất trong buổi giao thời
ngày đó. Mục tiêu tác động của tôi chỉ là sao cho thầy thích nghi đến
mức cao nhất có thể đối với hoàn cảnh thay đổi, thoát ra khỏi não trạng
bi kịch. Ở việc đi ẩn tu của thầy vừa có tinh thần đạt đạo của kẻ sĩ (đạo
hiểu theo nghĩa Triết học Trung Hoa), vừa có tinh thần “trung đạo” của
một vị cao tăng Phật giáo, khi đứng trước thế lựa chọn lưỡng cực.
(còn tiếp)
- Vì
thời gian đã lâu, nên dù tôi nhớ giáo phẩm của vị Phó Viện trưởng đệ
nhất của Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Thích
Huyền Quang lúc này là thượng tọa, không biết có chính xác?
Thông tin,
thảo luận, phản hồi riêng và các bài tranh luận đặc biệt:
vinasat132@yahoo.com,
vi-vn.facebook.com/cusiminhthanh.