Nguyên văn emai
của một cư sĩ:
Con có một thắc
mắc bấy lâu không biết hỏi ai, con kính xin Thầy giải thích dùm cho con.
Câu hỏi này có liên hệ tới bài kệ cô đọng của Lý Duyên Khởi:
"Cái này có, cái kia có
Cái này sinh, cái kia sinh
Cái này không cái kia không
Cái này diệt cái kia diệt"
Theo chỗ con
hiểu, bài kệ này là công thức rốt ráo tóm tắt sự vận hành của Lý Duyên
Khởi. Theo như Thế Tôn nói, nó luôn đúng và cho dù Phật có ra đời hay
không có ra đời thì nguyên lý này vẫn đứng vững, không thể nào khác hơn
được và không có ngoại lệ.
Vì nhận thấy nó
quan trọng như thế, nên con tò mò xem nguyên bản Pāḷi ghi như thế nào,
xin trích:
Imasmiṃ sati idaṃ hoti; imass’ uppādā idaṃ uppajjati.
Imasmiṃ asati idam na hoti; imassa nirodhā idaṃ nirujjhati.
Khả năng Pāḷi
của con giới hạn, nhưng con để ý các từ mà con biết: "Sati"
tức là
"Niệm";
"hoti" tức là
"hiện hữu" --> tiếng Anh tức là
"being" cái mà Bùi Giáng và Heiddergger rất thường hay nói tới.
Như vậy, xét về
nghĩa đen, câu đầu tiên con hiểu là: "Do
niệm cái này, mà cái kia có mặt (hiện hữu)"
Ờ đây, đang nói
tới cái năng lực không thể nghĩ bàn của Tâm, tức là hễ Tâm nó niệm cái
gì, thì tác dụng của sự Niệm đó, sẽ làm cho Pháp ấy có mặt trước khả
năng nhận thức của Tâm. Nói cách khác, do Niệm mà một Pháp trở thành
Pháp Thực Tại Hiện Tiền cho Trí Tuệ Minh Sát làm việc. Đó cũng là cách
thực hành rốt ráo Thiền Tứ Niệm Xứ.
Câu hỏi của con
là: Vì sao
"Sati" và
"Hoti" là hai từ khác nhau mà chúng ta lại dịch sang tiếng Việt
chỉ có một từ là
"Có"?
Theo chỗ con
thấy, dịch như vậy sẽ không làm sáng ý nghĩa thực hành
"Tâm cùng Tu với Tuệ" như Phật dạy trong Kinh Đại Bát Niết Bàn
"Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa tới giải thoát hoàn toàn tất cả các lậu
hoặc"? Dịch là
"Có" thì "Vì
cái này có nên cái kia có" khiến cho người đọc ngộ nhận là đang
nói tới các Pháp Hữu Vi bên ngoài và sự vận hành của nó. Thì các Pháp
tương sanh tương diệt, nên không có dính dáng chi tới mình cả. Còn nếu
hiểu là
"Do niệm cái này mà cái kia có mặt" (ví dụ, do niệm hữu hoài cho
nên tái sanh sẽ có mặt), lúc đó chúng sanh mới biết sợ mà tu. (tàm quý
khởi lên, nâng đỡ thế gian). Sợ vì thấy khả năng vi diệu của Tâm và (tư
niệm thực--> loại thức ăn thứ 4 trong 4 loại thức ăn).
Trả lời:
Nội dung email
của cư sĩ tôi có thể tóm tắt thành 4 ý chính:
- Về “sati”
và
“hoti” .
- Tâm cùng tu
với tuệ
- Về pháp hữu
vi
- Về tư niệm
thực
Bây giờ ta đi
từng câu một.
1- Về “sati”
và
“hoti” .
Câu này khá
phức tạp. Nó đòi hỏi trình độ học thuật, nhất là phân tích ngữ pháp Pāḷi.
Do từ lâu khi đụng đến từ
“sati” là người ta dịch là
“niệm”, và ngay chữ niệm này người ta cũng hiểu năm bảy nghĩa
khác nhau. Và từ
“hoti” được dịch là là (being), là hiện hữu cũng là cách hiểu của
nhiều người. Thật ra, những quyển tự điển Pāḷi-Anh thường chính xác hơn.
Một từ Pāḷi người ta thường đưa ra nhiều nghĩa, tuỳ theo chỗ dùng, chức
năng của nó đôi khi là động từ, đôi khi là danh từ - rồi họ còn dẫn
nguồn tương thích.
Bây giờ, muốn
hiểu cho thật chính xác, xin cư sĩ chịu khó đọc bài phân tích đúng
“bài bản nhà trường” sau đây (đệ tử của tôi làm):
Imasmiṃ sati idaṃ hoti; imass’ uppādā idaṃ uppajjati.
Imasmiṃ asati idam na hoti; imassa nirodhā idaṃ nirujjhati.
(S 2.28)
“Khi điều này hiện hữu, điều kia hiện hữu; do sự sinh khởi của điều này,
điều kia sinh khởi. Khi điều này diệt, điều kia diệt; do sự biết mất của
điều này, điều kia biết mất”.
Imasmiṃ sati idaṃ hoti
Theo các nhà
ngữ pháp Pāḷi
“imasmiṃ
sati”
được gọi là absolute clause [mệnh đề tuyệt đối]. Bởi vì nó hội đủ hai
yếu tố: Có một participle (phân từ)
“sati” và một chủ từ được chia ở locative (định sở cách)
“imasmiṃ”. Mệnh đề tuyệt đối này diễn tả
“khi
hành động một xảy ra thì
hành động hai xảy ra sau đó”. Như vậy, câu
“Imasmiṃ
sati idaṃ hoti” có thể được dịch
“khi điều này hiện hữu/sinh khởi điều kia [cũng] hiện hữu”.
Note:
- Imasmiṃ [nt.loc.
sg, of ima] = điều này
- Sati [prp.
loc. sg . of santa (√as)] = đang hiện hữu, đang có, đang là (hiện tại
phân từ “sati”
phải ở cùng tánh và số với chủ từ của nó
“imasmiṃ”
- Imasmiṃ sati
[Active Subject Relation = Liên hệ chủ từ trong thể chủ động] = điều này
hiện hữu
- Idaṃ (nt.nom.
sg. of ima) = điều này, điều kia
- Hoti (3rd,
sg. of √hū) = có, là, hiện hữu
- Idaṃ hoti
[Active Subject Relation = Liên hệ chủ từ trong thể chủ động] = điều
kia hiện hữu.
- Sati hoti
[Definitive Relation = quan hệ xác định]
[nt= neutral (trung
tánh); prp = present participle (hiện tại phân từ); loc = locative (định
sở cách); sg = singular (số ít); nom = nominative (chủ cách)].
imass’ uppādā idaṃ uppajjati.
“Bởi vì sự sinh khởi của điều này, điều kia sinh khởi”
hay
“điều này sinh khởi do sự sinh khởi của điều kia”
Note:
- Imassa [nt.gen.sg
of ima] = của điều này
- Uppādā [m.
abl. sg. of uppāda) = bởi sự sinh khởi, do sự sinh khởi
- Imass’
uppādā = imassa uppādā [Possessor Relation = Liên hệ sở thuộc] = do sự
sinh khởi của điều này
- Idaṃ (nt.nom.
sg. of ima) = điều này
- Uppajjati [3rd,
sg. of ud +√pad +ya + ti] = sinh khởi, được sinh ra
- Idaṃ
uppajjati [Active Subject Relation = Quan Hệ Chủ Từ trong dạng Chủ Động]
= điều kia sinh khởi
- Uppādā
uppajjati [Causality Relation = Quan Hệ Nguyên Nhân] =… sinh khởi bởi/
do sự sinh khởi….
[gen. =genitive
(sở thuộc cách); abl =ablative (xuất xứ cách)]
Imasmiṃ asati idam na hoti; imassa nirodhā idaṃ nirujjhati
Mệnh đề thứ hai là tương tự như trên nhưng mang nghiã ngược lại. Tức là
“khi điều này diệt [biến mất], điều kia diệt [biến mất]. Do sự diệt của
điều này, điều kia biến mất”
Note:
- Asati = na sati = nghĩa phủ định của sati ở trên
- Nirodhā (m. abl. sg.of nirodha) = do sự diệt.
- Nirujjhati (3rd,sg
.of ni+√rudh + ya)=được phá hủy, biết mất, diệt.
Đoạn văn Pāḷi trên được tìm thấy trong bài kinh“dutiya-ariyasāvaka-sutta”,
thuộc phẩm
“gahapativagga” của Samyuṭṭanikāya.
Nội dung
trình bày về sự thực duyên khởi (paticasamuppada) hay tuỳ thuộc
phát sanh:
Trích một đoạn:
‘imasmiṃ
sati idaṃ hoti, imass’uppādā idaṃ uppajjati.
Avijjāya sati saṅkhārā honti; saṅkhāresu sati viññāṇaṃ hoti; viññāṇe
sati nāmarūpaṃ hoti; nāmarūpe sati saḷāyatanaṃ hoti; saḷāyatane sati
phasso hoti; phasse sati vedanā hoti; vedanāya sati taṇhā hoti; taṇhāya
sati upādānaṃ hoti; upādāne sati bhavo hoti; bhave sati jāti hoti;
jātiyā sati jarāmaraṇaṃ hotī’ti. So evaṃ pajānāti: ‘evamayaṃ loko
samudayatī’ti
(chiều thuận, chiều sinh khởi).
‘imasmiṃ
asati idaṃ na hoti, imassa nirodhā idaṃ nirujjhati. Avijjāya
asati saṅkhārā na honti; saṅkhāresu asati viññāṇaṃ na hoti; viññāṇe
asati nāmarūpaṃ na hoti; nāmarūpe asati saḷāyatanaṃ na hoti … pe …
jātiyā asati jarāmaraṇaṃ na hotī’ti. So evaṃ pajānāti: ‘evamayaṃ loko
nirujjhatī’ti
(chiều ngược, chiều diệt).
Hy vọng cư sĩ
thấy
“sati” và
“hoti” trong đoạn kinh văn trên mang ngữ nghĩa như thế nào rồi.
Vậy
“sati” ở đây được dịch theo hiện tại phân từ, có nghĩa là
“đang hiện hữu, đang có, đang là” chứ không phải là
“niệm” theo nghĩa thông thường.
“Hoti” cũng nghĩa như vậy. Cả hai
“sati” và
“hoti” nằm trong thế tương lập quan hệ xác định (Xin lỗi cư sĩ,
tại chỗ này tôi tự giới hạn không bàn đến hai phạm trù
“có, không” vì nó phức tạp, cần một bài viết dài dòng hơn. Lại
nữa, cái sâu sắc, tế vi, trẩn mật từ nguyên bổn Pāḷi mà không một chuyển
ngữ nào có thể nói được chính là từ
“sati” và
“hoti”. Tại sao vậy? Cái đang hiện hữu, đang là, là
nghĩa động, trong lúc dịch là
có, “có cái này thì có cái kia” hoặc
“cái này có thì cái kia có” lại là
nghĩa tĩnh? Thì làm sao nói được
“cái hiện hữu ấy
đang sinh khởi!” mà hành giả minh sát tuệ nào cũng
đang hiện quán?)
Còn chữ “being”
mà triết gia Heidegger và Bùi Giáng nói tới, nó không đơn giản là
“động từ là” mà lại nói tới
“thực tại đang là”, là cái “hữu
thể”
đang vận hành, đang diễn tiến qua “thời
thể” như
đã được nêu ở trên.
“Cái là, cái đang là - seiend, étant, being” thật sự không phải
dễ hiểu đối với các triết gia Tây phương kể từ thời Platon. Chữ “là”
là quá hiển nhiên, ai cũng biết, ai cũng quen, ai cũng thừa hiểu “là”
là thế
nào rồi, nhưng Heidegger tuyên bố ngay rằng sự việc không phải minh bạch
dễ dàng như vậy đâu:“Trong
thời đại của chúng ta hiện nay, chúng ta có trả lời được câu hỏi về ý
nghĩa mà chúng ta hiểu thực sự về chữ là?” (cf. Sein und Zeit, p.1:
“Haben wir heute eine Antwort auf die Frage nach dem, was wir mit dem
Wort “seiend” eigentlich meinen?”).
“Cái là, cái đang là” chính
là hoa nở, chim hót; là sự sống, là
“sinh thể của mọi tồn thể”. Là “cái
là”, là “cái
đang là” của
mọi hữu tồn duyên khởi sinh diệt.
2- Về tâm cùng
tu với tuệ:
Nguyên văn Việt dịch cụm từ này được tìm thấy trong kinh Đại Bát
Niết-bàn của Nikāya:
“Đây là giới, đây là định, đây là tuệ. Định cùng tu với giới sẽ đưa đến
quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với định đưa đến quả vị lớn, lợi
ích lớn. Tâm cùng tu với tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu
hoặc, tức dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu”.
Giới thì ai cũng hiểu rồi nhưng định đây phải là chánh định như lập ngôn
của đức Phật để so sánh nó khác xa với định của Bà-la-môn giáo, ấy là
“ly dục, ly ác pháp” (Đức Đại Bồ-tát đã từ bỏ hai tầng định cao
nhất là Vô sở hữu xú và Phi tưởng phi phi tưởng xứ). Vậy thì chánh định
là định không dính mắc, không chấp thủ dù an trú tầng thiền nào. Rồi sử
dụng định ấy (thường là cận hành định) để minh sát ngũ uẩn, thập nhị
duyên khởi - được gọi là cùng tu với tuệ. Còn tâm cùng tu với tuệ là
muốn nói cái tâm đã đã yên lặng mọi tham ưu do chánh định mà có (kinh
gọi là bát giải thoát tâm) để cùng tu với tuệ thì giải thoát hoàn toàn
mọi lậu hoặc. Nói cách khác, giải thoát tâm là giải thoát phiền não
chướng, giải thoát tuệ là giải thoát sở tri chướng.
3- Về pháp hữu
vi:
Trong Pāḷi, từ
Saṅkhāra có nơi thì dịch là “hữu
vi”, có
nơi dịch là
“hành”, đều đúng cả nhưng mà tuỳ nội dung chuyên chở của nó.
3.1- Saṅkhāra
dịch là
hành, được hiểu là tạo tác các nghiệp thiện, nghiệp bất thiện và
nghiệp bất động làm nên thức tái sanh vào tứ ác đạo, người bất hạnh,
người hữu phúc, trời Dục giới, trời Sắc giới và trời Vô sắc giới.
Saṅkhāra – hành - này được dùng trong thập nhị duyên khởi: Vô minh,
hành, thức...
3.2- Saṅkhāra
dịch là
hữu vi, hàm chỉ các pháp được kết hợp, được cấu tạo, được làm
nên.
Hữu vi này cũng có nhiều dạng: Một, thế giới vật chất từ hạt cát
đến sơn hà nhật nguyệt, sum la vạn tượng được kết hợp bởi các yếu tố,
đơn vị vật chất đều được gọi là
hữu vi. Hai, thế giới tinh thần được kết hợp bởi các yếu tố tâm
lý, các trạng thái tâm lý diễn tiến một cách tự nhiên cũng được gọi là
hữu vi.
Loại
hữu vi 3.2
này bị chi phối
bởi những định luật tự nhiên của vũ trụ (5 định luật - ngoại trừ định
luật nghiệp báo) nên những hữu vi ấy đều vô thường, vô ngã nhưng
không có dukkha.
3.3- Saṅkhāra
dịch là hành,
đây là
loại
hành do mình chế biến, đẻ ra; loại
hành do tâm lý, tình cảm, sở thích, quan niệm chủ quan của mình
tự tạo,
hành ấy mới đưa đến
dukkha. Hành này là
hành trong
hành uẩn; và chính
hành này mới đầy đủ tam tướng vô thường, vô ngã, dukkha. Nó biến
đổi từ thương ra ghét, từ ghét ra hận rồi tạo ra các nghiệp.
Sabbe saṅkhāra
aniccāti (tất cả hành là vô thường).
Sabbe
saṅkhārādukkhāti (tất cả hành là khổ).
Còn: Sabbe
dhammā-anattāti (tất cả pháp đều vô ngã). Pháp hữu vi, pháp vô vi đều vô
ngã. Pháp vô vi không phải là pháp cấu tạo, kết hợp; cũng không phải là
pháp do mình đẻ ra, chế biến ra nên
pháp vô vi là vô ngã nhưng không vô thường, không khổ. Niết-bàn
là pháp vô vi.
Tóm lại,
khi nói các
“pháp hữu vi” là muốn nói đến thế giới thiên nhiên, ngoại vật,
cái gì cũng do cấu tạo, kết hợp, duyên sinh. Thời đại vật lý lượng tử
ngày nay họ hiểu rất rõ điều này. Thế giới hữu vi này chúng vô thường,
vô ngã nhưng không có dukkha. Khi nói các
“pháp hành” là nói đến sự duyên khởi của căn trần thức; và chính
ở đây, chúng vô thường, vô ngã và có cả dukkha. Đức Phật nhấn mạnh duyên
khởi này, thấy rõ nó để chấm dứt dukkha chứ không bàn đến vũ trụ vạn
hữu. Trùng trùng duyên khởi sum la vạn tượng như kinh Hoa Nghiêm thì
đúng nhưng đức Phật chỉ nói
“nắm lá trong tay thôi”, vừa đủ cho chúng sanh thoát khổ.
4- Về tư niệm
thực:
Tư niệm thực là một trong 4 loại thức ăn. Do tôi thấy nhiều nơi giảng
giải 4 loại thức ăn này không được rõ ràng hoặc chỉ nói cái phần ngọn
hơi xa gốc nên tiện đây tôi ghi ra theo Abhidhamma.
- Đoàn thực (kabalikāra-āhāra):
Thức ăn vo tròn. Thời đức Phật người ta ăn bằng bàn tay phải, sử dụng
mấy ngón tay để vo tròn thức ăn nên gọi là đoàn thực (đoàn là tròn). Đây
là thức ăn của cõi người dùng để nuôi dưỡng cơ thể, các tế bào sắc chất
(hiện nay cách ăn này còn tồn tại ở Ấn Độ, Srī Laṅkā, Myanmar, Thái Lan...).
- Xúc thực (phassa-āhāra):
Thức ăn của xúc giác. Do xúc mới có thọ. Khi mắt tiếp xúc với sắc liền
phát sanh cảm thọ. Tương tự như vậy là tai, mũi, lưỡi, thân đối với
thanh, hương, vị, xúc. Nhờ ăn
“sắc thanh hương vị xúc” nên nó cung cấp chất bổ để nuôi dưỡng
các cảm thọ.
- Tư thực (cetanā-āhāra):
Thức ăn của tư, tức là tư tâm sở (cetanā), là tư tác. Cái gì là thức ăn
của tư tác? Chính là hành nghiệp: Nghiệp thiện, nghiệp bất thiện và
nghiệp bất động. Chính vì thức ăn là tất cả mọi hành nghiệp này, chúng
cung cấp chất bổ để nuôi dưỡng chúng hữu tình tái sanh trong ba hữu: Dục
hữu, sắc hữu và vô sắc hữu.
- Thức thực (viññāṇa-āhāra):
Hàm chỉ thức ăn của thức tái sanh. Thức ăn của thức tái sanh là cận tử
nghiệp (hoặc năng lực của nghiệp cuối cùng trước khi lâm tử). Sau khi
“ăn”
nghiệp ấy, nó lấy
“chất bổ” ở đấy để nuôi dưỡng danh-sắc trong kiếp sống kế.
Tóm lại, cách
nói gì, cách trả lời nào tôi cũng cảm giác chúng chỉ là những khái niệm
vật vờ, dập dờn trên cái thực. Nhưng giới hạn muôn đời của ngôn ngữ là
vậy, tôi cũng không biết làm gì khác hơn.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH