Bhikkhu Dhammasami – Đăng
Nguyên dịch
Tụng kinh hay cầu kinh là
một điều phổ biến trong các tôn giáo. Phật
giáo cũng không ngoại lệ trong vấn đề này.
Tuy nhiên, mục đích của việc tụng niệm thì
khác nhau giữa tôn giáo này với tôn giáo khác. Phật giáo là
tôn giáo duy nhất không xem tụng niệm như là cầu
nguyện.
Đức Phật trong
nhiều phương cách đã chỉ dạy chúng ta
phải có niềm tin vào hành động của mình và
kết quả của nó, và qua đó khuyến khích chúng ta
nương tựa vào chính mình mà không vào một ai khác.
Điều này trong thực tế là điều cốt lõi nơi
thông điệp sau cùng của Ngài ở trong kinh Đại Niết-bàn
(Mahaparinibbana Sutta). Một trong những thông điệp
trong kinh ngày là: “Này A Nan, hãy nương tựa chính mình và chớ
nương tựa vào ai khác, hãy nương tựa Chánh pháp
và chớ nương tựa vào pháp nào khác”.
Khi một người
Phật tử tụng niệm, vị ấy không cầu
xin ai đó cứu mình ra khỏi tội lỗi hay mong
chờ dành cho mình một nơi chốn ở trên thiên
giới sau khi chết. Thay vào đó, thông qua việc
tụng niệm vị ấy có thể học tập,
giảng dạy, suy nghiệm hay nhớ lại kinh
điển.
Thật sự, trong Tăng
chị bộ (Anguttara Nikaya), có một vài bản kinh liên
quan đến việc tụng niệm như kinh Dhammavihari Sutta. Nó đề
cập đến năm hạng người sử
dụng kinh điển.
Đầu tiên là người
nghiên cứu nó chỉ với mục đích học hỏi
mà không đưa nó vào trong thực hành hay giảng giải
cho người khác. Vị ấy không quán chiếu sâu vào
những gì mình đã học. Vị ấy được
gọi là 'Pariyatti-bahulo', người chỉ thiện
xảo trong nghiên cứu nó.
Thứ hai là người
thuyết giảng những gì mình đã học
được từ kinh sách nhưng bản thân không
thực hành nó. Vị ấy được gọi là
‘Pannyatti-bahulo’, người chỉ thiện xảo trong
giảng dạy.
Thứ ba là người
tụng niệm. Vị ấy nghiên tầm và tư biện
về kinh điển, cố gắng dành mọi thời
gian để thỏa mãn khát khao triết học của
mình. Vị ấy quên ứng dụng kinh điển vào
đời sống. Vị ấy được gọi là
‘Vitakka-bahulo’, người chỉ say mê thỏa mãn những
khía cạnh triết học của kinh điển.
Thứ tư là người
tụng niệm kinh điển chỉ để mong
nhớ lâu. Vị ấy học thuộc lòng và ghi nhớ
lại. Tuy nhiên, vị ấy không đi xa hơn là áp
dụng nó vào trong đời sống hàng ngày. Vị ấy
được gọi là ‘Sajjhayaka-bahulo’, người
chỉ say mê học thuộc lòng và tụng niệm lời
dạy của Đức Phật. Vị ấy thậm chí
mong muốn có được thần thông từ việc tụng
niệm.
Thứ năm và cuối cùng
là người học hỏi kinh điển, giảng
dạy chúng cho người khác, quán chiếu những
điểm triết học của chúng, tụng niệm
chúng thường xuyên và trên hết là thật sự
thực hành chúng ở trong đời sống hàng ngày.
Vị ấy là người mà Đức Phật tán thán là
‘Dhammavihari’ – một người thực hành Pháp (Dhamma),
điều mà vị ấy đã học được
từ kinh điển.
Sau khi
đã quán chiếu bản kinh này, chúng ta hãy nhìn xem mình thuộc về hạng
người nào, và tại sao chúng ta học hay tụng kinh.
Thế thì
tại sao chúng ta, những Phật tử, tụng niệm?
Ngày xưa, trước khi có
những phương tiện hỗ trợ đầy
đủ cho việc học tập như sách, những dịch
phẩm và vi tính thì chúng ta phải học thuộc lòng
một bản kinh. Sau khi chúng ta học nó, chúng ta phải
tụng niệm thường xuyên để bảo lưu
nó và truyền lại cho những thế hệ sau. Nếu
chúng ta không tụng nó hàng ngày, chúng ta có thể quên nó và
bỏ sót một số phần của nó. Kinh Tăng chi (Anguttara
Nikaya) nói rằng nếu kinh điển được gìn
giữ kém, điều này sẽ đưa đến
sự biến mất lời dạy của Đức
Phật. Vì vậy thời bấy giờ việc ghi
nhớ và tụng đọc thường xuyên là
điều vô cùng quan trọng. Điều này rõ ràng đã
góp phần đưa đến việc thực hành
tụng niệm. Tụng niệm có ý nghĩa thực
sự cho việc tồn tại của Pháp.
Bây giờ chúng ta có đủ
những phương tiện hỗ trợ, vậy tại
sao chúng ta vẫn tụng niệm? Có lý do nào khác khi thực
hành điều này?
Có một số lý do đáng
để tiếp tục thực hành tụng niệm.
Tụng niệm thường xuyên giúp cho chúng ta có tự
tin, sự hoan hỷ và gia tăng tín tâm trong ta. Tâm
đạo này thật sự là một sức mạnh. Nó
được gọi là tín lực (saddhabala). Nó tiếp
nghị lực cho đời sống chúng ta. Tôi không rõ người
khác thì thế nào. Đối với tôi, tôi thường có
cảm giác hoan hỷ khi tụng niệm. Tôi trở nên
tự tin hơn. Tôi thấy nó như là một phần
của việc phát triển đạo tâm.
Trong
truyền thống giáo dục tự viên Phật giáo,
tụng niệm và học thuộc lòng vẫn còn là một
phần của việc giáo dục. Ở Miến
Điện, chúng tôi học một số bản A-tỳ-đạt-ma (Abhidhamma)– những lời
dạy cao nhất của Đức Phật mà nó liên quan
đến bản chất tối hậu của các pháp –theo
cách đó. Chúng tôiđược giảng giải về ý
nghĩa và những phát triển logic ở trong A-tỳ-đạt-ma như
thế nào. Vào buổi tối, chúng tôi cố gắng
tụng đọc nhưng không học thuộc lòng nó. Nó
được biết như là lớp học ban đêm có
mặt khắp ở đó. Đây là một kỷ
thuật nghiên cứu A-tỳ-đạt-ma
và một số kinh điển. Điều này là rất
hữu ích vì nó giúp bạn quán chiếu rất nhanh.
Khi chúng ta
xem xét bản chất của kinh điển, lý do cho
việc tụng niệm sẽ trở nên rõ ràng hơn
đối với chung ta.
Bản
chất của kinh điển
Có một bản kinh, là kinhHạnh phúc(Mangala Sutta),ở
đó Đức Phật đã trả lời câu hỏi
của một vị Thiên (Deva)
về sự tiến bộ thực sự trong xã hội,
trong kinh tế và đời sống tâm linh. Đó là cái nhìn
của Đức Phật về những điều này cũng
như lời khuyên của Ngài đối với tất
cả chúng ta, những người thật sự muốn
tiến bộ trong đời sống xã hội và tâm linh.
Nó là điều mà chúng ta nên thực hành trong suốt
cuộc đời của mình từ thời thơ ấu
cho đến khi trút hơi thở sau cùng. Hầu hết
kinh điển đều mang bản chất này. Kinh
điển là những mô tả cũng như những toa
thuốc cho những căn bệnh chung là tham, sân và si.
Bản chất khác của
kinh điển là bảo vệ hay chữa bệnh. Kinh Châu báu (Ratana Sutta) là một
trong những ví dụ nổi bật nhất ở đây. Kinh
này được dạy cho Tôn giả A Nan để
thầy tụng đọc quanh kinh thành Vệ-xá-li khi dân
chúng ở đây đang đối mặt với hiểm
nạn và đói kém. Kinh Angulimala
cũng được xếp vào phân loại này khi nó
giải thoát đau đớn và rắc rồi cho một
người sắp làm mẹ. Kinh Đại hội (Mahasamaya Sutta) và kinh Atanatiya cũng xếp vào cùng
loại bởi chúng nhấn mạnh vào hộ trì và chữa
bệnh. Nến nhớ rằng Tôn giả A Nan và Angulimala
đã tu tập lòng từ bi trước khi tụng
niệm những bản kinh dành cho việc cầu an
đặc biệt này.
Ba bản kinh Thất giác chi (gồm: Maha Kassapa Bojjhanga Sutta,
Moggallana Bojjhanga Sutta, vàMaha Cunda Bojjhanga Sutta) thì được
sử dụng phổ biến để giúp giải thoát
đau khổ của một người bệnh. Đây là
bản chất thứ ba của kinh điển mà tôi đang
cố hiểu và quán chiếu.
Thậm chí Đức Phật
yêu cầu Tôn giả Cunda tụng đọc kinh Thất giác chi khi Ngài bị
bệnh. Chính Ngài đã tụng đọc kinh Thất giác chi khi những
Đại đệ tử của Ngài là Tôn giả Maha
Kassapa và Tôn giả Maha Moggallana bị bệnh. Đây là
những bản kinh mà chúng bao gồm cả những
hướng dẫn cho việc thực hành thiền và
năng lực chữa bệnh.Kinh Từ bi (Karaniyametta Sutta) có những bản
chất tương tự: hướng dẫn thực hành
hàng ngày để phát triển lợi ích tinh thần và tiêu
trừ những điều xấu.
Nói cách khác, tụng niệm
trong Phật giáo đáp ứng như một cách nhắc
nhở sự thực hành mà ta cần làm trong đời
sống hàng ngày. Nếu chúng ta hiểu và học cách
để thực hành nó đúng đắn, thì chính đó là
một cách khác của thiền định. Nó cũng
đồng thời là một sự chữa trị hay
cầu an.
Lợi ích cuối cùng chúng ta
có thể có được từ việc tụng đọc
kinh điển là một cách thiền định. Khi chúng
ta tụng đọc, nếu chúng ta cố gắng tập
trung tốt vào việc tụng đọc của mình, tâm
của chúng ta trở nên chuyên nhất, không rông ruỗi, và
không sinh khởi những suy nghĩ bất thiện. Cố
Hoà thượng H.Saddhatissa Mahanayaka Thero, người sáng
lập SIBC (Saddhatissa International Buddhist Centre), đã có sự nhận xét đúng đắn trong
cuốn sách của ngài, rằng hầu hết những
thực hành của Phật giáo không có điều gì khác
hơn ngoài thiền định./.
Nguồn: urbandharma.org