Học Phật Mà Không Chịu Trưởng Thành
Học Phật
Học Phật
Mà Không Chịu Trưởng Thành
Mùa xuân, vạn vật sinh trưởng.
Ngắm một cây thân mộc hay thân thảo, ta thấy chúng đều đang chuẩn bị sinh lực để
phát triển cành nhánh, nảy lộc, đơm hoa rồi kết trái. Con người cũng vậy, bé thơ,
thiếu niên rồi thanh niên... Cái cây thì nó phát triển toàn bộ. Con người cũng
phát triển toàn bộ cả phần vật chất và phần tinh thần. Thân vật chất thì tương
tợ nhau nhưng phần tinh thần thì nó phát triển rất phức tạp. Nhưng nói chung,
chúng chạy theo hai khuynh hướng, hướng xấu ác và hướng tốt lành.
Xã hội ngày nay, chư vị thức giả,
trí giả đang báo động tình trạng xuống cấp nghiêm trọng của các giá trị tinh
thần. Những chuẩn mực về đạo đức, luân lý, tình thương, lẽ phải, điều thiện, cảm
thông, tha thứ, nhân nghĩa... đang bị xơ cứng, xói mòn, lệch chiều, điên đảo...
Chưa bao giờ nhân loại đứng trước hiểm hoạ diệt vong khi những chuẩn mực nêu
trên bị “con người” tìm cách xoá sổ như ngày nay. Cả thế giới, nước nào
cũng tăng cường vũ khí huỷ diệt. Rồi chiến tranh, khủng bố, dịch bệnh, ma tuý,
buôn người, buôn nội tạng, vô cảm, trơ lì, độc ác, bạo tàn, gian ác, dối trá,
mưu sâu, kế độc... hằng ngày hằng giờ diễn ra khắp mọi nơi. Một vài đất nước an
lành, an toàn, an vui... còn sót lại trên thế giới, cụ thể là nước Bhutan, một
quốc gia coi như trăm phần trăm theo đạo Phật thì tợ như viên ngọc Như Ý giữa sa
mạc lòng người, lòng đời; thật là ngàn năm có một, phải đáng cho nhân loại này
suy gẫm cạn sâu.
Đạo Phật đúng là một đứa con đã
trưởng thành của nhân loại. Do đã trưởng thành nên nó phát triển những tố chất,
phẩm chất của nhân tính để đi lên, để thăng hoa; và nó loại trừ, làm cho giảm
trừ, tiêu mòn, tận diệt những tính chất xấu ác bản năng luôn đeo bám nặng nề đưa
tâm thức đi xuống ngang bằng với các loài thú, có kẻ còn tệ hơn cả loài thú!
Vậy, người học Phật phải lớn,
phải trưởng thành; nếu không, chúng ta sẽ rùng mình, lạnh gáy khi đọc câu kinh
Lời Vàng số 152 mà đức Phật đã khiêm khắc, răn đe, dạy bảo:
“- Kẻ kia kém học, ít nghe
Nở nang, cường tráng, to bè
như trâu
Lớn lên, đống thịt lớn mau
Nhưng mà trí tuệ có đâu lớn
cùng?!”
(Appassut’āyaṃ
puriso
balivaddo va
jīrati,
maṃsāni tassa
vaḍḍhanti
paññā tassa na
vaḍḍhati)
Phải lớn, trí tuệ
phải lớn! Chứ không phải là lớn phần vật chất, phần thịt hoặc phần xấu ác, bản
năng! Mà nếu muốn có trí tuệ lớn thì năm năng lực tâm linh cùng tiếp sức đi
chung với tuệ (tín, tấn, niệm, định, tuệ) cũng phải biết lớn theo!
Và nếu nghiêm túc xét
theo tiêu chí ấy thì đa phần trong chúng ta, những người tu Phật, nhất là cận sự
nam nữ, vẫn còn là trẻ con, những con người chưa chịu lớn, chưa chịu trưởng
thành.
Con nít thì ai nói gì tin nấy,
bạ đâu theo đấy! Cũng vậy, có một số Phật tử nghe có một ông đạo hay một người
thầy giỏi nào đó thì ùn ùn đổ tới. Một dạo như Thanh Hải, một dạo như Duy Tuệ...
và có cả hằng chục “đạo sư”, “giáo chủ” không biết ở đâu xuất hiện với danh xưng
pháp sư, đại pháp sư được quảng cáo trên một số trang mạng là người ta lại như
lên cơn sốt chầu chực mong được ban phước lành. Họ có cả những bùa chú, pháp ấn
linh nghiệm trừ tà đuổi quỷ, đem đến an lành, hạnh phúc; và họ có cả năng lực
đưa linh hồn đến nơi giải thoát nữa! Có nơi còn quảng cáo, là niệm cái này cái
kia thì siêu độ tất thảy. Thiện ác, ngu trí gì cũng siêu độ được tất. Cả hai
trường hợp nêu trên đều khỏi tu tập làm gì cho mất công! Vậy mà người ta cũng
tin thì không gọi là trẻ con là gì!
Còn nếu là người lớn, trưởng
thành thì người ta tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin nhân quả nghiệp báo, tin
luân hồi tử sanh, tin Tứ Diệu Đế (nghĩa là tự mình thấy khổ, nguyên nhân khổ,
diệt khổ và con đường diệt khổ).
Trẻ con thì sợ doạ ma, doạ quỷ,
doạ ông “kẹ”! Cũng vậy, tương tự vậy, một số Phật tử gặp những giảng sư,
pháp sư, “ta-bà sư” nào đó hù doạ nếu không theo ông, theo cách tu hành
của ông hoặc không để ông mở luân xa cho thì sẽ bị ma quỷ quấy nhiễu làm cho
điên loạn. Hoặc, có vị luôn tìm cách doạ thiên hạ bằng cách chỉ nói cái khổ của
địa ngục; và phải lập đàn tràng để ông cúng lễ cho thì cha mẹ nhiều đời mới được
vãng sanh!
Thế mà hằng ngàn Phật tử cũng
tin, tuân theo răm rắp thì không là còn quá trẻ con là gì? Nếu là một Phật tử
lớn khôn, trưởng thành về trí tuệ thì họ biết rằng, chính tôn giả Mục Kiền Liên,
bậc thượng thủ của giáo hội, là thần thông đệ nhất cũng không có khả năng cứu độ
mẹ, mà phải nhờ vào năng lực của đức Phật cùng chư đại thánh tăng, sau mùa an cư
chú nguyện cho mới được, do “cộng lực” của tâm thanh tịnh!
Trẻ con thì luôn luôn tìm chỗ để
nương tựa nơi cha nơi mẹ nơi ông nơi bà nơi anh nơi chị. Khi đói, khóc lóc đòi
ăn. Khi đau, khóc lóc nhờ cha, cậy mẹ. Cũng vậy, rất nhiều cận sự nam nữ của
chúng ta khi làm ăn xuôi chèo mát mái thì thôi, nhưng khi gặp tan nạn, ốm đau,
rủi ro, lụn bại gia sản, hoặc do muốn chồng con thăng quan tiến chức, đỗ đạt,
qua cơn thương vụ làm ăn hiểm nguy... thì họ cũng “khóc lóc”, cũng tìm
nượng tựa nơi thế giới huyền bí u linh nào đó! Họ xì xụp khấn vái, van xin, cây
đa, ông táo, điện này, chùa kia để Trời, Thần, Thánh, Phật gia hộ, độ trì cho.
Đây cũng là trường hợp trí tuệ chưa trưởng thành. Tại sao vậy? Bậc trí thì nhớ
lời đức Phật dạy trong kinh Lời Vàng số 160:
“- Tự ta bảo hộ cho ta
Có ai nương tựa gần xa mà
cầu!
Tự mình chế ngự làm đầu
Khó khăn điều phục, gắng lâu
cũng thành!”
(Attā hi attano
nātho
ko hi nātho
paro siyā,
attanā va
sudantena
nāthaṃ labhati
dullabhaṃ).
Con nít thì thường
không biết đâu hiểm nguy, đâu an toàn. Nó có thể vui chơi hồn nhiên, vô tư nơi
những vật nhọn, vật cháy, vật nổ... Đến khi “cái quả” giáng đến có thể
sinh nhiều tai nạn, hung hoạ, tật nguyền và có thể cả tử vong. Cha mẹ dù có quan
tâm, lo lắng, đau buồn thì chuyện cũng đã xẩy ra rồi! Cũng vậy, là thế gian này.
Bình thường, con người họ làm tất cả mọi việc, không từ nan cả việc xấu ác, gian
dối... mục đích là kiếm cho thật nhiều tiền. Họ lân la, kề cận, “vô tư, hồn
nhiên” tỉnh bơ bên xì ke, ma tuý, đao kiếm, mãi dâm, hối lộ, tham nhũng,
quyền chức, bạc tiền, địa vị... đến khi bi lao tù, hình ngục, thân tàn ma dại...
thì cũng là chuyện đã rồi! Chuyện đã rồi là khổ, là đau, là ăn năn hối hận, là
nhà tan cửa nát! Thế thì đa phần họ sợ “quả” chứ không biết sợ “nhân”.
Một số người tu Phật cũng nằm chung trong tình huống trên. Rất nhiều người khi
hanh thông, thành đạt thì không chịu tu hành; đến khi “hữu sự” do những
nhân xấu đã làm trong quá khứ, quả đau khổ đến, họ mới chịu đi chùa nghe pháp,
nghe kinh, bố thí, làm phước. Nghĩa là cũng sợ quả chứ không sợ nhân. Bồ-tát,
bậc trí thì trái lại. Cho nên khế kinh có nói: Bồ-tát sợ nhân, chúng sanh sợ
quả.
Con nít thì thích
màu mè, xênh xang hình thức, trống đánh, kèn thổi, vui chơi nhảm nhí. Thì xã
hội, con người ngày nay cũng vậy. Cứ đám đông ồn ào, nhảy múa, ca hát, đá banh,
sao này sao kia thì ùn ùn tung hô, cả trăm fan ngàn fan, tự đánh bóng, quảng cáo
rầm rộ... chẳng hề trưởng thành trong nhận thức, trong tư cách, trong văn hoá!
Nhan nhản chuyện khoe áo quần, ăn diện, xe cộ, các vòng... hợm hỉnh, vô duyên
của những con người không chịu lớn, à có lớn, lớn phần thịt, phần bản năng, phần
động vật bên trong! Tại chỗ này, tự dưng tôi nhớ da diết, tâm cảm câu thơ của cụ
Tản Đà: “Dân hai nhăm triệu ai người lớn. Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con”.
Đúng vậy, toàn là trẻ con đang nhảy múa, hò hét, vui chơi nhãm nhí xung quang
chúng ta! Nói người lại nghĩ đến mình, Phật giáo mình. Rất nhiều người, cả tu sĩ
và cư sĩ cũng đều là còn trẻ con như thế. Có những ngôi chùa màu sắc loè loẹt,
sặc sỡ, điện chớp nháy xanh đỏ trắng vàng thật là vui mắt! Ta còn thấy trong
những đại hội Phật giáo thế giới, có một số tu sĩ không phải nước mình, ăn mặc
“phức tạp” hình thức, trình diễn khăn này, quàng kia, áo trong, áo ngoài,
dây mũ, dây lưng, dây cột đủ thứ... lạ lùng như phường hát tuồng! Lại nói đến
các lễ hội. Càng lễ hội tưng bừng chừng nào thì người ta chen chân không lọt,
Phật giáo cũng không ngoại lệ. Lại còn chùa nào có đàn ca xướng hát thì Phật tử
mới đông, mới có tiền cúng dường! Có nơi, nghe nói, có “ta-bà sư” còn bắt
ấn, múa ấn, cứ mỗi ấn múa là mười lăm triệu. Nhiều ấn chừng nào có phước chừng
đó; và như thế những vong linh mới siêu độ được! Ôi, nhiều lắm, kể không hết
đâu. Nhưng nói tóm một câu: Vậy mà người ta cũng làm được, tin được thì không là
trẻ con thì gọi là gì?
Con nít thì thích
bắt chước. Người lớn làm sao thì chúng bắt chước như thế. Nào là bắt chước ăn
mặc, tô môi, độn đủ thứ, chuyển giới, cách đi đứng, hát hò, nhảy tưng tưng, khoe
thân, khoe những phần phản cảm... mà lại hí hửng, hãnh diện... bằng ta bằng
người! Còn được gọi là văn hoá, văn minh, hiện đại, tiên tiến nữa chứ! Trong
giới Phật giáo thì cái tính bắt chước cũng đang báo động. Các ông sư Thiếu Lâm
múa võ tưng bừng có “thương hiệu làm ăn đàng hoàng” thì đâu đó giới tu sĩ
cũng xem võ học là một cách tu! Đâu đó có mấy nhà sư Đại Hàn lên sân khấu biểu
diễn ca nhạc kịch thì có người cũng đem vào nhà chùa để ca vũ nhạc kịch như ai!
Thấy mấy ông pháp vương, pháp sư Tây Tạng nào đó đem những mạng đà-la, những
cách mật truyền gì đó thì ta cũng có người bắt chước huyền huyền bí bí để nhát
thiên hạ, lôi kéo tín đồ... mới là thời thượng! Những vị thiền sư chân chánh ở
Miến, ở Thái nhiều năm tu học trong rừng sâu, sau đó, lấy kinh nghiệm tu chứng
bản thân để dạy yếu chỉ minh sát cho người có duyên khai tâm mở trí. Thấy hay,
thế là người ta bắt chước. Một số tu sĩ, cư sĩ mới tu học đâu từ “mới đầu hôm
cho đến sáng”, bảnh mắt ra, đã bắt chước thành thiền sư để dạy thiền minh
sát nơi này nơi nọ. Thấy người ta “phồng xẹp” cũng bắt chước “phồng
xẹp”. Thấy người ta đi kinh hành “dở à, bước à, đạp à!” cũng bắt
chước “dở à, bước à, đạp à!” Hiện trạng này cũng nhiều lắm! Đủ mọi loại
bắt chước. Băt chước giống chùa Tàu, chùa Đài Loan, chùa Nhật, chùa cung đình!
Có nhiều “Đại Tự” nổi danh trên báo mạng, trên thông tin du lịch, tôi đến
thăm xem, tay cầm máy ảnh... đi một vòng... không biết chụp cái gì, đành bỏ
không, ra về. Vì tôi không thấy đâu là sự tinh tế của nghệ thuật kiến trúc, cũng
không thấy đâu là hồn Việt, hồn thiền... chỉ thấy “hồn vật chất” hoành
tráng, đường bệ, ngạo nghễ, phô cái đại bản ngã ra cho thiên hạ khâm phục, ca
ngợi bạc tiền, công phu, vĩ đại! Ở đâu đó thường thích cái to lớn, vĩ đại, kỷ
lục này, kỷ lục nọ... bắt chước chẳng khác chợ đời! Ôi! Cái loại con nít, chưa
chịu trưởng thành này kể sao cho xiết!
Còn nữa, con nít
thì mau quên, cái gì vừa làm tức thời là quên ngay! Nó phá nghịch cái gì đó, cha
mẹ la rầy hoặc trách mắng... một vài lần cũng không ăn thua. Đôi khi phải đánh
đau, nó mới nhớ! Cũng vậy, rất nhiều người tu Phật cũng còn tính trẻ con như
thế. Vừa xin giới hoặc vừa nguyện cái gì đó trước Tam Bảo – nhưng rồi, lúc ra
chợ, gặp bạn bè lôi cuốn, thế là quên giới, quên lời nguyện ngay! Có trường hợp
khác, những lời khuyên dạy sống đời trong lành, hiền thiện của thầy, của kinh
pháp, có thể học thuộc lòng... nhưng tập khí quá mạnh, lôi cuốn vào đường xấu,
vẫn chưa tỉnh. Đến khi nghiệp báo trổ quả, đánh cho những đòn đau, khi ấy mới
nhớ, mới tỉnh. Thế không gọi con nít là gì!
Khái quát như thế
cũng tạm đủ. Thế gian này, như vậy, đa phần chúng sanh chưa chịu trưởng thành.
Giới tu Phật cũng thế, không chịu làm người lớn. Đáp ứng và nhu cầu. Nhu cầu và
đáp ứng. Đói thì tìm vú mẹ. Trẻ kêu khóc là do bụng đói, hãy cho nó cái ăn! Làm
ngang đó và thoả mãn ngang đó. Không chịu lớn khôn hơn để thấy sâu, thấy rộng về
nhân, về quả, về tâm, về nghiệp, về tín, về tuệ. Rốt ráo hơn tí nữa là phải thấy
lý duyên sanh, thấy khổ và nguyên nhân khổ để diệt khổ mới xứng đáng làm người
lớn, người con trưởng thành trong giáo pháp của đức Sakyā Gotama lịch sử!
MINH ĐỨC TRIỀU
TÂM ẢNH