ÁNG MÂY CHIỀU
ang may chieu
Đặng Công Hanh
Từ thuở nào, cuộc sống tự nó
vẫn đầy rẫy những biến động, con người thường phải đối mặt với những điều bí ẩn
và khát vọng chân lý vẫn cứ là khát vọng muôn đời.
Bởi lẽ, thực thể của vạn hữu
và nhân sinh thường là cái gì đó quá lớn lao đối với tri thức, vượt qua khả năng
tri nhận của con người. Do đó, việc giải minh về nguồn gốc của các bí ẩn như thế
là một cuộc truy tìm vĩnh cửu, dẫu cho đến tận hôm nay, dấu tích của những truy
tìm đó đều chỉ tập trung quanh giả thiết về nguyên nhân đầu tiên. Phương pháp là
nương tựa vào con đường của logic (luận lý) và y cứ trên các hiện tượng tri giác
để nhận thức. Thế nhưng tri giác và logic không phải là thước đo để định vị chân
lý tuyệt đối. Vì vậy cách giải thích và biện giải không đem lại lợi ích gì cho
con người trong việc tìm kiếm chân lý, kể cả hạnh phúc. Nên đó chỉ là cách tư
duy huyền học viễn mơ.
Theo Đức Phật, không thể tìm
hiểu ra được nguyên nhân đầu tiên của đời sống hay của bất kỳ một sự hữu nào.
Trong vòng tương quan nhân quả, nguyên nhân đầu tiên là điều không thể hiểu được.
Theo kinh nghiệm thông thường, nguyên nhân trở thành kết quả và kết quả trở
thành nguyên nhân. Mọi hiện hữu đều dựa vào sự phụ thuộc và tương quan lẫn nhau.
Nguyên tắc này được gọi Lý Nhân duyên, căn bản vận hành là nguyên tắc về
nhân quả.
"Khi cái này hiện hữu, cái
kia hiện hữu
Cái này đang sanh, cái kia
cũng sanh
Khi cái này không có, cái
kia không có
Cái này đang ngưng, cái
kia cũng ngưng".
- Một cái cây, cây mọc lên
tùy thuộc vào giống, đất, nước, độ ẩm, không khí và ánh sáng. Tất cả các hiện
tượng ấy phát sinh lại tùy thuộc một số yếu tố nhân quả không tự tác khác, là
một ví dụ.
- Ngọn lửa của đèn dầu cháy
do tim và dầu mà có được. Khi dầu và tim đèn hiện hữu thì đèn cháy. Nếu một
trong hai thứ đó không có thì đèn tắt, cũng là ví dụ.
Quy luật trên đây nhấn mạnh
rằng tất cả các hiện tượng trong vũ trụ đều ở trạng thái liên hệ, phụ thuộc lẫn
nhau, không sinh khởi độc lập. Chính vì điều này nên không có một cái gì trong
thế giới này được xem là một thực thể trường cửu. Nhưng bị thúc đẩy bởi
động cơ tham ái nên con người thường tạo những giả tưởng về sự thường - còn
trong tâm nên khó có thể hiểu được rằng thế giới này là ảo ảnh, là huyễn, là
không thật. Nó tương tự như một quả cầu lửa khi được xoay tít chung quanh, trong
một thời gian, nó có thể tạo ra ảo ảnh của một vòng lửa.
Đối với con người, sự sống
phát sinh, hiện hữu và tiếp nối ra sao, khổ đau sinh khởi thế nào thì Lý Nhân
duyên mô tả qua sự vận hành của 12 chi phần.
1. Vô minh
2. Do vô minh duyên sinh hành
(những hành động thuộc ý chí hay nghiệp)
3. Hành duyên sinh thức
4. Thức duyên sinh danh sắc
(hiện tượng tinh thần và vật chất)
5. Danh sắc duyên sinh lục
nhập (năm giác quan và ý thức)
6. Lục nhập duyên sinh xúc
7. Xúc duyên sinh thọ
8. Thọ duyên sinh ái
9. Ái duyên sinh thủ
10. Thủ duyên sinh hữu
11. Do tiến trình của hữu
duyên sinh sanh
12. Do sanh có lão, tử, bi,
khổ...
Hai chi phần trong nhóm
nghiệp là hành và hữu. Hành bao hàm những thói quen, những ấn tượng mà chúng ta
tạo thành trong dòng chảy của tâm thức, qua những hành động lặp đi lặp lại.
Những ấn tượng này khởi lên và đi qua, chìm vào quá khứ; ẩn tượng đã xuất hiện
nhưng chưa đi qua thuộc hiện tại và ấn tượng sẽ xuất hiện ở vị lai. Tiến trình
nối tiếp là một thiết chế khái niệm nhân quả, đặc tính vận hành của ý thức, khi
dòng vận hành này được nhận thấy rõ thì mối quan hệ nhân và quả được xác minh.
Tác dụng của ý thức là tri nhận những ấn tượng quá khứ, hiện tại và vị lai. Ấn
tượng tri giác đi qua, rơi vào tiềm thức, tích hợp hình thành kinh nghiệm.
Kinh nghiệm đến lượt nó tạo
cho ý thức một thái độ nhận thức đối với tri giác mới. Nhưng do sự tương tức của
kinh nghiệm nên không tồn tại một tri giác nào hoàn toàn mới mẻ đối với ý thức.
Như vậy, đặc tính của khái niệm nhân quả hoàn toàn là khái niệm thời gian vì đó
chính là tính cách vận chuyển của ý thức, mà bản chất của nó là kinh nghiệm, là
sự tích hợp của thói quen, của ấn tượng tri giác.
Ấn tượng tri giác hiện tại
được tiếp qua ý thức, thực ra nó đã qua hình ảnh ấn tượng quá khứ. Hiện tại như
thế được chồng chất bởi kinh nghiệm của quá khứ, vì vậy hiện thực hiện hữu ngay
bây giờ và tại đây là hiện thực đã nhìn nó qua lăng kính nhân quả, có nghĩa là
hiện hữu đó đã đặt vào một khuôn mẫu cố định tại một điểm nào đó trong không -
thời gian.
Có thể tóm lại, khi chúng ta
có những ô trược, được mô tả là các bất tịnh của tâm, tức vô minh, ái và
thủ. Tâm bất tịnh này tạo hành động, và cả những hành động tạo tác từ tiền kiếp,
đưa đến sự hình thành nguồn thói quen hay còn gọi là hành trong kiếp này, ứng
với chi phần gọi là hữu. Tất nhiên hữu có liên đới phù hợp với những ấn tượng đã
có từ tiền kiếp.
Theo cách diễn tả này thì 5
chi phần của lý Nhân duyên trong 2 nhóm ô trược và hành động: vô minh, ái, thủ,
hành và hữu là nguyên nhân của tái sinh và đau khổ.
"Cũng có lúc hai chân dừng
một lượt
Ngó ngu ngơ xưa chính ở
chỗ này". (Bùi
Giáng)
Trong ý nghĩa này, Thập nhị
nhân duyên (tên gọi của 12 chi phần) trình bày một bức tranh luân hồi có đủ nhân
và quả, có nghĩa là giải thích tiến trình của sanh và tử. Nó không nhằm trình
bày nguồn gốc tuyệt đối của đời sống, và cũng không phải là một lý thuyết tiến
hóa của thế giới vạn hữu. Các tư duy thể loại này không phù hợp với giáo lý
Duyên khởi và rơi vào lý luận vô bổ. Đức Phật và hàng đại đệ tử của Ngài không
hề bàn đến các câu hỏi về nguồn gốc của các hiện hữu bao giờ cả.
Theo quan điểm của Phật giáo
thì vũ trụ đang là này, là hiện thực đối với con người nên có mối liên hệ
hữu cơ không thể tách rời được. Về mặt chân tướng thì thế giới hiện tượng cũng
là duyên sinh và vô ngã nên gọi là không tính, đương nhiên con người cũng là
không tính.
Với kinh nghiệm trong đời
sống hằng ngày, con người sinh ra để sống với khát vọng được hạnh phúc, hưởng
được lạc thú qua 6 giác quan. Vì vậy, cái thế giới mà chúng ta đón nhận xuất
hiện qua tham ái, chấp thủ và vô minh. Đó là thế giới ảnh tượng, không chân
thật, đã bị biến dạng bởi sự can thiệp của tình cảm, của tri thức thiên lệch và
cái nhìn chao đảo.
Nhà thơ thế hệ tiền chiến, Vũ
Hoàng Chương đã nhìn đời qua đôi mắt thật buồn, ông viết:
"Lũ chúng ta đầu thai lầm
thế kỷ
Một đời người u uất nỗi
chơ vơ
Đời kiêu bạc không dung
hồn giản dị
Thuyền ơi thuyền xin ghé
bến hoang sơ".
Cùng một hướng nhìn như thế,
nhà thơ Hoài Khanh trong tập thơ "Lục bát":
"Tương lai vào một buổi
chiều
Đời người rồi cũng xế
chiều, chao ôi!"
Qua giáo lý Duyên khởi, Đức
Phật dạy rằng con người và thế giới là duyên sinh. Thế giới đó là chân thật, nằm
ngay trong chúng ta, trong hiện tại và ngay tại đây khi chúng ta buông xả mọi
tham ái, mọi chấp thủ và tịnh hóa nội tâm để không còn cuốn theo những cuộc chơi
nương dâu bãi bể, nay rày mai khác. Kinh dạy: Tâm thanh tịnh thì thế giới
thanh tịnh. Để xây dựng trạng thái nội tâm đó, con người cần phải thực hành
một đời sống giải thoát theo con đường Bát Chánh đạo:
1. Chánh kiến: gìn giữ một
quan niệm xác đáng về giáo lý và về Tứ diệu đế.
2. Chánh tư duy: suy nghĩ
đúng đắn và có mục đích đúng đắn.
3. Chánh ngữ: không nói dối
hay phù phiếm.
4. Chánh nghiệp: tránh phạm
giới luật.
5. Chánh mệnh: tránh các nghề
nghiệp mang lại giết hại như đồ tể, buôn bán vũ khí, thuốc phiện...
6. Chánh tinh tấn: phát triển
nghiệp tốt, trừ nghiệp xấu.
7. Chánh niệm: tỉnh giác trên
thân, khẩu, ý.
8. Chánh định: tập trung tâm
ý đạt bến định xuất thế gian.
Trong Bát Chánh đạo, chánh
kiến là bước khởi đầu có tính nền tảng, nhờ đó mới có khả năng thẩm thấu được
thực tính sự vật, mới tự chuyển hóa được toàn bộ cách suy nghĩ và cách hành động
của mình. Vậy ai đã phát triển chánh kiến thì người đó có khả năng nhìn mọi hiện
tượng như nó "thực là".
Ngày nay, sống trong thời đại
khoa học và công nghệ phát triển rực rỡ cao độ nên hầu hết mọi khía cạnh của
cuộc đời con người đều bị ảnh hưởng bởi khoa học từ những suy nghĩ đến việc làm.
Các ứng dụng thực tiễn của khoa học đã giúp cho nhân loại hưởng một cuộc sống
tiện nghi tuyệt vời mà trước đó không ai dám mơ ước. Có lẽ vì thế nên ta thường
nghe nói rất nhiều về khoa học với những điều khoa học có thể làm, nhưng lại rất
ít về cái khoa học không thể làm.
Khoa học nỗ lực tìm hiểu thế
giới bên ngoài, và chỉ quan tâm sơ sài đến thế giới bên trong. Khoa học về tâm
lý còn mức độ non trẻ trong việc tạm hiểu nguyên nhân cơ bản của tâm trạng bất
an con người và không làm chuyển hóa được thế giới nội tâm. Khoa học không đưa
ra mục đích có ý nghĩa cho cuộc sống, không cung cấp những lý do rõ ràng cho
kiếp sống nhân sinh, bất lực trong việc cung ứng một cương lĩnh đạo đức cho nhân
loại mà trái lại còn đốt nóng thêm ngọn lửa ái dục của con người.
Sự bất lực này không phải là
một thất bại của khoa học, mà chính là vì khả năng và ranh giới nghiên cứu của
mình. Khoa học gồm ngành cơ bản và ứng dụng, là hiện thân của trí thức lý thuyết
và tri thức ứng dụng, nó không đặt cho mình mục đích là trí thức chiêm nghiệm và
giải thoát.
Phật giáo, theo các triết gia
lỗi lạc hiện đại, và các nhà khoa học lớn, là một tôn giáo thích hợp nhất của xã
hội khoa học hiện đại, dù rằng khoa học không phải nội dung chính trong các lời
giáo huấn của Đức Phật. Điều nhận xét này đã nói lên rằng, ngoài những giáo lý
có tính chất của một nền đạo đức, vẫn còn có cả một thế giới bàng bạc cái tính
cách của "kính vạn hoa" phản chiếu ảnh tượng như thực như hư, như có như
không mà còn người với đầu óc thường nghiệm khó lòng mà kiến giải, nếu không
viện dẫn đến lòng xác tín.
Hoài vọng của các thế hệ học
Phật ngày nay, sinh ra và lớn lên, thừa hưởng được nhiều thành tựu của nền văn
minh khoa học và công nghệ, nhưng đồng thời chịu đựng không ít những đổ vỡ trầm
trọng của tâm thức. Hoài vọng như vậy sẽ thành tựu hoặc không, và sự thành tựu
sẽ như thế nào là một chuyện khác, tùy thuộc vào cách quan niệm.
Vì vậy, dù cho khoa học vẫn
còn những sắc màu cám dỗ đối với trí năng con người về những chân lý khách quan
mà trí năng của con người có thể vươn tới được. Tuy nhiên nó cũng đã gieo những
ảo tưởng vào khả năng tính của trí năng, và dần dần theo thời gian, nó không còn
giữ được thể giá như ngày xưa, do những giới hạn từ bản chất bên trong của nó.
Với những dụng cụ tinh vi có độ chính xác cao, nhà khoa học có thể nhìn thấy từ
các thiên hà xa xôi cho đến thế giới hạ nguyên tử. Nhưng với trạng thái tinh
thần, giấc mơ, ý tưởng, hy vọng, lo âu của ông ta thì thế nào?
Rất nhiều câu hỏi đại loại
như thế. Xã hội con người đang phải đương đầu với hàng loạt các vấn đề nan giải
không thể giải quyết được chỉ bằng các phương pháp của khoa học, và cũng có
những vấn đề về con người mãi mãi vượt ra ngoài khả năng tìm kiếm của khoa học.
Bất luận từ vị thế nào, hoàn
cảnh nào, con người hiện thân như một gã cùng tử trong kinh Pháp hoa,
luôn luôn trôi nổi trong biển khổ nghiệp thức. Gia bảo đang có đó, nhưng vẫn
chưa tìm thấy dù tháng ngày rông ruỗi miệt mài mà sở nguyện vẫn còn xa vời vợi.
Vì sao thế? Bởi vì nói theo ngôn ngữ Phật giáo, con người hiện hữu đang bị ràng
buộc trong sự chiêu cảm của nghiệp lực, của những chiều kích thông tục về vật
chất, thời gian, không gian và tương quan nhân quả một chiều. Bởi thế cho nên:
"Thế kỷ chúng ta trót buồn
trong mắt
Năm bảy nụ cười không xóa
nỗi ưu tư". (Nguyên
Sa)
Dù cho một số khái niệm mới
mẽ nhất của nền vật lý hiện đại, vật lý vi mô hiển hiện trong các trang kinh xưa,
cho phép ta nghĩ rằng các tương đồng này mở đường cho khoa học tìm đến đạo Phật.
Đây quả thật là một trợ duyên đối với những ai thường hay đọc kinh và thường hay
mơ màng hàng giờ trên những trang kinh. "Thế gian pháp, tức Phật pháp" là
một xác tín. Niềm xác tín của các thế hệ tu học Phật qua những gì
mà Đức Phật giảng dạy, giáo hóa đã đem đến một thành tựu quá lớn lao, hơn những
gì ta gọi là xác thực mang lại. Bởi vì, cái mà gọi là xác thực chỉ
là xác thực trong sự tương ưng của nghiệp cảm, nghĩa là còn chịu tác động
của vô minh trên tâm thức. Cái khát vọng và đòi hỏi sự xác thực chính là
sự thôi thúc của mong manh về những gì được gọi là xác thực.
Đã trải qua một thời gian khá
dài, vật lộn với đời sống, đem tâm trí mình chao đảo trong những suy niệm triết
học, nghiền ngẫm những thành tựu của khoa học để rồi sau cùng, mò mẫm tìm đến
mạch pháp ẩn tàng, trải nghiệm lý tính tự thân, mở lối cho tâm trí đã từng bị
chi phối bởi những kiến giải khoa học.
Đạo Phật hiện thân như một
con đường sau cùng thênh thang huyền nhiệm, trong khi các ngã đường khác dường
như rơi vào bế tắc. Và cũng như tự bao giờ, những trang kinh mời gọi con người
đi tới thâm nhập, để tỉnh thức, bằng con mắt Huệ trước màn vô minh dày đặc, giữa
những quay cuồng điên đảo của cuộc sống. Cánh cửa vào đạo từ đó cũng sẽ mở rộng
vững chắc để chúng ta trở về với một tâm thái mùa xuân trong chân lý cõi bình
an.
"Sớm nay khoác áo màu vô
định
Ra gặp mùa xuân đến giữa
đàng
Lá biếc đưa thoi xuyên
vĩnh viễn
Gió là sợi thắm của thời
gian". (Huy Cận)
Chân lý của cõi bình an nội
tại là một đời sống hạnh phúc thực thụ, bắt nguồn tự sự tịnh hóa nội tâm, vượt
lên trên thế giới cảm xúc nhị nguyên, không dong ruổi theo những khát vọng bên
ngoài. Lúc bấy giờ ta sẽ dễ dàng chấp nhận cuộc đời với bao nhiêu chìm nổi,
thiên hình vạn trạng bể dâu của tồn sinh mộng ảo mà không hề thấy cái gì vướng
bận trong tâm.