Đặng Công Hanh
"Ta cứ ngỡ trần gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật đến bây giờ"
(BG)
Hai câu thơ này được trích dẫn từ một bài thơ của cố thi sĩ Bùi Giáng. ông
còn được biết đến là nhà biên khảo triết học và dịch thuật văn học nước ngoài từ
những thập niên 60. Ông có một cuộc sống vượt quá ước lệ thế tục trong một phong
cách nửa thực, nửa hư rất kỳ bí, như có lần trong tâm trạng u hoài ông diễn cảm
"Chợt có lúc trên đường tôi đứng lại
Ngó ngu ngơ xưa chính ở
chỗ này".
Tương tự như vậy, có một lần Stcherbatsky, nhà triết học Tây Phương nổi
danh có nhiều công trình nghiên cứu Phật học, khi đang ngồi trên ghế viết
"Buddhist Logic" đã nói: "nói cái ghế đang ngồi là "không" thì thật là đầu óc của những người
khùng, nhưng tôi vẫn biết nó là "không"".
· Có điều mâu thuẩn chăng:
Khi nói đến nhận thức tức là có chủ thể nhận thức đặt trong một mối tương
quan với đối tượng được nhận thức nào đó. Trên phương diện nhận thức luận và
giải thoát luận thì bất kỳ một hiện hữu nào cũng được nhận diện qua ba tính chất:
- Tự tính giả lập: Thông thường, ta thường sở hữu hoá căn tính sự vật qua
nhận thức của mình và đặt một
tên gọi nào đó, tuỳ thuộc vào quan điểm chung của cộng đồng và thời đại.
Như vậy, tự tính giả lập đó hoàn toàn khác biệt với sự thể, mà chính nó bị giả
lập bởi sự định danh. Sự giả định này xuất phát tự giao thoa của sự hoà hợp
tương tác bởi căn - trần - thức (giác quan, đối tượng và cái biết). Ví dụ: Nước
Pháp, tự thân nó khác biệt với cái gọi là Pháp.
- Tự tính tuỳ thuộc là sự nương tựa nhau: tương tác với nhau mà hiện thành
nên một sự thể hiện hữu. Tự tính tuỳ thuộc này đồng nghĩa với duyên sinh tính và
vô ngã tính. Ví dụ cái ghế ngồi, nó là tổng hợp của gỗ, đinh, bàn tay, khối óc,
người thợ.... Như vậy, mỗi hiện hữu xuất hiện như là chính nó (tổng tướng) lại
vừa xuất hiện như cái gì khác nó (tự tướng). Tự tính tuỳ thuộc này thể hiện một
tiến trình hiện hữu của sự vật.
- Tự tính tuyệt đối có ý nghĩa rằng hiện hữu là Như như, không mang tự
tính giả lập, và ngay cả tự tính tuỳ thuộc chính là
Duyên sinh tính hay tự tính Không. Khái quát hơn đó là thực tính - vô tính, mang
đặc tính Niết bàn.
Ba tự tính nói trên luôn luôn hiện hữu trong cùng thế giới thực tại mênh
mông bao la. Nhận thức rõ ràng ba tự tính sẽ mở ra cái nhìn như thật, được phóng
chiếu trên hai mặt tương đối và tuyệt đối. Trên mặt tương đối, hiện hữu được
nhìn thấy là hữu vi thuộc về pháp sinh diệt. Trên mặt tuyệt đối, hiện hữu được
nhìn thấu tận bản thể vô vi không sinh, không diệt, là Nhất thể.
Đại luận sư người Ấn, ngài Nguyệt Xứng xác nhận rằng tất cả mọi sự vật
hiện tượng đều mang hai khía cạnh khác nhau. Một khía cạnh, mang tính quy ước
hay tương đối có thể nhận biết qua kinh nghiệm cảm nhận về mọi hiện tượng và một
khía cạnh mang tính cách tuyệt đối và chỉ có thể nhận biết qua sự quán thấy của
trí tuệ bát nhã, hay vô phân biệt trí.
Như vậy, cái thật được định nghĩa qua hai cách nhìn khác nhau về thực tại:
cách thứ nhất liên quan đến các kinh nghiệm cảm nhận giác quan thường ngày trong
cuộc sống và cách thứ hai liên quan đến sự hiểu biết tối hậu của thực tại. Chúng
ta hiểu rằng hai sự thật đó chỉ là hai cách nhìn khác nhau về sự vật hiện tượng
tạo ra thế giới đang sống. Và cũng cần xác định rằng sự thật tối hậu vượt qua
khả năng của tri thức thông thường mang tính nhị nguyên. Bất cứ đối tượng nào
mà nhận biết được bằng trí thức nhị nguyên đều được xem là mang tính cách tương
đối và qui ước.
· Sự thật và hiểu biết của
tri thức:
Đối tượng của nhận thức như sông, núi, nhà cửa, xe cộ, đàn ông, đàn bà... trước mắt chúng ta đều là những gì được
xem là hiện thực, là thật. Đây chính là sự hiện diện của thế giới thực tại khách
quan, một thế giới với muôn vạn đa thù sai biệt, dù muốn hay không nó vẫn là đối
tượng của nhận thức.
Tuy nhiên, cái mà gọi là những tính cách đặc thù của thế giới thực tại
khách quan mà thực chất chỉ là tự tính giả lập, nó được giả định bằng qui ước
đơn thuần và do tri thức thường nghiệm tạo nên. Sự thật này chưa thoát ly khỏi
biên kiến của sự phân biệt nhị nguyên "có và không" . Đây là cái bàn làm việc,
nó là thật đấy chứ, ở trước mắt ta. Các nhà vật lý nói không phải đâu!. Đi sâu
vào trong nó, họ chỉ thấy không gian và những điện tử quay cuồng với tốc độ gần
tốc độ ánh sáng và càng vào sâu hơn nữa chỉ thấy các hạt cực nhỏ, có chu kỳ
sinh, diệt chóng mặt.
Cái nhìn của các nhà vật lý đã khác hẳn với cái nhìn của người thường, họ
thấy gần sự thật hơn. Tuy vậy khi cần ăn bánh họ vẫn ăn như mình dù họ biết
trong đó là không gian chiếm phần lớn và chỉ có ít vật chất.
Trên bình diện ngôn ngữ, tiếng nói đầu tiên về thực tại, sự thật như thế
được gọi là "Tướng vô tánh".
Từ thế giới ý niệm cho đến thế giới thực tại khách quan luôn luôn có sự
tác động lẫn nhau và điều kiện hoá cho nhau. Tất cả đều là hiện hữu tương duyên,
nên biểu hiện là vô thường. Vì vậy khi nói rằng thế giới có thật như trong ý
niệm thì đó là một hợp tướng, đó là sự vướng mắc vào một đối tượng. Cái mà gọi
là hợp tướng chỉ là ước lệ ngôn ngữ, không có thực chất.
Nói rằng hiện hữu là hiện hữu từ lý Duyên khởi, tức là tuỳ thuộc - phát
sinh; và như vậy, tự tính của hiện hữu là không thực có. Do đó hiện hữu chính nó
là "thực tại - hiện hữu", nó thoát ly ngoài và thoát ly khỏi tương đối tính. Nó
là thực tại tuyệt đối, bất khả tư nghi, bất khả thuyết, một cảnh giới thực tại
tối hậu từ tự thể hay thực tại Tánh không hoặc thực tại Nhất Thể.
· Sắc chẳng khác không,
không chẳng khác sắc
- Sắc là pháp, là hiện tượng sự vật, nó đại biểu cho cái đa thù, cái vô
số. Đây chính là sự hiện diện của thế giới hiện tượng khách quan, thế giới mà
chúng ta đang sinh sống với tất cả những hình tướng ta thấy. Thông qua các kinh
nghiệm cảm nhận qui ước của chúng ta, các sự vật hiện ra rất thật và dường như
sự hiện hữu này khách quan, độc lập. Chẳng hạn như nhìn thấy một con chim, một
cái xe, một con người... Chúng ta hẳn nhiên cho rằng những thứ ấy đúng là vậy,
nhưng chính ra đó là những sự thật quy ước. Bản chất đích thực của các thứ này
là Tánh Không, là Nhất Thể.
- Không hay thực tại Tánh không theo Đức Đạt Lai Lạt Ma quan niệm: "Tánh
không là bản chất tự tại và đích thật, thuộc "bên trong" của mọi sự vật, thế nhưng đồng thời bản chất ấy cũng bị
chi phối bởi hiện tượng tạo tác tương liên, khiến làm phát sinh ra đủ mọi hình
tướng tức là các biểu hiện "bên ngoài" của chúng, và đấy cũng chính là nguyên nhân tạo ra tình
trạng đa dạng của thế giới".
Như vậy, Tánh không là một danh từ dùng để mô tả và cắt nghĩa thuộc tính
của thế giới sự vật hiện tượng dựa trên hai tính chất "bên
trong" và "bên ngoài" .
Tính đa dạng thuộc lãnh vực của các kinh nghiệm cảm nhận thường ngày chính
là hình tướng, nhưng hình tướng đó lại không hàm chứa một hiện hữu nội tại nào
cả và không mang thực thể riêng biệt và độc lập. Cái hình tướng này chỉ có thể
hiện hữu nhờ vào sự liên kết với các nguyên nhân khác như điều kiện phát sinh ra
nó, hoặc là các thành phần hợp tác cấu tạo ra nó. Cũng chính vì lý do này mà
trong Tâm Kinh đức Phật dạy rằng: "Hình tướng là trống không, trống không là
hình tướng".
Do đó, Thực tại Thánh Không này phải được nhìn từ hai mặt: giả danh tức là
tên gọi lâm thời cho một sự thể và trung đạo là chân lý, siêu việt cả hai phương
diện tương đối và tuyệt đối. Quan điểm của Đại thừa thì hai chân lý này "bất khả
phân ly": Hãy tìm Niết bàn trong sinh tử.
Quan điểm này xác định một mối quan hệ tương đồng giữa hai thế giới xem ra
khác, nhưng lại phô diễn trong một mô hình toán học: "Quan hệ đẳng cấu".
· Sự đẳng cấu giữa hai thế
giới Tương đối (SẮC) và thế giới Tuyệt đối (KHÔNG)
Tâm Kinh lại viết: "Sắc chính là Không, Không chính là Sắc, " hàm ý khẳng
định: hai thế giới tương đối và tuyệt đối có vẻ khác nhau đó, thực ra là một.
Trong toán học có một khái niệm ta đề cập ở đây là sự đẳng cấu, nói lên
một quan hệ đồng nhất về một mặt cấu trúc hay chức năng nào đó giữa những hệ
thống. Do sự phức tạp của định nghĩa nên có thể mô tả qua hai giai đoạn như sau:
+ Một tập hợp M với tính chất xác định R giữa các phần tử x của M. Một tập
hợp N với tính chất xác định Q giữa các phần tử z của N. Nếu giữa 2 tập M và N
có một tương ứng một - một sao cho 2 phần tử x của M và z của N tương ứng với
nhau khi x có tính chất R thì z có tính chất Q (hoặc x không có tính chất R thì
z không có tính chất Q).
+ Định nghĩa về đẳng cấu mở rộng cho một tập hợp các tính chất R và Q, kể
cả tập hợp n phần tử x, và n phần tử z.
Bên ngoài lãnh vực Toán học, khái niệm đẳng cấu còn được áp dụng cho các
lãnh vực khác, lúc đó các phần tử được thay thế bằng những từ hiểu theo nội dung
cụ thể, chứ không được định nghĩa một cách hình thức và không còn tính chặt chẽ
toán học nữa. Trên góc độ này, mối quan hệ đẳng cấu hàm ý rằng hai thế giới khác
nhau hay hai thế giới có vẽ khác nhau, thực ra không hề như thế.
Vì vậy, "sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc' nói lên rằng thế giới
của sắc "đẳng cấu" với thế giới của Không. Mặc dù thế giới hiện tượng rất khác
lạ đối với thế giới Nhất thể (thế giới Tánh không), trên thực tế hai thế giới
này không hề khác biệt, tức không phải một nhưng không phải hai. Chúng ta đang
vận hành ở cả hai thế giới này cùng một lúc (chúng là một thế giới) và hầu như
chúng ta chưa thực sự trải nghiệm được thế giới của Nhất thể, nên thế giới đó
chỉ là ý niệm, không phải cái mà ta thực sự cảm thấy.
Thiền sư Santideva (Tịch Thiên) là giáo sư Đại học Na-lan-da "cho rằng khi
nào đã cảm nhận được Tánh không một cách thường xuyên thì chúng ta cũng sẽ dần
dần loại bỏ được tác động của những phản ứng bản năng quen thuộc xuất sinh từ
các chủng tử kết tập ở quá khứ xa xăm hay mới huân tập. Từ đó ta đã loại trừ
được các xu hướng mang tính nhị nguyên được sinh khởi do sự giao tiếp giữa chủ
thể và đối tượng.
Theo ngài Long Thọ (Nogarjuna) một đại sư và triết gia người Ấn, giải
thích rằng Tánh không như là một sự hoà tan của tất cả mọi thứ tạo dựng nên nhị
nguyên,.
Trên quan điểm đó thì vạn pháp bao gồm sự vật có hình tướng vật lý như con
người, cây cỏ... đến các yếu tố tâm lý như vui buồn, yêu thương, giận dữ, nụ
cười, hạnh phúc, hay bất hạnh đều là những biểu hiện của Tánh không. Vậy Tánh
không là gì? là tất cả những hiện tượng này mà không có nhãn hiệu dán lên chúng,
có nghĩa là ta buông xả đi tất cả các nhãn hiệu, các tư tưởng về sự vật hiện
tượng mà chỉ còn lại "cái đang là", nó
'chỉ - là - như - thế", nó và mình chỉ là như thế, hiện thực cũng chỉ là như
thế.
Ngày xưa, Thầy Nguyễn Bá Học, cũng là một nhà văn đã biết "Lời khuyên học
trò", chắc thầy chưa nghiên cứu về Tánh không, nhưng đã thấy Tâm thức có vai trò
tạo dựng thế giới nhị nguyên, nên thấy có so đo, khó để, xa gần, có ngăn ngại
núi sông.
"Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi
Mà khó vì lòng người,
ngại núi e sông".
Thầy Nhất Hạnh có kể lại là một Thiền giả nói như sau:
"Khi tôi chưa học Thiền thì thấy sông là sông, núi là núi. Khi tôi học
Thiền thì thấy sông không phải sông, núi không phải núi. Bây giờ học Thiền rồi
thì thấy sông là sông, núi là núi"
Núi sông, chỉ là những khái niệm qui ước, trong thế giới nhị nguyên, nên
khi ở thời khoảng học Thiền, hành giả đã buông xả sự dính mắc vào những khái
niệm của mình, và khi những dính mắc bị rơi rụng, thì hiện thực như nó - đang - là sẽ có mặt.
· Điều phải làm
Trong kinh nghiệm thiền định (chỉ và quán) thì phương cách trải nghiệm để
cảm nhận tính Nhất thể, là phải buông bỏ cho được thể dạng tâm thức vô minh, bám
víu vào ý niệm sự hiện hữu nội tại của "cái tôi", tăng thêm ảo giác về "cái tôi"
tức là tin vào sự vững chắc của nó, dù thực tế nó không hề hiện hữu. Chính "cái
tôi" là hành trang nặng nề, chất chứa đầy những khái niệm và ý tưởng nên đã ngăn
ngại đối với cái thấy về tính Nhất thể.
Đo tính đẳng cấu của hai thế giới: thế giới tương đối sinh diệt và thế
giới tuyệt đối của Nhất thể, nên một khi ta hiểu được Tánh không, thì sẽ có hành
trang đi vào Đạo, mà Đạo chính là cuộc sống, Sinh tử tức Niết bàn.
Và một khi thực chứng được Đạo, ta sẽ không còn vướng bận thắc mắc về bản
chất của thực tại và hiện hữu, về cõi thật hay không thật nữa. Vấn đề, tất cả
những gì còn lại là sự hoạt dụng của thực chứng đó, và để làm được điều này ta
phải phủi bụi hàng ngày, bằng cách buông bỏ cái tôi. Không có cái tôi thì mọi
thứ chỉ là như chúng, tồn tại độc lập khỏi những ý niệm và sự phân biệt của
chúng ta, lúc đó có được nhiều "ánh sáng"
hơn nữa để vào Đạo.
Học Phật đạo là học chính mình. Học chính mình là học quên cái tôi. Quên
cái tôi thì ngộ bởi tất cả các pháp, Ngộ bởi các pháp thì thân tâm của mình và
thân tâm của tha nhân cũng rơi rụng nốt. Tỷ như khi đang ở trong con thuyền, nếu
chỉ nhìn vào bờ ta có ảo tưởng bờ đang chạy, nhưng khi nhìn thuyền dưới chân
mình mới hiểu rằng thuyền đang chạy.
Học Phật đạo là theo lộ trình văn - tư - tu. Trước hết phải hiểu, không
hiểu thì hành động sẽ mù loà; rồi đến hành động, nếu không có, sẽ không có hiệu
lực. Sau cùng hiểu và hành động thành một.
Thật hay không thật, vướng mắc và mê lầm không đến từ thế giới, mà chính
là từ những quan niệm và thái độ hành xử về thế giới, từ tương quan của chúng ta
với thế giới. Câu hỏi đích thực phải là chúng ta cảm nhận thế giới là gì?
œ&
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tuệ Sỹ: Triết học Tánh không - NXB Đồng Đức - 2013
2. Đạt Lai Lạt Ma: Tu Tuệ (Hoang Phong dịch) -
NXB Đồng Đức - 2013
3. Bernie Glassman: Vòng tròn bất tận (Nguyễn Quyết Thắng dịch)
NXB Hồng Đức 2014