Không
biết từ đâu ta đến đây
Mang
mang trời thẳm đất xanh dày
Lớn
lên mang nghiệp làm thi sĩ
Sống
điêu linh rồi chết đọa đày
Mấy câu thơ thời tuổi trẻ, lúc mới 23 tuổi ấy đã
theo
suốt cuộc đời Nguyễn Đức Sơn, một thi sĩ kiệt xuất trên bầu trời văn nghệ Việt
Nam hiện đại. Rờn lạnh hoang vu một tâm hồn cô độc cô liêu khốc liệt, luôn luôn
ngún cháy bên trong chiều sâu linh thức một ngọn lửa tịch mịch vô hình, thường
trực đứng giữa đôi bờ sống chết giữa đỉnh cao và hố thẳm của tồn sinh bức bách
ngay từ những ngày còn chạy lông bông đùa rỡn cùng sóng vàng cát trắng vu vơ
dọc mấy hàng cây dương liễu xanh ngút ven bãi biển Ninh Chữ xa mù. Từ đó, từ
thuở nhà thơ chào đời năm 1937 ở làng quê Dư Khánh, Thanh Hải, Ninh Thuận đến
nay cũng hơn 70 năm trời đằng đẵng trôi qua rồi mà ngọn lửa tịch mịch đó vẫn còn
hừng hực rực ngời như một ngọn lửa thiêng trong lòng người thi sĩ dị thường :
Tôi
chỉ có lửa
Và
tịch mịch
Trong
người
Lửa thơ, lửa mộng, lửa tình yêu, lửa nghệ thuật hay lửa
sáng tạo ấy bao giờ cũng được thi sĩ đốt lên trên dặm ngàn cuộc lữ thênh thang.
Năm 1956 lúc 19 tuổi, rời làng quê Dư Khánh, tạm biệt thị xã Phan Rang ra phố
biển Nha Trang theo học trường Trung học Võ Tánh một thời gian, nhà thơ thường
trốn học rong chơi lêu lổng dọc ven bờ biển lồng lộng đầy gió nắng với những ý
tưởng mông lung vời vợi, chơi đùa chạy đuổi bắt những vệt nắng xanh vàng rơi tan
trong bọt sóng bồng bềnh lênh láng mộng rong rêu:
Nhiều
khi đợi nắng chiều tan
Tôi
mông lung nghĩ theo làn mây trôi
Ngày
kia nếu ở trên đời
Cha
tôi không cưới mẹ tôi bây giờ
Sinh
ra tôi có làm thơ
Để
điêu linh vẫn như chờ riêng thôi
Những
đêm sao sáng đầy trời
Bỗng
nhiên tôi khóc trên đồi hư không
“Sinh
ra tôi có làm thơ” vì không biết
làm chi hơn là làm thơ, làm một cái công việc mà chỉ có những tâm hồn vô cùng
nhạy cảm, thường xuyên có sự giao cảm âm thầm thâm sâu uyên viễn với nhật nguyệt
thiên địa càn khôn, với hồn thiên cổ xa xăm diệu vời mới thích thú đam
mê theo công việc duy nhất của đời mình, ấy
là cái việc làm thơ làm thẩn đó thôi. Nói như Tuệ Sỹ khi viết về Sơn Núi :
“Sinh ra để làm thơ, đó là Định mệnh ?” hay như Phạm Công Thiện, một người
bạn thân thiết ngày xưa với Nguyễn Đức Sơn cũng nói :
“Làm thơ là hố thẳm xoáy tròn vào cơn bão tố rùng rợn của thơ và chỉ nhìn thấy
thơ trên trời, thơ ở dưới đất, thơ trong tim, thơ trong óc não, thơ trong mạch
máu, thơ trong hơi thở, thơ trong đời sống, thơ trong cái chết, thơ trong hiện
thể, thơ trong vô thể, thơ trong hư vô… Chỉ có thi sĩ mới sống tận bản thân
mình, sống phóng tới đằng trước tất cả những khả tính sắp hiện của dân tộc
mình.”
Đích thực Nguyễn Đức Sơn là một thi sĩ kỳ tuyệt, một
nhà thơ mà hồn thơ luôn
tuôn trào trong huyết quản rạt rào vô hạn. Chàng “lớn lên mang nghiệp làm thi sĩ” nên đi
đứng ngó nhìn bất cứ sự vật trần cảnh, lạnh nóng cao thấp, trời xanh mây trắng,
con người con vật chi chi cũng đều thấy thơ và thơ bàng bạc thấp thoáng, ẩn hiện
lung linh, rạo rực xao xuyến ở trong máu trong hồn như vậy, khiến cho ý tình
rung lên bổi hổi dâng đầy. Tuy thấy được vẻ đẹp cực kỳ của tạo vật đất trời
nhưng đồng thời cũng ý thức tận cùng cái hư ảo mong manh của cuộc sống, như một
lần nhà thơ thổ lộ ở trang bìa trong tập thơ
Đêm nguyệt động
: “Một buổi chiều trốn
học lang thang trên bờ biển Nha Trang thời niên thiếu, tác giả suýt nổi cơn điên
khi trực nhận mãnh liệt cái quá ư ngắn ngủi của kiếp sống và từ đó đâm ra khật
khùng cho đến nay.” Vậy đó, ngó nhìn đâu cũng rung động cũng thấy đẹp tuyệt
vời, nhưng đẹp tựa ánh chớp như bọt nước
sương rơi :
Tôi
bỗng thấy mạch đời bừng chảy
Như
nhựa xuân tràn lên đầu cành
Rồi
tôi thấy mạch đời đang chảy
Ở
trong tôi mà sao mong manh
Ý thức tức thì cái mong manh thoáng chốc của
bọt nước, cái phù du hư huyễn vô thường của cuộc đời, cái lênh đênh trôi dạt của thân
phận kiếp người giữa cuộc phù sinh dâu biển như thế, nhà thơ chợt thấu thị thấy
bùng vỡ ra một điều chi bất ngờ như triết gia Nietzsche thấy
“thượng đế đã chết” nghĩa là không có
thực : “Thượng đế, sự bất tử của linh hồn, sự cứu rỗi, cõi trên kia, đó là
những ý niệm rỗng tuếch mà tôi không bao giờ bận tâm đến.”* Sơn Núi cũng
vậy, thấy “thượng đế đi rồi” chỉ còn
đây trên mặt đất là sự có mặt đương nhiên của con người và nhà thơ tự hỏi, tự
khai phá về sự hiện hữu của con người, về lẽ sống chết, về lý âm dương tự nhiên
của tạo hóa. Tất cả sự hiện hữu này có ý nghĩa chi không hay chẳng có nghĩa lý
gì cả hỡi trời mây vạn đại thái cổ từ thuở hồng hoang nào lạc dấu mộng sơ
nguyên ? :
Lênh
đênh thuyền giạt xa miền
Nửa
đêm bừng tỉnh man thiên một trời
Trông
lên thượng đế đi rồi
Hỏi
mây thái cổ con người vân vi
Lối
mòn cỏ mộ xanh rì
Ngoài
ra kìa chẳng có gì nữa sao
Đảo
buồn thổi gió lao xao
Ngàn
xưa còn tiếng thì thào biển khuya
Biển tàn khuya gõ nhịp đi về nhưng biết về đâu giữa
khuya dài lê thê trong đêm tối đen ngòm mịt mù u ám của nhân loại ? Vai gầy nghiêng nghiêng lệch gót chân xiêu vẹo bước
theo bóng mình xơ xác qua vạn nhịp cầu ảo dị suy tư. Tuổi còn thanh niên
mà cứ tưởng tượng đến ngày mái đầu bạc phơ tóc trắng, chẳng hề gì vì đường thơ
mở rộng bồng phiêu liều lĩnh trên cung bậc dấn thân nhập cuộc, cho dù cũng lắm
lắm hiu hắt tàn xiêu :
Biển
hoang cồn lạnh tiếp chiều
Đá
trơ với đá tôi liều với thơ
Áo
quần hai bộ xác xơ
Quạnh
hiu dù đến bạc phơ mái đầu
Nẻo
xa chưa thấy nhiệm mầu
Chân
còn bước vạn nhịp cầu suy tư
Suy tư, trầm tư, uyên
tư là sống triết lý. Sống triết lý nói theo
Nietzsche là sống cố ý, chú tâm triệt để vào một vấn đề nào đó như thiền sư
nhiếp tâm miên mật vào công án tử sinh của đời mình để đốn ngộ chân lý giải
thoát. Thiền là quán sát, quán chiếu tâm ý mình trong từng hơi thở từng lời nói,
từng hành động từng sự việc tế nhị, thi sĩ biết tâm ý mình đang tỉnh thức hay
đang mơ mộng trong giấc ngủ cô miên, biết mình đang mộng thấy bay ra ngoài trời
đất càn khôn vũ trụ trùng trùng ánh phong quang :
Đêm
mơ đến xứ nguyệt vàng
Vẳng
xa buông lạnh mang mang tiếng thiền
Chập
chờn nửa giấc cô miên
Tâm
tư lay bóng con thuyền ra khơi
Trùng
trùng sóng gợn luân hồi
Võng
ru thuyền mộng vượt ngoài càn khôn
Con thuyền viễn mộng giong cánh buồm trắng mây bay qua
những chiều phiêu nhiên mà thả hồn Một
mình chạy chơi trên bờ biển :
Bóng
nương bãi quạnh lướt đều
Cát
in mau dấu hằn theo chân người
Giữa
chiều nắng trải xa xôi
Thao
thao sóng rượt hồn tôi ngút ngàn
Dặm
về nguyệt tỏa mang mang
Một
thân sinh tử hai hàng lệ sa
Rưng rưng hai hàng
nước mắt, lặng u uẩn dặm về khuya khoắt ướt sương trăng. Trọn vẹn một trái tim đầy nhiệt huyết, luôn luôn mở
rộng lòng ra để đón gió thanh tân từ ngàn phương lồng lộng thổi về nhưng cũng
thường sửng sốt ngạc nhiên trước sự tàn bạo xảo trá, giả dối lừa gạt một cách
tàn nhẫn của con người, nên thi nhân thỉnh thoảng rơi vào tâm trạng lạc lõng bơ
vơ, lạc loài bỡ ngỡ, để rồi có đôi lúc thích Một mình giả chết trên bờ biển :
Nghe
đời rút xuống xa xăm
Tứ
chi rời rã tôi nằm im ru
Dã
tràng tưởng giấc ngàn thu
Mon
men vài chú đã bu quanh rồi
Phiêu
phiêu mây bạc trên trời
Đưa
tôi về cõi tuyệt vời mai sau
Màu mây bạc phất phiêu lãng đãng, tang bồng chốn nào
tuyệt vời tận cuối biển đầu sông ?
Sống giữa chợ đời đông đảo náo nhiệt, bắt buộc người ta phải biết suy ngẫm trầm
tư để phân biệt đúng sai, phải quấy này nọ, nhưng khi đứng trước đại dương mênh
mông rộng rãi thì điều đó không còn cần thiết nữa. Cứ thoải mái tha hồ vô
tư với từng mạch luồng hơi thở, mở toang từng buồng tim thớ phổi ra mà thở cho
thật nhẹ nhàng sảng khoái thẳm sâu như thi sĩ nhiều lần thẩn thơ Một mình nằm thở đủ kiểu trên bờ
biển :
Đầu
tiên tôi thở cái phào
Bao
nhiêu phiền não như trào ra theo
Nín
hơi tôi thở cái phèo
Bao
nhiêu mộng ảo bay vèo hư không
Sướng
nên tôi thở phập phồng
Mây
bay gió thổi trời hồng muôn năm
Mai
sau này chỗ tôi nằm
Sao
rơi lạnh lẽo âm thầm biển ru
Nhà văn Võ Phiến rất tâm đắc bài thơ này, còn thiền sư
Nhất Hạnh suốt bình sinh du hóa khắp nơi trên thế giới cũng chỉ xiển dương cái
sự việc thở ra thở vào một cách vững chãi thảnh thơi như vậy mà thôi. Biển sóng
ru êm ái rào rạt như tiếng nhạc mơ hồ xào xạc từ xa xôi đồng vọng lại,
nghe dạt dào xao động như cung đàn Mozart, Schubert, Chopin, Beethoven… Nắng
chiều tà nhòa nhạt, dần dần buông nhẹ xuống bóng hoàng hôn vàng lịm màu tím sẫm
cuối ngày, lay bay giữa ngàn trăng thanh gió mát, làm sao mà không nổi hứng bỡn
cợt rỡn đùa với nàng thơ diễm kiều lãng mạn phiêu diêu :
Chiều
êm hơn cả gió lùa
Tôi
ra cuối bãi tôi đùa với trăng
Tay
choàng lên với môi hằn
Tôi mơn gió lả tôi măn vú đồi
Có
hương có nhạc trên trời
Tóc
tôi se gió mắt ngời ánh sao
Ồ thì ra là chàng ngồi
một mình xốn xang với ảo giác lãng mạn đấy thôi.
Sự việc tưởng tượng mơ mộng “vú đồi môi hằn”
ấy là dấu hiệu đã đến tuổi dậy thì, gây gây mùi tính dục, khiến chàng bất giác
thò tay xuống mân mê, mó máy cho rục rịch cụ cựa cái của quý, theo bản năng tự
nhiên Một mình đã vọc c trên bãi biển :
Thật
tình đã ngứa chưa con
Bốn
bên lặng ngắt hoàng hôn đến rồi
Mai kia nằm chết giữa trời
Tôi
ôm Tuyệt Đối một thời xuân xanh
Tuổi thanh xuân bừng dậy rạt rào, nao nức những đêm
trăng huyền hòa tỏa ngan ngát hương biển ngàn mới lạ Nha Trang, những chiều vàng
rạo rực hứng chí chi mà cứ mãi miết đuổi theo mấy áng mây trời khoáng đãng bao
la, nhòa nhạt trong sóng nắng xa xăm, nhấp nhô dào dạt tiếng lòng long lanh, lấp
lánh bao mộng đời ơi chao xao xuyến, miên man nỗi niềm chi không thể thốt nên
lời để Một mình đuổi theo mây bạc bay trên biển :
Biển
chiều còn lại mình tôi
Đuổi
theo mây bạc giữa trời bao la
Thủy
triều chợt rút ra xa
Bóng
thanh xuân rụng ác tà sau lưng
Rừng biển tà huy vi
vu vi vút từng mảng khói lam chiều phiêu hốt. Một mình chỉ một mình thôi. Nỗi cô đơn sóng lượn nhồi máu
tim.
Trùng dương bèo bọt nổi chìm. Niềm hư không đó nghe im lặng sầu.
Sau lưng bỏ lại dấu thanh xuân khuất bóng, khi thi sĩ quyết
định dời gót lên đường viễn phương hành vào phố thị Sài Gòn, tiếp tục chuyện
sách vở học hành ở Đại học Văn Khoa. Tưởng là mở ra một chân trời mới,
một niềm hy vọng phong quang xán lạn, nhưng bất ngờ trở chứng, tính khinh bạc
ngông cuồng bộc phát đột ngột, mới học vài ba năm chưa tốt nghiệp thì đùng một
cái chàng bỏ ngang dang dở nửa chừng, để lạnh lùng đứng dậy quay về thế giới độc
đạo cô liêu của riêng mình. Tịch nhiên trầm lặng đối mặt với nỗi cô đơn rờn lạnh
quạnh hiu, với nỗi sầu vạn đại tuyệt mù như thi sĩ Huy Cận : “Một chiếc linh hồn nhỏ. Mang mang thiên cổ sầu.”
Sầu thiên cổ mang mang quằn quại, nhói buốt ngay từ lúc còn trốn học lêu lổng
mộng rong chơi :
Tôi
dòm đời khi tuổi sắp hai mươi
Nhìn
trước nhìn sau thấy rõ ràng
Những
người đi trước sầu đeo nặng
Những
người đi sau sầu không tan
Tôi
dòm đời khi tuổi sắp hai mươi
Thấy
hay hay nhưng làm sao cười
Như
chuyện lớn lên rồi có vợ
Cuối
đời về đất lạnh nằm xuôi
Ngập
ngừng chân bước con đường vắng
Mây
trắng bay lên òa đất trời
Tôi
cúi đầu nghe mình nhỏ lệ
Biết
chuyện gì rồi cũng buồn thôi
Người thi sĩ ứa lệ không
phải vì xót thương cho thân phận của mình mà thực ra là chạnh lòng trắc ẩn trước
sự mong manh mỏng mảnh, bèo bọt thoáng chốc quá ư là nhỏ bé phù du của kiếp nhân
sinh giữa trời đất vũ trụ bao la, như nhà thơ Trần Tử Ngang một lần kia, tình cờ
đi ngang qua nghĩa địa, thấy hàng trăm nấm mộ ven đường mà bàng hoàng cảm thán
xót xa :
Ai
người trước đã qua
Ai
người sau chưa tới
Nghĩ
trời đất vô cùng
Một
mình tuôn giọt lệ
Giọt lệ thi nhân nhỏ xuống nấm mồ nhân thế có ý nghĩa
gì trên cuộc về của chúng ta ? Cuộc đi hay cuộc về là
một cách nói văn vẻ cho có đầu có đuôi thế thôi, chứ thực ra chẳng có cuộc nào
cả, ngoài cuộc sống đang diễn ra trước mắt sờ sờ, ngay trong từng hơi thở ra vào
sinh động hằng ngày đây thôi. Cuộc sống thực tế, thực tại hiện tiền ngay đây
trên mặt đất này là đã đủ đầy hoan lạc, vô cùng hạnh phúc rồi, đừng có ngu xuẩn
vọng tưởng mong cầu một thế giới nào khác ở đâu đó trên trời với cảnh thiên
đàng, cực lạc man thiên huyễn hoặc mơ hồ. Bao thần thánh, thần linh, thượng đế
tối cao vô hình đang quan sát, chiếu cố chúng ta là một ảo tưởng, ảo giác cuồng
si, chỉ là do những đầu óc mê vọng tưởng tượng bày vẽ ra, như đạo sĩ Osho tuyên bố : "Thượng đế không
hiện hữu, chưa bao giờ có thực.” Không có thực thì làm sao mà chết được như
Nietzsche đã nói ?
Có lẽ Nietzsche muốn nói hãy chết đi cái ý niệm về thượng đế
kia đó thôi. Vâng, hãy để những ý niệm, khái niệm ấy tan biến cho rồi.
Với thi nhân, sống thì phải sống mãnh liệt, dốc hết sức bình sinh ra mà sống một
lần thấu triệt thiên thu, siêu thần bạt thánh, cho nên hãy vận dụng thập thành
công lực, đứng bật dậy nhảy múa hát ca sôi nổi nhập cuộc tuôn trào lai láng theo
mạch đời trôi chảy đầy mới lạ mới mẻ, đầy đam mê xuất thần say sưa ngây ngất :
Hãy
đốt đuốc hằng đêm trên trái đất
Cho
núi rừng và biển thẳm lung linh
Các
em làm sáng rực cả vô minh
Để
anh có một nguồn vui bất tuyệt
Hãy
đọc kỹ hồn anh trong bóng nguyệt
Các
em vừa mười bốn với mười lăm
Bài
học gần nhưng cũng rất xa xăm
Các
em hãy bắt đầu yêu bụi cát
Bởi
trái đất là niềm kiêu hãnh nhất
Dù xe đời lăn hố thẳm ngửa nghiêng
Đã
chết rồi bao ngưỡng vọng thiêng liêng
Dù
khuya vắng trời muôn sao lấp lánh
Chúng
đã dựng lên bao nhiêu thần thánh
Ung
thúi rồi dưỡng chất của chiêm bao
Đêm
mới về niềm hoan lạc xôn xao
Ta
đốt đuốc chạy dài trên trái đất
Đi
cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất là bước đi muôn chiều tiêu dao của thi sĩ thiên tài
Phạm Công Thiện, còn Nguyễn Đức Sơn nhà thơ xuất chúng thì đốt đuốc lên chạy dài
trên trái đất thênh thang. Đi nghêu ngao hay chạy rộn ràng cũng cùng một thể
điệu phiêu nhiên chuếnh choáng, hân hoan tiếp diễn lồng lộng bồng bềnh trên cánh
gió ngàn xuân :
Một
đêm sao ở trên rừng
Đua
nhau rụng xuống chào mừng nhân gian
Hồn
tôi cây cối liên hoan
Rưng
rưng tôi thấy trăm ngàn ước mơ
Tuổi
vàng suối mộng trời thơ
Lớn
lên tôi chết trên bờ hư không
Sống rạt rào hào hứng cho đã cái đời chơi ngông bồng
bềnh nghệ sĩ rồi bất thình lình nỗi chết hiện về ám ảnh khôn nguôi, khiến chàng
thi sĩ thượng thừa như thế cũng ngậm ngùi cay đắng, chẳng biết làm sao hơn là
ngắm nước chảy mây trôi trước niềm đau khổ thống thiết chợt xảy đến trong
đời :
Một
ngày đau khổ chín trong tôi
Tôi
đến bên cây lẳng lặng ngồi
Cây
thả trái sầu trên nước lắng
Mặt
hồ tan vỡ ánh sao trôi
Thôi
nhé ngàn năm em đi qua
Hồn
tôi cô tịch bóng trăng tà
Trời
sinh ra để chiều hôm đó
Tôi
thấy mây rừng bay rất xa
Mây bay nước chảy, gió cuốn sương rơi là sự tuần hoàn
tự nhiên của tạo vật đất trời, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nói “cứ
để gió cuốn đi” hết những mối tình thơ mộng như dòng sông trôi cuốn phù sa
ra biển cả muôn trùng. Chúng ta chỉ cần chứng kiến sự luân lưu
trôi chảy là đủ rồi, biết thưởng thức vẻ đẹp luôn luôn thay đổi bởi muôn đời sự
đổi thay biến chuyển là chân lý hiển nhiên. Ý thức trực tiếp được điều
đơn giản đó, thi nhân chấp nhận sự thật và can đảm lẫm liệt thổi bừng lên ngọn
lửa tim hồn đốt cháy, thiêu rụi cả thành vách bịt bùng khủng khiếp của hư vô để
hiển lộ ra cái tinh túy tinh hoa, ngay trong sự đổ vỡ dở dang vẫn còn đó vầng
trăng bát ngát, vầng trăng tâm linh xanh biếc thiên thu là nguồn cảm hứng sáng
tạo vô cùng đắm đuối của bậc tài hoa Thi sĩ :
Khi ý
thức mặt đất này dang dở
Ta
vội chìm trong bóng nguyệt mang mang
Khi
chấp nhận ngàn lần trong đổ vỡ
Ta
một hồn đắm đuối giữa tan hoang
Phản kháng, nổi loạn muốn chuyển hóa là cá tính vốn có
sẵn trong dòng máu nhiệt liệt của nhà thơ luôn luôn tìm tòi mới lạ, khát khao
tuyệt đối, khao khát tự do từ thời còn nhỏ tuổi, vì ý thức trực cảm trước sự đổ
nát tan hoang trên mặt đất trần gian mà chàng lao đầu húc vào mọi thứ như muốn
thách thức những thế lực vô hình cho nguôi đi ý niềm bổi hổi sục
sôi :
Tôi
dừng lại giữa năm mười sáu tuổi
Một
sớm hồng nghe nắng rụng tan hoang
Tôi
nằm xuống phập phồng hai lá phổi
Sao
mạch đời đang chảy bỗng khô ran
Đau
nhức quá trong tôi niềm tuyệt đối
Nên
cởi quần chạy giữa đám vi
lô
Tôi
động cỡn nhảy kè bên khe núi
Rồi
ôm đầu lao thẳng xuống hư vô
Hư vô, hiện sinh, tình yêu, tính dục là những vấn đề
cháy bỏng nóng hổi mà tuổi trẻ rất băn khoăn, thắc mắc và nhà thơ trải lòng ra
mà chia sẻ một cách tâm huyết rằng, các em hãy mạnh mẽ hùng tráng mỉm cười đứng
lên, tự nhận trách nhiệm với chính mình, mãnh liệt hiên ngang sống tự do, tự
giải thoát mình ra khỏi những bóng ma thượng đế, thánh thần vớ vẩn đang trú ẩn
đâu đó ở trên cao vô tăm tích kia. Tư tưởng Nguyễn Đức Sơn tương ứng với tư
tưởng đạo sư kỳ vĩ Krishnamurti :
“Không có thượng đế nào khác hơn con người trở thành chí thiện. Không có một
thần uy nào ở ngoài sai khiến được con người. Tuyệt nhiên không có thiên đường
địa ngục nào khác hơn những cái do chính con người tạo ra. Cho nên con người chỉ
có trách nhiệm đối với mình, chứ không nên nô
lệ, lệ thuộc vào bất cứ ai khác, bất kỳ một kẻ nào khác.”** Vâng, đúng là
như vậy ! Hãy kiêu hùng dũng khí lao đầu vào con đường không lộ,
vô mục đích với tư thế tự tin tự lực, vững mạnh vững vàng :
Các
em hãy đi tuần quanh trái đất
Ôi
tuổi vàng mười sáu với mười lăm
Phải
hoàn thành sứ mệnh một trăm năm
Trước
khi biến tan vào trong bụi cát
Nắm
tay cất đại đồng ca bát ngát
Ở
trên đầu thần thánh với âm binh
Mấy
ngàn năm nguồn cội của điêu linh
Chúng
lảm nhảm an toàn sau bí tích
Kiêu
dũng nhất là con đường không đích
Ta
cắm đầu lao thẳng tới hư vô
Ôi
mộng đời cháy sém cỏ cây khô
Trăng
thế kỷ rừng Đông phương tỏa chiếu
Chịu chơi nhất là kẻ lên đường không mục đích, không hy
vọng, chẳng mong cầu điều chi cả mà quăng ném trọn hồn mình vào cái thực tại
đang là như đại văn hào Nikos Kazantzakis : “Bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm
một cách im lặng, rộng lượng và không hy vọng.” Trên tinh thần sáng tạo đó,
bước đi của chàng thi sĩ xuôi ngược suốt muôn chiều phiêu bạt phiêu lưu, lang
thang khắp vùng Phan Rang, Nha Trang, Đơn Dương, Đà Lạt, lưu linh lạc địa xuống
miền Bảo Lộc, Bình Dương rồi tấp về Biên Hòa, Sài Gòn rộn rã… Cuộc lữ du sĩ ca qua mọi chốn miền duyên hải ngút
ngàn biển xanh cát trắng rồi tưng bừng lên rừng cao rú thẳm xa xăm, có lúc sung
sướng, thăng hoa phấn chấn ngất trời, rồi nhiều lúc cũng bầm dập tiêu điều, điêu
đứng những nẻo đời gian nan bão bùng lốc xoáy lăn quay. Xoay xuở đủ đường trước
bao nhiêu chuyện đa đoan thúc bách trăm chiều, tự đẩy mình vào những chốn khốn
cùng túng quẩn nhất. Có lần xui xẻo bị bắt giam vào nhà lao
vì trốn quân dịch, không chịu đi lính ra chiến trường cầm súng bắn giết đồng
loại. Nằm co ro tê tái trong trại giam chật chội ngột ngạt giữa trưa nồng oi
bức, bưng chén cơm tù lên thi nhân vẫn trân trọng sự sống, cảm tạ đất trời vô
lượng bao dung :
Mỗi
ngày cúi xuống hạt cơm
Anh
nghe thấm một mùi thơm lạ lùng
Cắn
đôi hạt muối thường dùng
Biết
ơn trời đất vô cùng em ơi !
Trăm
năm ta sống một đời
Ngàn
năm gởi lại chút lời thở than
Ai đã từng lâm vào cái cảnh tù ngục đọa đày thì mới
thấy thật là kinh rợn khủng khiếp như thân thể bị ghẻ lở tróc da đầy mình, bệnh
tật bệnh hoạn không thuốc thang, nằm bầm dập não nề thê thảm, chẳng có một người
nào chăm sóc thì bất cứ ai ai cũng cảm thấy xót thân tủi phận, căm hờn phẫn nộ
bọn cầm quyền độc tài tàn bạo, thế nhưng ở đây, thái độ ứng xử lại trái ngược
hoàn toàn, chàng thi sĩ bị đọa đày nhốt trong tù như thế mà không oán giận, vẫn
thản nhiên điềm nhiên bày tỏ những lời tri ân chân thành, cảm ơn tật bệnh ghẻ
lở, cảm tạ sự tăm tối vô minh, Cảm ơn tù
:
Cảm
ơn ghẻ mọc đầy mình
Cảm
ơn bệnh hoạn chung tình với ta
Cám
ơn dái tróc lòi da
Cảm
ơn tù dẫn tôi ra khỏi đời
Cảm
ơn tất cả xa rồi
Hôm
nay tôi thấy tôi ngồi bên tôi
Cảm tạ tất cả sự nghiệt ngã của cuộc đời vì nhờ đó mà
nhà thơ mới có cơ hội đối mặt với bản thân, thấy lại cái mặt mũi xưa nay của
chính mình. Ơi chao ! Thật là một cái nhìn sáng tạo tân
kỳ, chỉ có những bậc siêu việt mới thấy được như thế, biểu lộ một tâm hồn thượng
đẳng hoằng đại, vì đối với một tâm hồn thượng đẳng hoằng đại thì dù họ có sống ở
đâu, ngay cả trong ngục tù tối tăm đi chăng nữa, họ cũng chuyển thành một dịp
may hy hữu, vẫn thấy xiết bao nguồn cảm hứng sáng tạo như thi hào Rainer Maria
Rilke phát biểu : “Nếu đời sống thường
nhật trở nên nhạt nhẽo nghèo nàn đối với mi thì mi đừng bao giờ oán trách nó.
Mi hãy tự trách chính mi rằng mi không đủ tâm hồn thi nhân để mà có thể gợi dậy
trong lòng mình tất cả sự phong phú miên man của đời sống thường nhật.
Vì đối với một con người sáng tạo thì chẳng có gì nhạt nhẽo nghèo nàn, chẳng có
một nơi chốn nào là khô khan lãnh đạm, dù ngay lúc mi đang ở trong nhà tù đi
nữa, giữa những vách tường bưng bít, không để lọt vào những tiếng động của thế
gian. Phải chăng ngay lúc đó trong lòng mi vẫn luôn luôn còn lại tuổi thơ, kho
tàng quý báu, chứa chất bao nhiêu kỷ niệm tuyệt vời ?
Hãy hướng tất cả tâm tư mi vào đó… Dọ dẫm tận đáy lòng sâu thẳm mà từ đó đời
sống mi đã phát nguồn luân lưu trôi chảy…Bởi vì một nghệ sĩ sáng tạo bao giờ
cũng có một vũ trụ cho riêng mình, phải tìm tất cả mọi sự ngay trong tâm hồn sâu
thẳm của chính mình đây thôi.”*** Ngồi trong song cửa sắt, nhà thơ lặng lẽ
gởi hồn về chốn miền viễn mộng Bình Dương, nơi có bà con chòm xóm và người yêu
dấu cũ đang chờ đợi buồn tênh :
Bên
trong khung cửa sắt này
Anh
ngồi đếm lại từng ngày xót xa
Đêm
qua mơ trốn về nhà
Ôm em
ngủ suốt canh tà với trăng
Có ai
về được Bình Dương
Hỏi
thăm chòm xóm có thường hay không ?
Đêm
đêm bom tưới đầy đồng
Những
oan hồn cũ bế bồng đi đâu ?
Sầu áo não nghe se sắt lạnh máu tim hồng. Chẳng biết chư Phật, chư Bồ tát mầu nhiệm ở đâu đó
tận trên bầu trời cao xanh thẳm kia, có thấy địa cầu đang chìm trong bóng tối om
om và bom đạn súng ống chĩa đen ngòm bốn phía hay không ? Lòng kẻ bị tù đày giam nhốt thờ thẩn vẩn
vơ, đôi khi lặng trầm Nói với Quán Thế Âm :
Cho
con xin một ánh trăng
Đêm
nay mười bốn phải chăng khởi đầu
Trên
cao tỏa sáng nhiệm mầu
Sao
con chỉ thấy địa cầu tối om
Bốn
bên súng chĩa đen ngòm
Thiết
tha tâm Phật con dòm vô trong
Biết dòm vô trong lòng mình là có dịp sẽ bừng sáng,
hoát nhiên đại ngộ, thấy được Phật tánh thanh tịnh vốn thường hằng hiện hữu tự
bao giờ. Một khi tri kiến Phật, thấy được Tâm Phật rồi thì tự nhiên có thái độ
hỷ xả dung thông. Sống trong xã hội thời loạn ly, bị vây khổn ngột ngạt đầy âu
lo khó thở, nhà thơ mơ ước ngày mai kia, tất cả nhà tù ngục, trại giam nhốt con
người đều bị chôn vùi dưới mộ địa, không còn tồn tại trên mặt đất thân yêu này
nữa :
Mai kia dù chế độ nào
Một
trăm một triệu phong trào đi qua
Làm
sao tất cả chúng ta
Chỉ
còn trông thấy mồ ma nhà tù
Nằm
trên trái đất vi vu
Bao
la trời biển tiếp thu tình người
Với tâm hồn thi nhân tuyệt hảo, vô cùng phong phú đó,
Sơn Núi nhào lộn vào cuộc tồn sinh, giáp mặt trăm bề nghìn phía, từng băng qua
lội nát mọi chân trời triết lý Đông Tây kim cổ, ngưỡng mộ triết gia Héraclite,
tôn sùng văn hào Dostoevsky và nhất là rất thích ưa thưởng thức những hương ngàn
cỏ nội, kỳ hoa dị thảo của thục nữ mười phương như có lần thi sĩ bày tỏ rõ ràng
: “Ngưỡng mộ Héraclite, Dostoevsky và Simone
Weil. Yêu chim chóc và cỏ cây một cách lạ lùng nhưng cũng quá cần ngửi mùi quần
áo lót của đàn bà và con gái, cần khẩn thiết và triền miên cho tới ngày chui
xuống lỗ…” Chao ơi ! Mới nghe nhà thơ nói thật lòng thật dạ
một cách thiệt tình không giấu giếm như thế, khiến ai cũng phải bật cười thú vị.
Vì dường như hầu hết thiên hạ người đời trên cõi ta bà tục lụy này đều thích làm
chuyện ấy mà chẳng dám nói ra đó thôi. Họ mắc cỡ, cố làm ra vẻ đạo mạo
nghiêm trang, điệu bộ mẫu mực chững chạc đàng hoàng nhưng bên
trong lòng dạ thì bị ức chế điều đó lắm, vẫn ham muốn thèm khát âm thầm. Nhằm
khai mở những ức chế không đáng có đó, thi nhân vén lên tấm màn che đậy để hiện
bày ra sự thật trần truồng qua cách nhìn nghệ thuật mỹ cảm hiện sinh tinh tế,
bằng sự rung động bồng tênh cảm khoái, ly kỳ gay cấn rất mực chịu chơi kiểu
Alexis Zorba hòa tấu cung đàn santuri
rộn rã tiếng cười hoan lạc chuyện gái trai :
Trên
rừng ấy một mình anh hái trái
Đang
mơ màng trông thấy quá nhiều chim
Bên
mương vắng em vén quần sắp đái
Anh
thấy càn khôn rụng xuống trong tim
Anh
sẽ đến bất ngờ ai biết trước
Miệng
khô rồi nẻo cực lạc xa xôi
Ôi
một đêm bụi cỏ dáng thu
người
Em
chưa đái mà hồn anh đã ướt
Không
biết trong mơ em còn mắc cỡ
Một
đêm vàng rúng động giấc thanh tân
Dưới
chăn chiếu thiên nhai lồ lộ mở
Em
đái dầm ướt sẫm cả trần gian
Giữa
khuya đó em bàng hoàng tỉnh dậy
Cả
mặt hồ tràn ngập ánh sao băng
Khắp
trong người em máu nóng đang căng
Xao
xuyến quá em tuột quần xuống đái
Bắt
đầu thở là bắt đầu hạnh phúc
Không
bao giờ anh nói dối em đâu
Ôi
bất động ngàn năm thân gỗ mục
Cửa
tồn sinh em hãy mở cho lâu
Tất cả chúng ta ra đời được là nhờ cửa tồn sinh kỳ diệu
đó, cái cửa mình của người phụ nữ mà Mật Tông Tây Tạng ví như đóa hoa sen
thơm
ngát mọc lên từ đáy ao hồ đầy bùn lầy nhầy nhụa làm tỏa hương thanh khiết cho
đất trời. Bất cứ bậc giáo chủ, hoàng đế, thượng sĩ, vĩ
nhân nào trên mặt đất trần trụi này thì cũng đều khai sinh ra từ cái nụ liên hoa
mầu nhiệm đó mà thôi. Ơi hương đời luôn luôn mới lạ nhiệm mầu ấy, thi nhân tha
hồ thưởng thức rực nồng hơi ấm âm dương bay phưỡng phất đậm đà hòa quyện giữa
nhật nguyệt phập phồng hoan lạc ngát lâng lâng :
Đây
lứa cỏ của mùa trăng thứ nhất
Đưa
anh vào trong cõi mộng xa xăm
Giọt
tinh huyết ngàn năm sau chưa mất
Rừng
đông phương mù mịt dấu em nằm
Anh
mường tượng ngày kia anh chứng ngộ
Đang
cởi quần hai mắt lệ rưng rưng
Ôi
quá biết tử sinh đều thống khổ
Ở
trên giường em vẫn nẩy bưng bưng
Thở
hổn hển là bắt đầu sướng nhất
Cỏ
cây nằm im bẹp giữa hôn mê
Giường tre cũng rung rinh như trái đất
Nên
suốt đời tôi thích ở nhà quê
Thà ở nhà quê, thà làm thằng chăn trâu mộc mạc hoang
dã, sống thiệt tình với chính bản chất của mình như Alexis Zorba tha hồ nhảy
múa, đùa chơi cùng toàn thể mộng đời với xiết bao cô em mọi nhỏ, thẹn thò thôn
nữ bờ mương, xiết bao hồng nhan thục nữ yểu điệu tuyệt trần, diễm huyền tiên nữ,
thiên hương quốc sắc giai nhân, thuyền quyên tuyệt mỹ nhu mì. Rồi đôi khi rảnh
rỗi, ngồi ngẫm nghĩ cái gì đó mà hứng khởi trầm trồ :
Cái
lỗ
Tối
cổ
Ồ thì ra, thì ra chính cái đó là mối giềng mở ra cả
miên trường, vạn đại cõi dục giới trùng trùng sinh diệt mãi mãi :
Cái
lỗ của em
Cùng
với cái lỗ huyệt
Mở ra
hai đầu sinh tử bất tuyệt
Biết quán chiếu về cái lỗ tối linh có từ thượng cổ ấy
cùng với cái lỗ huyệt, tức là quán chiếu triệt để vấn đề sinh tử trọng đại, còn
hơn là chễm chệ phì nộm nặng nề ngồi bệ vệ trên ghế nệm sa lông trong tường cao
cổng kín phòng máy lạnh, bày đặt huênh hoang hội thảo quốc gia này đến hội thảo
quốc tế nọ, để luận bàn về chiến tranh hay hòa bình, tình yêu hay tính dục, tư
bản hay cộng sản, duy tâm hay duy vật, Phật hay Chúa, tà hay chánh, thánh hay
phàm, thiện hay ác, hữu hay vô… bất tận không ngừng :
Luận
về không hay có
Đâu
bằng nhìn cái mồng của em
Sắp
ló
Cái mồng là ẩn ngữ gay
cấn ly kỳ, lung linh chập chờn không rõ hình dạng, thoáng ẩn thoáng hiện trong
cách sử dụng tài tình nghệ thuật ngôn ngữ của thi sĩ. Tuy nhiên, có lúc
cũng cần chỉ rõ trực tiếp ngay vào chỗ đó để gợi hình gợi cảm, cho nên nhà thơ
cứ hồn nhiên nói thẳng một cách gây ấn tượng, chẳng hề e dè e
ngại :
Cái
lồn
Chúa
ồn
Ồ ồ, độc nhất vô nhị, chỉ duy nhất một cái đó thôi mà
toàn thể nhân loại từ cổ chí kim
đều chìm đắm, đam mê đến độ túy sinh mộng tử. Bao nhiêu triều đại hưng phế, bao
nhiêu công hầu khanh tướng, xương chất thành núi, máu chảy thành sông ướt đẫm
dòng dòng sử lịch cũng vì muốn chiếm hữu, giành giật, hưởng thụ, thỏa mãn cái đó
mà thôi. Thật ra, nhìn từ bình diện khác thì cái đó là linh vật, vật thiêng, là
thần Vệ Nữ như người dân Ấn Độ thờ phượng trong các đền điện tôn nghiêm, hay ở
thánh địa Mỹ Sơn, Việt Nam cũng thờ linh vật Linga ấy. Còn“Chúa
ồn” có nhiều nghĩa ẩn dụ, hàm ý ví von, có thể hiểu cái đó là vị chúa tể
sinh ra đủ thứ ồn ào, lộn xộn trong cõi ta bà, dục giới này hay là gì gì đó cũng
được, mặc sức tự do cho chúng ta hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau, chẳng cần
bận tâm thắc mắc, đắn đo do dự, rắc rối lôi thôi chi cả, cũng như :
Củi
Để
chẻ
Gái
Để xẻ
Té ra là như thế !
Mấy nhà đạo đức giả chắc sẽ đỏ mặt, nghiến răng chửi thề đồ dâm dục tục tĩu,
nhưng khoan, hãy bình tĩnh để nghe triết gia thi sĩ Phạm Công Thiện nhận
định : “Nói đến tình yêu, tình dục thì mọi người đều run sợ. Đạo sư
Krishnamurti đã hỏi một câu rất sâu sắc : “Tại sao
chúng ta biến tình dục thành ra một vấn đề ?” Tất cả đều trở thành vấn đề, ngay
cả tình dục cũng trở thành vấn đề. Tại sao không để tình dục phát triển tự nhiên
với tình yêu, tình thương như đóa hồng hé mở với giọt sương mai ? Tình dục không phải chỉ là cảm giác, tình dục là sự
trôi chảy tự nhiên từ Nguồn Suối Tình Thương Bao La của Sự Sống.”**** Có lẽ
xưa nay chưa từng có ai trên thế giới phát hiện ra một chân lý đơn sơ giản dị mà
khổng lồ như Sơn Núi đã phát hiện độc đáo
Vậy thôi chứ còn đòi cái gì nữa :
Mộ
Một
nấm
Vú
Hai
núm
Chỉ cần sáu từ ngắn
gọn thôi, thi nhân đã lột tả toàn diện, nói lên được toàn thể sự sống và sự chết
muôn đời của kiếp nhân sinh trên quả địa cầu tròn đang quay lông lốc giữa không
gian.
Chàng thi sĩ xuất hiện trên diễn đàn văn nghệ như một
hiện tượng lạ, một quái kiệt thiên lôi sấm sét, có cách ăn
nói lạ lùng bộc trực, khinh bạc khác thường, bàng bạc ngát hương tình tính dục,
rung động hòa âm đậm đà chất lửa linga cháy nồng nàn hơi ấm âm dương. Bằng cái
giọng ngang tàng quyết liệt, gây ấn tượng nổi bật vì chuyên gây hấn, tấn công
những bọn côn đồ khát máu, bọn người ngợm đội lốt tôn giáo, văn nghệ để làm
những chuyện xằng bậy, gian trá quỷ quyệt, lợi dụng rủ rê mê tín, bắt người ta
thờ lạy đấng thượng đế tối cao, bậc thần thánh tối hậu ở đâu đâu mù mịt xa lắc tận trên
chín tầng trời, gieo rắc bao nhiêu nỗi sợ hãi cho rất nhiều người nhẹ dạ.
Làm gì có những cảnh giới thiên đường, tây phương cực lạc ở trên đó. Có
lần bất nhẫn điên tiết, chàng gầm lên la hét thật to :
Tôi
định một ngày nào đó
Thật
thảnh thơi
Leo
lên trời
Ỉa
Chán ngấy muốn lộn mửa cái cảnh ngoài miệng thì nói bô
bô đủ thứ chuyện thiện lành thánh thiện, bác ái vị tha, lương tâm đạo đức nhưng
bên trong tâm địa thì hắc ám đầy hiểm ác gian manh kiểu Hoạn Thư : “Mặt ngoài thơn
thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao.”
Ngao ngán loại người ngụy quân tử như Nhạc Bất Quần nói một đường làm một ngã,
đeo mặt nạ giả danh pháp sư, nhà truyền giáo, chuyên môn lừa đảo tinh vi quỷ
quái vẫn còn hoạt động rộn ràng phát huy môn phái, mở rộng nhà ma cửa quỷ, hoằng
dương tà đạo loạn xà ngầu bát nháo lao xao :
Người
ta giấu cái đạo
Trong
hũ gạo
Trời
ơi !
Đó là một sự thật cay đắng, bất đắc dĩ thi sĩ phải nói
ra, khiến cho bọn đạo đức giả tức hộc máu, không biết làm chi hơn gán ghép chàng
là kẻ phá hoại, báng bổ thần thánh, tên du côn hoang đàng ngạo mạn, đồ man di
mọi rợ, điên khùng… Chúng không biết rằng, trong thơ văn chàng trái lại, chứa
chan tràn đầy tính chất trữ tình lãng mạn, ăm ắp niềm yêu mến thiên nhiên, yêu
thương nhân loại, mở ra bầu không khí trong lành khoáng đãng tự do hít thở, bằng
cái giọng rất tân kỳ mới lạ quá đỗi đặc biệt quyến rũ một cách bất ngờ. Cái giọng thơ phiêu bồng độc đáo vô song xưa nay chưa từng thấy.
Thơ văn chàng bắt đầu đăng tải nhiều trên các tạp chí Khởi Hành, Bách Khoa, Sáng
Tạo, Thời Tập, Thời Nay, Trình Bày, Đối Diện, Mai, Văn, Văn Nghệ, Thế Kỷ Hai
Mươi…
Thời kỳ đó là vào khoảng năm 1960 đến 1975 sinh hoạt
văn nghệ Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ đang chuyển mình thăng
hoa huy hoàng, phát triển rầm rộ về mọi mặt. Hàng ngàn tác phẩm thơ văn, nhạc
họa, dịch thuật đủ thể loại kim cổ Đông Tây thi nhau
xuất bản, ấn hành mạnh mẽ. Nổi bật nhất là các khuôn mặt Bùi Giáng, Phạm Công
Thiện, Nhất Hạnh, Nguyễn Đức Sơn, Tuệ Sỹ, Phạm Thiên Thư, Hoài Khanh, Thạch
Trung Giả, Trúc Thiên, Cung Trầm Tưởng, Tường Linh, Nguyễn Duy Cần, Tam Ích,
Nguyễn Đăng Thục, Đông Hồ, Lê Văn Siêu, Quách Tấn, Ngô Trọng Anh, Sơn Nam,
Nguyễn Hiến Lê, Võ Hồng, Bình Nguyên Lộc, Giản Chi, Nghiêm Xuân Hồng, Như Hạnh,
Trần Công Tiến, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Cung Tiến, Hồ Thành Đức, Đinh Cường,
Đỗ Hồng Ngọc, Kim Định, Hoàng Ngọc Châu, Trụ Vũ, Vũ Hoàng Chương, Thi Vũ, Trần
Xuân Kiêm, Kim Tuấn, Trần Tuấn Kiệt, Kiêm Thêm, Trần Thanh Hiệp, Kiêm Minh, Hồ
Minh Dũng, Thế Uyên, Nguyễn Xuân Hoàng, Huy Tưởng, Nguyễn Tôn Nhan, Thế Viên,
Hoàng Ngọc Tuấn, Luân Hoán, Doãn Quốc Sỹ, Đinh Hùng, Hoàng Trúc Ly, Mai Thảo,
Cung Tích Biền, Viên Linh, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Nguyễn Hữu Hiệu, Võ
Phiến, Tô Thùy Yên, Vương Tân, Nguyễn Tất Nhiên, Duyên Anh, Trần Phong Giao, Bửu
Ý, Nguyễn Đình Toàn, Hoàng Lộc, Phan Nhật Nam, Quách Thoại, Trần Dạ Từ, Chu Tử,
Thùy Dương Tử, Huy Trâm, Võ Chân Cửu, Thạch Chương, Vũ Hữu Định, Linh Phương,
Nguyễn Lương Vỵ, Mường Mán, Dương Nghiễm Mậu, Thành Tôn, Đặng Tấn Tới, Đặng
Tiến, Nguyễn Bắc Sơn, Tạ Tỵ, Ngô Nguyên Nghiễm, Tạ Ký, Du Tử Lê, Thế Phong, Đynh
Trầm Ca, Nhật Tiến, Hạc Thành Hoa, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Trần Thị
Tuệ Mai, Phùng Khánh tức Thích Nữ Trí Hải…
Năm 1965 Tạp chí sáng tác văn nghệ Mặt Đất do Nguyễn
Đức Sơn chủ trương ra đời, lồng lộng phóng khoáng một luồng gió mới lạ thổi qua
mặt đất, gây nên một trận bão hào hứng xôn xao trong giới văn nghệ sĩ, nhưng rất
tiếc chỉ ấn hành được dăm bảy số rồi nghỉ vì nhiều lý do ngoài ý muốn. Buồn bã
không còn đất dụng võ, tung hoành ngang dọc trên mặt trận văn chương nữa, thi sĩ
buông mình xuống dòng đời trôi lênh đênh như nhánh rong phiêu bạt qua những gập
ghềnh suối thác miên man sáng tạo trong cô đơn cố hữu thầm thì giữa thiên địa
Mang mang :
Mang
mang trời đất tôi đi
Rừng
im suối lạnh thiếu gì tịch liêu
Tôi
về lắng cả buổi chiều
Nghe
chim ăn trái rụng đều như kinh
Còn
một mình hỏi một mình
Có
chăng hồn với dáng hình là hai
Từng
trưa nằm nghĩ đất dài
Phiêu
phiêu nhẹ cái hình hài bay lên
Mù
sương âm vọng tiếng huyền
Có
con dơi lạ bay trên cõi đời
Sau
xưa mắt đã ngợp rồi
Tôi
nghe tôi chết giữa trời thinh không
Sống và chết cùng song
hành bước đi chênh vênh bên vực thẳm tồn sinh.
Thấm thía rợn cả người trước sự tàn bạo, vô nhân đạo của cuộc chiến tranh tương
tàn tương sát đang diễn ra khốc liệt trên khắp quê hương Việt Nam, nhà thơ tìm
đủ mọi cách để không bị nhà cầm quyền bắt đi lính ra chiến trường bắn giết dã
man nên thường tá túc trong các chùa chiền liêu vắng hay các xóm nhà lá tồi tàn
xơ xác. Hát khúc giang hồ ca bạt mạng lên rừng xuống biển,
xuôi ngược trăm miền rồi cát bụi mệt mỏi
tấp về Bình Dương, dạy học tiếng Anh ở mấy trường tư thục Bồ Đề, từ năm 1965 đến
1967. Thời gian ở đây, bất ngờ kỳ ngộ nàng thơ Nguyễn Thị Phượng trong
chùa Tây Tạng, một tiên nữ giáng trần diễm tuyệt, khiến cho chàng thi sĩ rúng
động cả thần hồn, rồi xuất cốt thành tác phẩm
Đêm nguyệt động đầy chất thơ mộng, gồm 17 bài thơ trữ tình mỹ lệ để đánh dấu
năm 17 tuổi của người tình vĩnh cửu yểu điệu dáng thơ gầy thục nữ đoan
trang :
Năm
mười sáu em bắt đầu thấy rát
Khắp
trong người rờn rợn máu đang căng
Hồn
hoa đã động tình đêm thứ nhất
Em
đến nằm phơi mộng giữa vườn trăng
Trong
bóng lá anh thấy mình chết điếng
Cả
xác thần rời rụng bãi cô liêu
Từ
dạo đó anh đâm ra lười biếng
Bởi
mộng đời còn lại có bao nhiêu
Anh
chưa nắm tay em mà muốn chết
Trong
khu rừng huyền hoặc của chiêm bao
Ôi
hạnh phúc mong manh như sắp hết
Giữa
đêm nào trăng thở quá xôn xao
Anh
quỳ xuống dưới vòm trời khao khát
Dù
thật lòng em chưa muốn cho xem
Đời
anh đó đâu lớn bằng hạt cát
Đã vô
tình vương dưới gót chân em
Em về em hiện, em đến như tiếng sét ái tình làm bùng vỡ
tâm thức rực ngời lửa âm dương cháy đỏ, cho nên đám cưới được tổ chức tức thì ở
ngay trong chùa Tây Tạng, lúc chàng vừa đúng 30 tuổi. Buổi tiệc chay đám cưới
đó, có Phạm Công Thiện, khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, nhà văn Bửu Ý,
nhà thơ Nguyễn Miên Thảo và Thanh Tuệ, giám đốc nhà xuất bản An Tiêm tham dự. Từ
đó đến nay Sơn Núi vẫn tiếp tục ăn chay trường vì một lý do dễ hiểu là thương
yêu những con chim, con cá, những con gà, con vịt, con hươu, con nai, con dê,
con khỉ, con heo, con chó, con bò, con trâu… Không nỡ lòng nào ăn tươi nuốt
sống, cắt cổ mổ bụng uống máu các loài động vật rất thân thiết gần gũi ấy được. Thương yêu đến độ như thế là nhân đạo vô cùng vô tận rồi, yêu
thương từng con cò, con hạc, con ngỗng… huống chi là con người phải không ?
Không thể nào không rùng mình ớn lạnh, tê buốt cả thịt da khi đi ngang qua những
đường phố ồn ào náo nhiệt tràn ngập quán nhậu vỉa hè, thấy nam nữ già trẻ
bu quanh lò sát sinh ăn nuốt nhai nghiến ngấu ruột gan phèo phổi mà chạnh xót xa đau :
Những
quán nhậu
Cứ bu
quanh lò sát sinh
Thừa
hưởng ruột gan phèo phổi
Đâu
đến nỗi
Của
mình
Tình cảm tự nhiên,
tính thuần thiện thiên lương rất đỗi từ bi từ ái, lân mẫn của thi nhân là vậy. Ngày tháng dạy học ê
a cho qua thời kỳ trốn quân dịch, nhờ tình yêu dịu dàng nở rộ thành một tổ ấm
thâm thiết mặn nồng nên nhà thơ cũng cảm thấy phúc hạnh rưng rưng qua từng Kỷ niệm Bình Dương :
Những
chiều sẫm tối anh về
Em ra
lớp học đi kề vai anh
Một
thân áo cánh mong manh
Hôn
nhau lệ nhỏ trung thành cho nhau
Cầm
tay ta bước đi mau
Hình
như bố ráp đằng sau xóm này
Nhìn
nhau bụng trống một ngày
Mà
sao hạnh phúc giăng đầy nhà thôi
Nửa
khuya sao chiếu đầy trời
Ở
trong thiên cổ anh ngồi bên em
Qua từng đêm trữ tình, êm đềm du dương, dịu dàng khoan
thai Hoài Cảm :
Những
ngày anh sống bên en
Những
trưa tóc ngủ êm đềm biết bao
Những
lần em ốm xanh xao
Những
oan khiên dẫn anh vào đau thương
Những
đêm hạnh phúc vô lường
Đố em
cây cỏ bên đường biết không ?
Đố cho vui vẻ sum vầy vậy thôi, chứ thực ra chẳng cần
em phải trả lời đâu nhé, em yêu :
Nhiều
khi anh nghĩ thật mừng
Tưởng
đâu trời đất vô cùng em ơi !
Cảm
ơn sóng vỗ bời bời
Anh ru hạnh phúc đời đời bên em
Trăm
năm một giấc êm đềm
Trăng
soi tuyệt đối bên thềm hư vô
Em ơi em hỡi nàng thơ thùy mị, em đẹp chi là đẹp mị kỳ
duyên dáng dịu dàng vô biên tuyệt diễm, khiến cho kẻ du sĩ lang thang đang mang
cả khối sầu vạn cổ bỗng nghe tan biến hết mọi ưu phiền sầu não, một cách mầu
nhiệm xiết bao, khi em đem về ngan ngát hương xuân ngạt ngào thấm đượm dạt dào
khung cửa sổ bên song :
Em
đang thay áo trong phòng
Hương
xuân bay tỏa sóng lòng tôi đâu
Vú
thon quá độ nhiệm mầu
Trộm
nhìn quên hết ưu sầu thế gian
Tiêu
luôn cả cõi niết bàn
Bắt
tay chào nhé cái màn vô minh
Vô minh hay niết bàn chỉ là những danh từ khái niệm hư
ảo mà thôi, thi sĩ chẳng bận tâm chi lắm. Tắm mình trong mưa nắng đẫm ướt phong
trần, sống thường trực trên tinh thần cảnh giác cao độ, bức bách vây khổn bốn bề
trăm phía giữa thời buổi loạn ly chinh chiến, bom đạn nổ tứ tung đe dọa mạng
sống hàng ngày như vậy nhưng nhà thơ vẫn thở đều đặn bởi hơi ấm rực ngời của
ngọn lửa tịch mịch sáng tạo luôn luôn ngún cháy giữa cuộc lữ phiêu linh. Chính
vì thế mà các tác phẩm thi ca tha thiết nồng nàn thấm đẫm ruột rà tim phổi máu
lệ lần lượt ra đời như Bọt nước, Hoa cô độc, Lời ru, Đêm nguyệt
động, Vọng, Mộng du trên đỉnh mùa xuân, Tịnh khẩu, Du sĩ ca… và những tập
truyện ngắn sâu sắc hàm súc rung động lòng người, phản ảnh nhiều mặt của đời
sống chung quanh như Cát bụi mệt mỏi, Cái
chuồng khỉ, Xóm chuồng ngựa, Ngồi đợi ngoài hành lang với tập tiểu luận duy
nhất Mười lăm năm thi ca miền Nam chưa
kịp xuất bản thì xảy ra biến cố vô thường dâu biển năm 1975.
Tâm đắc với tư tưởng đại văn hào
Dostoievsky : “Tôi sợ phải tỏ ra có tâm hồn cao thượng.”
Hay với Nikos Kazantzakis
: “Hãy cứng rắn, kiên nhẫn, chịu khó…Hãy khinh bỉ hạnh phúc.” Và nhất
là với Henry Miller : “Một thi nhân
chân chính đích thực thì luôn luôn độc hành, tự do tự tại. Cái mà người thi sĩ
cần chính là sự cô độc cô đơn.” Sơn Núi im lặng mặc như lôi, vẫn ngẩng
cao đầu một cách lẫm liệt, tuyệt nhiên không
thèm gia nhập bất cứ hội đoàn đảng phái, bè lũ đám đông, tập thể phe nhóm nào
cả. Lặng trầm tách biệt riêng ra, đứng độc lập, lầm lì bước đi một mình một bóng
như sư tử rừng xanh, khiến những bè lũ cáo chồn đâm ra đố kỵ nghi ngờ ganh ghét,
chẳng dám lại gần, đứng xa xa mạ nhục chửi rủa cho thỏa cái thói tật sân si ganh
tị. Chàng thi sĩ lại càng dấn mình vào nẻo
thâm sơn rờn lạnh cô đơn cùng tuyệt, heo hút tận chốn miền chẳng có đâu nơi :
Có
bay cao chin tầng trời
Chỉ
nghe thượng đế ngàn đời nín thinh
Có
dòm sâu tận cửa mình
Cũng
không thấy được cái hình thế gian
Cái hình thù thế gian như thế nào khó mà thấy cho rõ
ràng được, nhất là sau trận dâu biển vô thường 1975. Trong khi hàng ngàn người
bị đi học tập cải tạo, đi lao động kinh tế mới, hàng triệu người sợ hãi vượt
biên giới trùng dương ra nước ngoài thì Nguyễn Đức Sơn đơn độc lặng lẽ rời Sài
Gòn đưa vợ con lên núi rừng Đại Lào ở Bảo Lộc, Lâm Đồng, sống trên đồi Phương
Bối Am, nơi chốn cũ ngày xưa thiền sư Nhất Hạnh đã khai phá dựng lập từ năm
1958. Bây giờ trơ trọi ngọn đồi hoang vu cây cỏ dại mọc um
tùm, chỉ còn một cái hồ chứa nước bằng xi măng hình chữ nhật cũng đủ cho cả gia
đình thi nhân tạm trú trong đó.
Có đến tận nơi chứng kiến cảnh đời hiu hắt khắc nghiệt của thi sĩ thì mới hiểu
nổi hai câu thơ tiên tri đã viết tự bao giờ : “Sinh ra tôi có làm thơ. Để điêu linh vẫn như chờ
riêng thôi.” Vâng, điêu linh trầm thống vẫn bám theo đọa đày vây khổn
một hồn thơ tơi tả rã rời :
Buổi
tối đó bầu trời như muốn ngã
Tôi
một mình ôm lấy bóng trăng tan
Mây
thấp quá và hồn tôi tối quá
Không
chỗ nào thở được dưới trần gian
Ơi chao ! Dù sống trong tận
cùng thống khổ tang thương, nhưng thi nhân vẫn chịu đựng một cách nhẫn nhục phi
thường, tự biến lòng mình thành đại dương sâu thẳm, chấp nhận chất chứa và tiêu
dung tất cả mọi thứ cặn bã của thế gian trút xuống, giống như họa sĩ vĩ đại Van
Gogh : “Đau khổ không than van là bài học duy nhất
chúng ta phải học trong cuộc đời này.” Sơn Núi cũng vậy, chưa bao giờ nghe
chàng than thở, oán hờn chi cả mà cứ lầm lũi sớm chiều bằng chiếc xe đạp cọc cạch vào rừng kiếm củi khô chở xuống chợ Blao đổi
lấy gạo muối đem về. Thế đó, một cuộc đời vô cùng thanh bạch, hết sức giản dị
đơn sơ, rất bình thường chẳng có gì cả ngoài một hồn thơ vẫn trào dâng bao nỗi
niềm chi thao thức nhức nhối quá diêu mang :
Về
đây say với trăng ngàn
Phiêu
diêu hồn ngập giấc vàng đó em
Trăm
năm bóng lửng qua thềm
Nhớ
nhung gì buổi chiều êm biến rồi
Mai kia tắt lửa mặt trời
Chuyện linh hồn với luân hồi có không
Thái
hư chừng sắp chuyển vòng
Đại
dương tràn kéo núi đồng tan đi
Chúng
ta giờ ước mong gì
Văn
minh gởi cát bụi về mai sau
Thấu suốt tương lai như thi sĩ tiên tri thấu thị
Rimbaud đã từng thấy, ngày mai đây “sa mạc
lan dần” trên mặt đất hoang vu, thấy rõ tận tường cõi người ta giữa thời đại
văn minh cơ khí đang dần dần máy móc hóa con người, bọn hãnh tiến trên toàn thế
giới đang muốn biến con người thành những công cụ để sử dụng theo ý đồ độc tài
nào đó, thi nhân vất bỏ sạch sành sanh hết thảy mọi sự xuống đống rác thành phố
khô kiệt, đơn độc quay về với thiên nhiên rừng núi, cúi xuống quỳ hôn lòng đất
mẹ, hít thở cùng mây trắng trăng ngàn sương khói cỏ hoa và đốt lên ngọn lửa tịch
mịch quanh đây. Ngày ngày lủi thủi cuốc đất làm rẫy trồng
thông, gieo hạt giống mầm chồi xanh tươi mới. Thế rồi hàng ngàn cây thông
đã phủ kín triền đồi thành một cánh rừng thông xanh rợp ngời bóng mát để cho hoa
cỏ bướm vàng hát ca lặng lẽ vô thanh giữa đất trời tự tại một mình một cõi tự
do :
Được
làm một sinh vật tự do
Cho
đến chết
Tôi
quyết không lết
Cũng
không bò
Như
hầu hết đồng loại hai cẳng
Cứ
suy tư nhưng cứ giống chó
Đó đó
Đó
Thái độ vô úy không sợ hãi trước thế cuộc hỗn mang là
một thái độ hùng tráng mà người thi sĩ đơn thân độc mã thể hiện giữa thời buổi
dầu sôi lửa bỏng, đất bằng dậy sóng ngả nghiêng làm đảo lộn hết mọi thứ giá trị
cao quý, nhất là giá trị tinh thần đạo đức cũng xuống cấp trầm trọng, hầu như
không còn đất đứng nữa rồi. Ngay trong giới tu sĩ Phật giáo, hình ảnh tiêu biểu,
tượng trưng cho đạo đức con người cũng mất đi ý nghĩa tốt đẹp, bởi đa số đều
hướng ngoại tầm cầu, chạy theo hào nhoáng âm thanh sắc tướng bên ngoài, vô tình
biến Phật giáo thành Độc thần giáo, xem Đức Phật như vị thần linh ban phước
giáng họa. Họ đem Phật, Tổ ra kinh doanh
đủ mọi hình thức, tranh nhau làm
thầy phong thủy, thầy cúng, thầy bói coi tướng, đoán vận mệnh, xem nhà cửa bếp
núc, cúng sao giải hạn, đua nhau tạc tượng Phật khổng lồ, xây chùa đồ sộ nguy
nga rộng lớn, dựng tháp hoành tráng cố đạt hạng nhất để được xếp vào kỷ lục
guinness, nhằm mục đích phục vụ “du lịch
tâm linh.” Quá vô ích vô nghĩa, phi lý nhất là những cái
tháp xây lên tốn bạc tỷ, chỉ để chuẩn bị khi chết, họ vào nằm rục xương cốt
trong đó. Họ cũng ráo riết chạy theo bằng cấp, bon chen giành giựt chức
vụ lãnh đạo tăng đồ, lập hội này nhóm nọ lu bù gọi là Phật sự, tìm cách phát
triển kinh tế riêng tư, hưởng thụ đủ thứ danh lợi thế gian và hèn nhát toa rập
làm công cụ cho các thế lực vô minh, tiếp tay đưa Phật giáo vào chỗ bạc nhược
suy đồi :
Tôi
có biết nhiều thiền sư
Rất
được lòng quần chúng
Nhờ
liên hệ tưởng xa mà gần
Với
đủ các loại súng
Đúng là như vậy đó, ai cũng xem thường, khinh bỉ khi
nhìn thấy nhiều vị tăng sĩ đi xe hơi tới Mặt trận Tổ quốc, tới Quốc hội, ngồi lơ
láo thảo luận với các đảng viên chính trị về các vấn đề tham nhũng hối lộ, về
dân số tăng nhanh, về giáo dục suy thoái, về kinh tế suy sụp, về kế hoạch sinh
đẻ, về tệ nạn xã hội…Rồi hô hào tín đồ hãy chấp hành mọi chủ trương đường lối,
cố tu phước gắng niệm Phật cầu nguyện chết về niết bàn, hưởng cảnh cực lạc
phương tây mơ hồ nào đó, còn sống thì phải tốt đời đẹp đạo…Thật là lố bịch làm
sao ! Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn tuy cũng có vài đứa con đi xuất gia nhưng đành phải
nói lên mặt trái của một số tà sư quốc doanh thời bây giờ đấy thôi. Dù tịnh khẩu lâu rồi mà vẫn muốn gầm lên một
tiếng cho khỏi day dứt quằn quại :
Nói
Ói
Mỗi lần nói là mỗi lần muốn ói mửa nhưng cũng đành phải
nói thôi, Sơn Núi cứ khẳng khái nói cho những ai còn chút tối thiểu lương tâm
nghe ra một sự thật đau lòng nhất, đó là chỉ có vi trùng trong thân sư tử mới ăn
thịt sư tử, cũng như vậy, chỉ có tăng sĩ mới có thể phá hủy, phá hoại Phật giáo
chứ tuyệt nhiên chẳng phải ai cả, chẳng có thế lực bạo quyền nào nhúng tay vào
được cả. Đây là những lời thơ tâm huyết chỉ thẳng vào sào huyệt những kẻ giả
danh tăng sĩ, bọn nội trùng Phật giáo cuồng đức loạn tâm :
Về đi
thôi kiếm chỗ nằm
Mõ
chuông đang nện trăng rằm ngất ngư
Thiền
sư ăn thịt thiền sư
Niết
bàn nhiều giống chân như nhiều nòi
Tâm
teo tóp trí cọc còi
Ma
đang thuyết pháp quỷ đòi giảng kinh
Kìa
em tịnh thủy một bình
Cửa
Không ai viếng cửa mình tôi thăm
Kinh khủng thật, chỉ có Sơn Núi mới đủ khí phách hùng
tâm tráng khí, cá tính khốc quỷ kinh thần, bộc trực can trường mới dám sấm sét
thẳng thắn chỉ trích ngay vào mặt, chẳng vị nể làm bộ giả đò cung kính gì cả,
thích nói là cứ nói ào ào ra vậy thôi. Đôi khi “dĩ độc trị độc” cũng cần thiết lắm phải không ?
Không những tấn công kẻ ác quỷ tà ma mà nhà thơ còn muốn bạt tai bọn triết gia
kinh viện suy tư thiếu máu, chính bọn này bày đặt ra đủ thứ chủ nghĩa này, học
thuyết nọ… vô tình làm băng hoại và ám sát cả nhân loại suốt từ nghìn xưa cho
đến hôm nay :
Tại
sao
Thơ
cứ mênh mông hát
Khi
trái đất
Đang
bị băm nát
Bởi
đủ loại triết gia kinh viện
Chưa
bị ai
Tát
Tát tai, đá đít là một cách nói gây ấn tượng kiểu sấm
sét Nietzsche, phá hủy đạp đổ hết mọi thần tượng hư ngụy, biểu lộ thái độ tống
xuất bọn lưu manh đểu giả, chuyên môn ném đá giấu tay, ngậm máu phun người,
những kẻ ma cô xảo trá, lập lờ tráo trở đánh lận con đen trên trận đồ đảo điên
của những cái gọi là chủ nghĩa, học thuyết, tôn giáo, văn hóa, văn nghệ bây giờ :
Khách
đến
Sao
ta hết thiết tha
Ngồi
ỉa
Bởi
Cách
gò mối không xa
Không
phân biệt nổi người hay ma
Có
theo tôn giáo học thuyết hay chủ nghĩa nào không nhỉ ?
Nheo
mắt già nhìn kỹ
Rất
hy vọng không phải điếm đĩ
Trên
trận đồ văn hóa nội ngoai đảo điên
Để
khỏi thương cho sự ra đời
Thiếu
suôn sẻ tự nhiên
Của
thỏi vàng nhão
Từng
bị a dua tra khảo
Quá
tội nghiệp
Ừ quả là đáng tội nghiệp thay ! Trước thảm cảnh bi đát đang xảy ra trên toàn cầu khắp
mặt đất trầm trọng đau thương, cả thế giới đang bị đủ thứ vũ khí tối tân bằm nát
bấy ra như thế, thi sĩ cắt cớ lại đi bày tỏ với các đấng giáo chủ xưa nay một
nhận xét tưởng như rỡn đùa chơi :
Hỡi
các Đấng Giáo Chủ Kim Cổ
Dù
Đạo của các ngươi
Thành
hay không thành
Cỏ mộ
Vẫn
cứ xanh
Thành thật nêu lên một nhận xét tinh tế như thế, không
biết các đấng gọi là giáo chủ kia có chịu nghe hay không ?
Bởi
vì :
Nếu
không có ma
Khó
bề thấy được Phật
Đó là
sự thật của trái đất
Nhưng
nghĩ cho cùng tất cả đều trật lất
Thật vậy, trong khi cả nhân loại đang chờ đợi một vị
cứu tinh xuất hiện, Tây phương cầu nguyện Thượng Đế giáng thế, Đông phương hy
vọng mong chờ Phật Di Lặc xuống trần, còn Sơn Núi thì niêm hoa vi tiếu, phiêu
phiêu làm thơ chơi :
Xe
chênh bánh giữa luân hồi
Ưu bi
chở ngập bến trời bao la
Ngày
chưa sập bóng ta bà
Đã
nghe chừng Hội Long Hoa đến rồi
Một
chàng Di Lặc xa xôi
Một
tâm ảo tượng tôi ngồi thâu đêm
“Một
tâm ảo tượng tôi ngồi thâu đêm” cũng đủ chỉ ra tất cả mọi sự nguyện cầu, hy vọng mong
chờ kia đều hoàn toàn vô nghĩa phải không ? Bởi vì Phật Chúa tự bao giờ, vốn
hằng hữu ngay trong lòng mỗi người chúng ta đây rồi, chỉ vì vô minh mà mình
không thấy đấy thôi, cho nên mới bày ra lạy lục, cầu khẩn, khấn vái liên hồi.
Trên pháp hội Hoa Nghiêm, Đức Phật đã bày tỏ phát biểu :
Nếu
người muốn biết rõ
Chư
Phật khắp ba đời
Hãy
quán pháp giới tánh
Đều
do tâm tạo thôi
“Đều
do tâm tạo thôi” hay tất cả do
tâm tạo là một tuyên bố vô tiền khoáng hậu, thấu suốt cổ kim,
đưa con người trở lại với ánh sáng ban đầu, sống với tự tâm tự tánh. Hạnh phúc
hay đau khổ, niết bàn hay địa ngục… cũng đều do chính mình tạo ra thôi, chứ
tuyệt nhiên không phải do Phật trời, thượng đế nào tạo ra cả. Đây là chân lý
vĩ
đại mà Thế Tôn đã khai thị trên tuyệt đỉnh Linh Sơn, cách đây gần ba nghìn năm
rồi. Rất tận tường, quá rõ ràng như vậy mà đa số người ta vẫn không hiểu, không
thấy, cứ chạy kiếm tìm nhớn nhác, van vái bái lạy, khấn vọng mong cầu Phật Di
Lặc ra đời để cứu nhân độ thế thì quả thật là tà kiến điên đảo, chao ôi ! Thôi
thì, thi sĩ chỉ còn biết quay về trong niềm im lặng, lắng nghe thơ hát giữa mông
mênh vũ trụ và bàng hoàng thấy mưa lộng nắng trào sơ nguyên huyền
ảo :
Tôi
không thể hiểu vì sao
Mà ôi
chao
Nắng
trào
Tịch
mịch
Tịnh hồn du sĩ, quy
hồi đồi cao lững lờ thơ bay đầy mây trắng. Ơi mây trắng nắng vàng hoa cỏ trổ lặng im. Trong niềm cô liêu
hiu quạnh, lặng hồn nghe nắng trào tịch mịch vô vi, thi nhân nhẹ nhàng đưa chân
lững thững đi đứng bồng tênh trên đồi cao Phương Bối cuối mùa thu nhìn ngắm rừng
sương phiêu phưỡng lướt bồng bềnh :
Trưa
đứng một mình đợi ai lên
Đất
trời đâu có dưới và trên
Gò
cao ổi sót rụng một trái
Dòi
ăn một bên ta một bên
Hình ảnh “dòi
ăn một bên ta một bên” thật cảm động, không thể nói
nên lời. Phản ánh tình trạng nhà thơ đang đói, đói và đói, gian nan và khổ cực bức bách thường xuyên ráo riết đến chỗ gần
tuyệt lộ. Đỗ Phủ ngày xưa chắc cũng nghèo xơ xác hàn vi đến vậy là cùng. Thế mà không biết có một phép mầu nào đó
đã âm thầm trợ lực cho thi sĩ vượt qua và vượt qua mọi thử thách cực khổ gian
nan
một cách ngoạn mục như vậy. Giống như nhà văn Henry Miller, một đại văn hào mà
Phạm Công Thiện ca ngợi tới mây xanh, rời bỏ kinh thành New York về vùng sơn
thượng Big Sur quyết định không làm gì hết, ngoại trừ sáng tạo vì nhà văn nhận
định rằng : “Bổn phận của thiên tài là giữ phép mầu sinh động, là luôn luôn sống
trong phép mầu, là khiến cho phép mầu càng mầu nhiệm hơn nữa, là không thệ
nguyện trung thành với bất cứ cái gì, nhưng chỉ sống một cách mầu nhiệm, suy
tưởng một cách mầu nhiệm, chết một cách mầu nhiệm… Sự kỳ diệu
và huyền nhiệm của cuộc đời bị bóp nghẹt trong chúng ta, khi chúng ta trở thành
một phần tử nào đó có trách nhiệm với xã hội. ”*****
Sơn Núi cũng vậy thôi, cũng rút lui về núi rừng hoang vắng tịch liêu, nằm lẫn
trong sương mờ vạn cổ, gõ vào vách đá mà hát khúc hạo nhiên chi khí ca và sáng
tạo, sáng tạo không ngừng qua từng hơi thở, từng tế bào mạch máu, từng bài thơ
như Một mình đi luồn vô luồn ra trong núi
chơi. Bài thơ này được Trương Hồng Sơn, bạn cũ của Sơn Núi rất thích như lời
thi sĩ cho biết :
“Ụa, hòa bình thế giới đã ló dạng từ lâu rồi sao mà một tiến sĩ Việt Nam làm
việc ở Nasa là chàng Trương Hồng Sơn gật gù ngâm nga “Một mình đi luồn vô luồn
ra trong núi chơi” của đãng tử Nguyễn Đức Sơn nồn này !” Bài thơ chỉ có mấy
câu thôi mà hàm ý sâu xa cả một kiếp người :
Khi
thấm mệt tôi đi luồn ra núi
Cuối
chiều tà chỉ gặp bãi hoang sơ
Bước
lủi thủi tôi đi luồn vô núi
Nghe
nắng tàn run rẩy bóng cây khô
Chân
rục rã tôi đi luồn ra núi
Hồn
rụng rời trước mặt bãi hư vô
Hư vô, hư vô, hư vô là gì mà thi sĩ rụng rời khi giáp
mặt ? Phải chăng như nhà văn Hemingway, người đã từng đạt giải Nobel văn
chương vào năm 1954, bị hư vô ám ảnh suốt một đời cho đến khi tự
tử ? Không biết, không biết, thưa rằng chẳng biết chi mô, chỉ biết rằng
nắng trào, lửa cháy tịch mịch trong lòng chàng thi sĩ kỳ dị kia rất yêu thích
nghệ thuật, lấy nghệ thuật làm lẽ sống cho đời mình như có lần chàng tuyên bố
trong Thay lời tựa tập thơ Tịnh khẩu : “Có sống nhiều năm
ở Sài Gòn nhưng không hề thấy chút chi cái đẹp của thành phố và tự hỏi không
hiểu vì sao hàng tỉ người có thể sống trong những đô thị lớn trên thế giới. Sẽ
tự cứa cổ tự tử ngay nếu một ngày nào đó đầu thai lên thấy đất của các đô thị,
nhà cửa và khu kỹ nghệ tràn lấn quá nửa diện tích của núi rừng, sông biển, thác
suối, ao đầm hồ…Tự nhận là tha thiết với xã hội vô chánh phủ, khó có thể có trên
thế giới này. Từ đó, từ đó thôi cũng dễ tắt thở rồi. Vậy chớ cái gì làm cho nó
có thể còn sống được cho tới ngày nay ? Ông Phật, ông
Khổng và nhất là ông Lão, đành rồi, nhưng còn một ông bao trùm hết và hốt ba ông
kia bốc cao lên : Ông Nghệ Thuật.”
Đúng thế, nghệ thuật là hình thái ý thức xã hội đặc
biệt, dùng ngôn ngữ hình tượng sinh động cụ thể, gợi cảm để phản ánh hiện thực
và truyền đạt tư tưởng tình cảm tuyệt trần Chân Thiện Mỹ. Nghệ thuật là một
phương tiện giúp cho chúng ta đạt tới chân lý, tới cái như thật, như thị, như
như. Sự thật khách quan như thế nào nhìn đúng như thế ấy, bản chất mình như thế
nào nhận đúng như thế ấy nhưng dĩ nhiên điều kẻ sáng tạo thấy biết đó không
phải là sự thực khách quan cứng nhắc khô khan mà là sự thực sinh động, rung động
hơi thở sự sống, rộn ràng nhịp đập thiên thu. Như vậy nghệ thuật ở đây là hơi
thở, là đạo sống đích thực, sống hoàn toàn tự do tự tại, giải thoát mọi ràng
buộc, mọi trói cột vào vòng nô lệ thế gian. Người nghệ sĩ vĩ đại là biết sống
thanh thản an nhiên giữa cuộc tồn sinh, dù ở trạng huống bi đát nào thì cũng
không run sợ, hèn nhát, van xin, vẫn tự tin chắc nịch vào nội tâm thâm hậu của
chính mình, thể hiện qua thơ văn, nhạc họa nhằm nhập diệu ngay vào cái thực tại
hiện tiền, ngợi ca cuộc sống yêu thương, thưởng ngoạn cuộc đời rỗng rang vô sự.
Từ cái nhìn đó, nhà thơ mở rộng lòng ra tâm sự cùng các con cái của mình một
điều chi muốn dặn dò nhắn nhủ :
Mai kia tan biến hận thù
Giữa
đêm sao chiếu mịt mù phương đông
Cha
về ôm cả biển sông
Duỗi
chân duỗi cẳng nằm không một đời
Cho
con cha hứa một lời
Đuổi
mây thiên cổ rong chơi tối ngày
Thu
nào tóc bạc òa bay
Có
con chỉ trỏ mới hay cái già
Cúi
hôn trời đất đậm đà
Cha
tan theo bóng trăng tà vạn niên
Nguyễn Đức Sơn mà người dân ở quanh vùng phố núi Bảo
Lộc đều gọi là Sơn Núi một cách thân mật, rất thương yêu vợ con và làm thơ dành
cho con cái cũng khá nhiều, bài nào cũng chắt chiu nhiều ý tứ sâu xa thâm trầm,
vô cùng xúc cảm rưng rưng :
Xem
cha đốt cỏ ngoài rừng
Nâng
niu mẹ ẳm theo mừng không con
Có
vài chiếc lá còn non
Gió
xua lửa khói nổ giòn trên không
Nắng
tà trải xuống mênh mông
Bước
theo chân mẹ cha bồng hư vô
Nắm
tay lật úp đi con
Co
thân tròn trịa như hòn đá lăn
Muốn
cho cuộc sống không cằn
Tập
cho quen mất thăng bằng từ đây
Nằm
yên thôi chớ vùng vằng
Để
cha rơ miệng con bằng mật ong
Bẻ
luôn cái lưỡi cho cong
Nói
năng lấp liếm mới hòng người nghe
Xưa
ông nội đến nơi này
Sóng
xanh mơ mộng những ngày thanh niên
Sáng
chiều bơi lội như điên
Tập
cha ôm cõi vô biên một mình
Nước
vô mặt mũi lình bình
Cha
gần ngộp thở nên kình luôn ông
Bây
giờ biển cũ mênh mông
Dẫn
con về thở cũng không được rồi
Một
ngàn tư tưởng xa xôi
Rừng
cao một khoảnh cha ngồi ru con
Khi
không tao tạo nên mày
Lọt
ra từ cõi không ngày không đêm
Xưa
kia trên cái bụng mềm
Tao
đâu ngờ đã chất thêm lượng sầu
Đất
trời đến thuở rụng râu
Có
tao hậm hực ngồi khâu cuộc đời
Thế đó, một bầy con sinh ra đều đặn dưới trăng mờ sương
khói rừng xanh, có hai cô gái út Phương Bối, Tiểu Khê, bây giờ đã lớn hết rồi,
trừ
Đức Thảo đã mất, còn lại đứa nào
cũng tung cánh chim trời, rời núi rừng hoang vắng bay xuống vùng thung lũng bình
nguyên, biết sống tự lập và cũng biết mần thơ, nhất là thơ Nguyễn Đức Vân,
Nguyễn Đức Yên bàng bạc hơi giống hồn thơ lục bát của phụ thân. Bởi do có nhiều
con cái, lúc nhúc thê tử như vậy, làm sao không tránh khỏi phiền não khổ lụy,
nên chi Sơn Núi có lúc cũng Nói thật,
một sự thật não nùng, túng thiếu của những gia đình nheo nhóc buồn
thiu :
Ở
ăn với mẹ mày nhiều
Có
trưa hộc máu có chiều trào cơm
Có
đêm quẩn trí sôi đờm
Sáng
ra cuộc sống quá nhờm con ơi !
Ru
con cha rống thấu trời
Oan
khiên tan ở giữa đời cho mau
Sầu khổ thái quá, hân hoan thái quá, thi sĩ đi từ cực
đoan này đến cực đoan khác một cách tự nguyện, tự dấn thân liều lĩnh đương đầu
cho đến tận cùng một vấn đề nào đó trong cuộc sống như muốn khám phá để bùng vỡ
ra điều chi bất khả tư nghì. Quả thật, không thể nghĩ bàn chi được hết, chỉ còn
một cách thể hiện bằng hành động nhập cuộc, ôm trọn tử sinh trong vòng tay say
đắm một lần thật chặt, vì biết rằng chẳng có gì hơn là mộng mị ảo giác hoang
mê :
Rồi
mai huyệt lạnh anh về
Ru
nhau gió thổi bốn bề biển xưa
Trăng
tà đổ bóng cây thưa
Mộng
trần gian đã hái vừa chưa em ?
Chắc có lẽ chỉ có
Nguyễn Thị Phượng mới trả lời được câu hỏi này mà thôi. Ơi chao ! Hình ảnh nàng thơ gầy mấy chục năm trời sống với chàng thi sĩ dị
thường trên núi cao ấy là một hình ảnh đẹp như huyền thoại, một vẻ đẹp hy hữu
hiếm hoi đầy sức chịu đựng kiên trì nhẫn nhục, vô cùng độ lượng bao dung.
Tình yêu của con người trên mặt đất quả thật vô lượng vô biên, vừa huyền diệu
thiêng liêng mà cũng vừa phù du huyễn mộng :
Sáng
mênh mông
Ta đi
thơ thẩn trong vườn hồng
Ồ
bông ồ mộng ồ không
Sống hiu hắt lặng lẽ riết trên núi đồi heo hút suốt hơn
mười lăm năm sau, vào tháng 12 năm 1992 nhà thơ mới làm một cuộc phiêu lưu xuống
núi, thăm lại Sài Gòn. Chốn cũ giờ đây quá nhiều đổi khác, bạn bè xưa tan tác
tàn xiêu, chẳng biết phương nào trôi nổi. Đôi ba thằng bạn trí thức xưa, bây giờ
lưỡng lự phân vân trên con đường tiến thối lưỡng nan, vì bị mắc vướng vào vòng
mâu thuẫn xung đột nội tâm, không biết dứt khoát như thế nào, cảm thấy lòng dạ
bất an. Thông cảm tình trạng của bạn, Sơn Núi nhẹ nhàng
Tâm sự với một đảng viên trí thức muốn ra khỏi đảng :
Anh
đi cách mạng bao năm
Từ
rừng đến phố dao găm chưa xài
Vẫn
chưa dứt điểm sòng bài
Tấm
thân ê ẩm khuya dài đau sao
Cứ
yêu tha thiết đồng bào
Tuy
nhiên hễ thấy máu trào thì ngưng
Những tên dở dở ương
ương kiểu ấy, dĩ nhiên là sống nhạt nhẽo, thiếu sinh khí, chỉ biết đeo mặt nạ
giả dối. Rồi từng bước đơn hành giữa thành đô náo nhiệt, viếng
thăm dăm bảy con đường xưa đây đó và một chiều phiêu hốt theo cơn gió, ngập
ngừng dừng lại ghé Thăm bạn là công nhân
nghèo dọn nhà :
Xe ba
gác đã đến rồi
Mau
mau bàn ghế chảo nối chất lên
Vợ
chồng được mấy tấm phên
Những
đêm hạnh phúc nhà bên khó dòm
Giờ
này còn cãi om sòm
Nhựa
nhôm cũng món tiền còm mang theo
Đừng
quên cái khoản cứt heo
Gởi
về quê giúp ruộng nghèo đói phân
Thật là tiêu biểu làm sao, miêu tả đậm nét cả một nếp
sống bấp bênh của giới dân nghèo lao động không có hộ khẩu thành phố, phải ở tạm
bợ, bôn ba hối hả chạy ngược chạy xuôi tìm sinh kế để kiếm ăn qua ngày lay lất.
Đấy là đa số những cảnh đời vất vả gian nan, hết sức cực khổ lao đao đói rách nhọc nhằn. Lặng hồn sờ
sững, khi nhà thơ bất ngờ tái ngộ tao phùng một người bạn xưa kia là tu sĩ, đại
đức ở chùa, chuyên nghiên cứu kinh điển Nguyên thủy, thế mà không hiểu tại sao,
giờ đây lại là cán bộ đảng viên cộng sản, bèn
Tâm sự với một đảng viên gốc chùa :
Nay
về thành phố tình cờ
Cố
nhân gặp lại sững sờ bể dâu
Anh
vô chùa được bao lâu
Thì theo cách mạng nhiệm mầu dắt ra
Hai
lần bái biệt cửa nhà
Thoát
ly mấy kiểu chắc là khác nhau ?
Tay
sờ mái tóc trắng phau
Có
khi nào ngẫm cái đau dữ dằn
Vợ
con thừa thãi cái ăn
Cảm
ơn một chút trán nhăn riêng mình
Tâm sự như vậy là cũng dư hiểu nỗi lòng nhau rồi phải
không ?
Chẳng cần phải luận bàn chi thêm nhiều nữa với bọn cơ hội bỉ
ổi này. Tâm tính con người đổi thay đột biến, biết đâu mà
lường ?
Trước kia là bạn bè thân thiết thâm giao, còn bây chừ thì tư tưởng đối nghịch
hoàn toàn khác hẳn, khi bạn bầu lâu ngày gặp lại Trên sân thượng một nhà hàng đặc
sản :
Cố
nhân này cố nhân ơi !
Sợ gì
bội thực cuối đời đấu tranh
Yêu
cầu nhậu tiếp đi anh
Mặc
tôi ngồi ngó trời xanh ngập ngừng
Ngày
xưa từ chối vô bưng
Tôi
đi lỡ thẳng cái lưng quen rồi
Thơ
văn không kỵ chảo nồi
Cảm
ơn gặp gỡ bồi hồi bắt tay
May
mà còn có chiều nay
Bánh
mì tôi gặm mây bay anh nhìn
Nhìn thấy mây bay trên bầu trời xanh bát ngát là một sự
kiện trọng đại xảy ra trong đời, đối với những người xưa nay chỉ biết đắm chìm
trong danh lợi. Cái giây phút bất ngờ họ chợt nhìn thấy mây bay là phút giây
đáng ghi nhớ như nhìn thấy trái đất đang lăn quay lông
lốc dưới gót chân. Những sự kiện đó vốn có sẵn từ muôn thuở rồi, nhưng có mấy ai
ý thức được điều kỳ diệu ấy đâu ? Bởi vì họ chỉ bận tâm lo cho cái bản ngã to đùng, lùng
bùng trong cố chấp, nên sống nô lệ vào cái ngã chấp thâm căn cố đế đầy tham
vọng, tham lam, ôm đồm đủ thứ chuyện lợi danh, thành bại, đắc thất, nhất là khi
họ có quyền hành, chức tước, địa vị thì lại càng sinh ra đòi hỏi thỏa mãn bản
ngã nhiều hơn nữa. Bọn quan liêu này, thời nào cũng có, cứ bày trò nhậu nhẹt, ăn
chơi trác táng, không những ngoài mấy nhà hàng lộng lẫy mà ngay trong các biệt
thự tư gia là sinh hoạt của một số cán bộ đảng viên biến chất, vì họ có thừa
tiền dư bạc nhưng thiếu một điều quan trọng nhất… Điều đó thì ai cũng biết rồi,
chẳng cần phải nói rõ làm chi. Tuy nhiên, bất sá họ có sai trái gì, thi nhân vẫn
giữ chút tình bằng hữu đến thăm, giống như thi hào Goethe :
“Tất cả những người tôi gặp gỡ là những kẻ mà tội lỗi của họ, chính bản thân tôi
đều có thể vi phạm.” Với nhãn quan cảm thông, rộng rãi như thế, thi sĩ đi
viếng thăm Gặp gỡ tại nhà một đảng viên
ngày chủ nhật :
Sáng
nay chủ nhật đông vui
Bạn
bè ăn uống tới lui khề khà
Bao
cao su vứt đầy nhà
Trẻ
con lượm thổi con gà lôi đi
Chưa
kịp quét miễn xầm xì
Gia
đình cách mạng thôi thì tự nhiên
Con
gái đầu khá ngoan hiền
Nguýt
xong cha mẹ hốt liền vườn sau
Cháu
ơi ! Thông cảm cho mau
Không
gì bù lỗ nỗi đau làm người
Khách
quan phân tích tiếng cười
Chú
tin chắc chắn đười ươi khác rồi
Một
bàn rượu ngoại chờ thôi
Rửa
tay vô bếp đồ mồi dọn lên
Tin tưởng vào lẽ công bằng lý nhân đạo bao la của trời
đất, nhà thơ xúc động làm thơ đồng cảm, chia sẻ cùng với biết bao cảnh đời éo le
tội nghiệp của các chị em phụ nữ, những trái tim ứa máu đau đớn vì bị người yêu
phũ phàng phụ rẫy, khi tình cờ một sớm mai lang thang phố thị, đi ngang qua nhà
thương, bất ngờ Gặp gỡ trước bệnh viện Từ
Dũ :
Chị
đi khám sản phải không
Anh
đâu chẳng thấy dáng trông lạc loài
Bao
năm thai trứng nạo hoài
Năm
nay đừng nhé thai ngoài tử cung
Họ
nghi tàn bạo lạ lùng
Oan
khiên tội lắm anh hùng bạn tôi
Gần nửa tháng rong rêu khắp nẻo phường xanh phố đỏ thị
thành, một thành phố đầy bụi khói oi nồng thời công nghiệp máy móc khô cứng,
chứng kiến biết bao cảnh ngộ vô thường đắng cay thay đổi, bên này khác hẳn bên
kia, lòng dạ con người càng bạc nhược ươn hèn, suy đồi thối tha, cạn kiệt biến
chất theo kiểu đểu giả, lếu láo quỷ ma nhiều quá, chàng đãng tử ê chề ngao ngán
mà Giã từ thành phố Hồ Chí Minh :
Mai
tôi về núi em ơi !
Quẩn
quanh thành phố ma chơi quỷ đùa
Thời
công nghiệp dạo sân chùa
Tên
siêu đãng tử cưỡi rùa trong mơ
Ba
năm ví bỏ làm thơ
Ba
ngàn năm nữa ai rờ tan hoang
Bên
này đèn điện sáng choang
Bên kia vách mộ nắng loang tắt rồi
Thôi thế là cũng đủ, một vài bức tranh xã hội sẫm màu
sầu khổ, bất an, cơ hội, hưởng thụ, vênh váo, vô cảm, hợm hĩnh dưới cõi phù sinh
kia là vậy. Thấy gì chăng hay chỉ thấm ngậm ngùi ? Lui về núi cao nằm ngắm mây trời suốt sớm trưa chiều
tối… Rồi cảm hứng những vần thơ phơ phất giữa hồn rung :
Êm êm
chiều xuống chập chùng
Gió
lên lùa cả mùa đông vào hồn
Sương
mù giăng kín bản thôn
Mái
khoan thai đếm giọt buồn theo mưa
Cây
rừng chuyển giọng sầu đưa
Nhịp
vang theo nhịp như xưa lắm rồi
Suối
khô đã tiếp lượng trời
Ngày
xanh tôi vẫn một đời tịch liêu
Thi
ca
Không
thể nào đồng nghĩa
Với
tiếng kêu la
Rồi
chết
Tôi
đâu có muốn làm thơ
Ngứa
tay xé giấy hồi giờ quẹt chơi
Cõi
riêng nghi ngút cả đời
Cũng
e nằm hết sau lời lẽ kia
Ai về
khuất tịch đá bia
Thấy
ra ngàn thuở vài tia nắng mù
Đồng
thanh xin đứng gật gù
Chớ
hòng kiếm cách bỏ tù hồn tôi
Cái
nòi bình giải lôi thôi
Có
hay chữ nghĩa đắp bồi tang thương ?
Sương mù từ dưới thung lũng ùn lên bay là đà lã lướt
quanh triền đồi non núi lạnh pha phôi. Rồi đến cuối năm
1996 nhà thơ đãng tử lại ngứa ngáy tay chân nên làm một trận ngao du phiêu bồng
xuống núi lần nữa, theo cách điệu Ừ, vậy đó :
Đã
gần sáu chục tuổi rồi
Làm
thơ trắc nết như hồi hai mươi
Núi
thần vây bủa đười ươi
Lang
thang tôi kiếm con người hôm nay
Gặp
em thuở tóc đang bay
Chòi
hoang nằm mộng hai tay tuột quần
Thằng bạn Đặng Toản
đang sống bồng bềnh bên Mỹ quốc, cháu ruột nhà phê bình Đặng Tiến, là một người
thuộc làu làu thơ Nguyễn Đức Sơn, hầu như không sót bài nào, rất thích câu
“Lang thang tôi kiếm con người hôm nay.” Và “Chòi hoang nằm mộng hai
tay tuột quần.” Nghe hắn vừa đọc thơ vừa bình giải cả tiếng đồng hồ
qua điện thoại cũng vui, cảm thấy hay, hay tuyệt. Ừ “Chòi hoang nằm mộng hai tay tuột quần”
là mộng trong cuộc mộng du dương, cũng như không hề uống rượu mà vẫn thấy say
sưa túy lúy như thường.
Sơn Núi chưa bao giờ nhắp đến một giọt rượu gạo, rượu nếp hay bia bọt nào hết cả
nhưng rượu thơ, rượu nhạc, rượu hồng nhan thục nữ thì cứ vẫn lai rai nốc cạn
chén lai láng bồi hồi :
Tôi
không hề nhậu em à
Thế
nhưng trời đất đậm đà luôn say
Thiên
đường nếu chẳng chốn này
Cắn
răng chịu vậy miễn bày xa xăm
Cho
nâng nhé một chút cằm
Có
đâu nhất thiết phải nằm trên mông
Giọng thơ như cung đàn trầm dịu yêu thương lướt nhẹ hòa
âm thấm thía tận tâm can thể phách một nỗi đau đời xót xa cho biết bao thân phận
gái bia ôm, những nàng Kiều hiện đại ở khắp dọc đường khách đãng tử giang hồ một
hôm nọ tình cờ ghé thăm qua :
Mai
tôi về núi thật mà
Dẫu
cho thực tế khác xa cái cùm
Bia ôm đã mọc tùm lum
Màn
đêm thô tục bao trùm thanh niên
Thế
nhưng giọng lưỡi thánh hiền
Dưới
trên nhất trí đang ghiền phát huy
Tiền
đồ quá mức báo nguy
Đau
thay quần mục cài khuy cách nào ?
Em ơi ! Nước mắt cấm trào
Ngủ
xong nhớ ngáp ào ào giùm nghe
Nghe ra niềm chi não nề tê tái, nghèn nghẹn chẳng thể
thốt nên lời :
Mai
tôi về núi thật rồi
Chúc
em ở lại đứng ngồi tự nhiên
Xem
tôi chánh hẩu thằng điên
Tim pha chút máu thánh hiền cho vui
Rung
đùi tập thể trở mùi
Núi
cao tuy vậy ngậm ngùi vài năm
Trầm ca lặng lẽ âm
thầm. Còn
ai nhắn gởi lời tâm sự này ? Dời gót chân quày về đỉnh
núi. Cười với ngàn sương khói mênh mông.
Hỡi em mây trắng vờn trong nắng. Lặng nhìn mình như có
như không. Tận trong lòng sâu thẳm uyên tư, thi nhân chợt vẳng nghe máu
chảy lạnh rần qua muôn kiếp hư linh :
Ngó
mông ra núi Đại Bình
Hoàng
hôn vừa xóa muôn hình phù vân
Cái
danh ngàn thuở cóc cần
Sao
nghe máu chảy lạnh rần trong ta
Đại Bình hay Đại Lão cũng là một ngọn núi ở cao nguyên
Bảo Lộc. Bây giờ trên đồi thông bát ngát Phương Bối đã xây thêm một ngôi nhà có
vài ba phòng tiện nghi tương đối, do sư bà Huệ Giác, viện chủ Quan Âm tu viện ở
Biên Hòa và sư cô Hương Nhũ du học từ Ấn Độ về, tận tình giúp đỡ tài trợ cho gia
đình thi sĩ. Sơn Núi ít khi nghỉ ngơi đây mà ở biệt lập một am vắng trên đồi cao
nhất Phương Bối, nằm ẩn hiện giữa những bụi trúc xanh vàng lãng đãng sương mù
bàng bạc mênh mang. Sáng trưa chiều tối lội lên vòng xuống quanh mấy triền đồi
thông trúc biếc song thoại thầm thì với cây cỏ lá hoa :
Sướng
quá đời ta tuổi sắp già
Bao
nhiêu học thuyết bước đều qua
Nay
về dắt bóng chơi am vắng
Ấu
trĩ vườn trăng một tiếng gà
Một tiếng gà gáy trưa đâu đó dưới sơn thôn vọng lên
văng vẳng rồi tan loãng bay là đà theo sương khói chập chùng lan tỏa khắp mông
lung :
Nhờ
hồng phúc
Mà
nay
Mặc
dù đã có gia đình bậy bạ rồi
Tôi
vẫn đang ngủ trên am mây
Với
những bậc thầy
Muôn
thuở trước
Còn nghìn năm sau, nếu có ai chợt nhớ đến nhà thơ
Nguyễn Đức Sơn thì cứ việc thoải mái như lời nhắn gởi khơi vơi
:
Đời
sau người có thương ta
Từ
lâu xuống lỗ làm ma mất rồi
Đường
xa xin chớ bồi hồi
Mả
hoang nhảy đại lên ngồi đi cha
Lạ lùng thay ! Hình ảnh cái
chết của nhà thơ hiện ra quả nhiên là tuyệt đẹp, đẹp như tiếng vọng trong ngần
phất phơ giữa vô tận không gian và thời
gian :
Ngàn
sau
Phơ
phất gò bông lau
Mầu nhiệm không những là cuộc sống đang là mà còn hiện
hữu ở bên kia sự chết nữa, qua thần lực sức mạnh của nghệ thuật thi ca,
nhà thơ đã vượt lên trên cái chết ngay trong sự sống từng giây phút thanh tân.
Rất nhiều lần rồi, tôi về thăm Sơn Núi, ngồi đối mặt với một tâm hồn đã
va chạm càn khôn tịch mịch, tôi cảm nhận ra được nhiều điều thú vị. Thú
vị như nửa khuya thức dậy, thấy thi sĩ ngồi một mình bên bếp lửa
pha cà phê độc ẩm rồi. Tôi chợt nhớ mấy vần thơ Tuệ Sỹ :
Ai
biết mình tóc trắng
Vì
yêu ngọn nến tàn
Rừng
khuya bên bếp lửa
Ngồi
đợi gió sang canh
Hình ảnh một người ngồi lẻ loi bên bếp lửa giữa rừng
khuya đó thật đẹp, một vẻ đẹp bi tráng khi Tuệ Sỹ đi ẩn dật ở núi rừng Vạn Giã
vào năm 1977 và đẹp cô liêu như Nietzsche, từ chức giáo sư đại học Basel, rút
lui về vùng cao nguyên Naumburg năm 1879, sống những ngày cô đơn rờn lạnh nhất,
chỉ biết lang thang với bóng mình. Hình ảnh Sơn Núi trên
đồi Phương Bối cũng vậy thôi.
Đồi cao lũng thấp sương rờn. Thơ về cưới hỏi cô đơn
chốn này. Quạnh chiều phiêu lãng ngàn mây.
Thấy vàng hoa
mộng trổ đầy hoang sơ. Thở sâu và trầm cùng cây cỏ, vui nhẹ và bền cùng rẫy
nương, thường đội cái mũ bê rê bạc màu trông giống Henry Miller chi lạ… Hòa nhịp
bước sương trôi lên triền đồi cao xanh thoáng ngát, lòng phong quang đưa mắt
nhìn xuống chờn vờn thung lũng dưới xa kia và bao giờ tôi cũng ngâm nga lai rai
vài ba bài thơ của thi sĩ cho gió nắng bồn chồn rộn rã hát xôn
xao :
Muôn
năm thông vẫn dạt dào
Chiều
nay trở lại lũng sầu xa xôi
Tóc
em xuống nhẹ vai đời
Ghé
thăm hạnh phúc rồi tôi độc hành
Ngày
mai núi cũ tôi về
Dĩ
nhiên hạnh phúc tràn trề em ơi !
Thơ
bay tự cổ ngút trời
Quanh
năm bảo đảm tuyệt vời nước mây
Cớ
sao đãng tử bậc thầy
Hỏi
ra từ đá tới cây lắc đầu
Sáng
ra hôn nụ hoa hồng
Giữa
trưa dừng cuốc ta bồng mây trôi
Đít
em là một cái nồi
Gốc
cây bê tới đặt ngồi quá hay
Em ăn mặn anh ăn chay
Thằng
ngu gặng hỏi hôm nay ăn gì ?
Em ơi ! Tịch mịch trời chiều
Thò tay hẹn ước đôi điều cho vui
Kẻo
mai cảnh cũ sần sùi
Bâng
khuâng thiên địa ngậm ngùi hồn anh
Một
đêm sao ở trên trời
Thi
nhau rụng xuống bên đổi cây hoang
Lao
xao như nắng thiên đàng
Phấn
thông hiu hắt bay vàng hồn tôi
Các
em rồi sẽ xa xôi
Mình
tôi ở lại bóng ngồi thiên thu
Thiên thu hiện hữu ngay trong cái bây giờ, ngay trong
mỗi sát na đây thôi, rất thanh thản nhàn hạ tôi dạo quanh đồi núi thong dong,
lòng rỗng rang như mây trắng, nhắc lại hồi xưa, thời Sơn Núi còn lưu trú chùa
Trúc Lâm ở Gò Vấp, Sài Gòn, tôi thường ghé chơi, có lần cùng thi sĩ đạp xe rong
rêu lên Lái Thiêu, Bình Dương chơi suốt mấy ngày đêm rồi mới về. Thời đó là năm
1973 tôi đang theo
học Đại học Vạn Hạnh, mới tập tành làm thơ và học được ở thi nhân rất nhiều về
kinh nghiệm sáng tác văn chương.
Phương Bối đồi thông lộng gió mây trời thiên thanh vĩnh
thúy, thỉnh thoảng rộn gót chân du sĩ đi về, những chàng lãng tử tứ xứ mười
phương ngưỡng mộ Sơn Núi, những bạn bè vong niên thâm thiết đều tìm viếng thăm
một bận thân tình như họa sĩ Đinh Cường từ Mỹ về, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nữ sĩ
Thu Nguyệt từ Sài Gòn lên, nhà thơ Nguyễn Dương Quang từ Đà Lạt xuống, nhà văn
Bửu Ý từ Huế vào và mới vài tháng trước, thiền sư thi sĩ Tuệ Sỹ trên đường hành
cước vân du cũng ghé lại thư thả chơi dăm ba ngày. Gần đây nhất vào tháng 7 năm
2013 tôi lại bầu rượu túi thơ lên Phương Bối, ngồi cùng Sơn Núi khề khà đủ thứ
chuyện văn nghệ trong một quán cà phê ở phố núi Bảo Lộc một chiều mưa. Bữa đó
tôi có làm bài thơ này tặng thi sĩ nhưng quên đưa, trước khi từ giã :
Gió bụi mù du sĩ
ca
Qua bờ khốc liệt khiến nhà thơ câm
Tịnh
khẩu rồi lặng âm thầm
Trầm đêm nguyệt
động hỡi thâm xứ nào
Tưởng chừng như giấc chiêm bao
Bao nhiêu bọt
nước vỡ trào bấy nhiêu
Vọng sầu thiên cổ tiêu điều
Ngút đồi hoang dại khói hiu hắt vờn
Hoa
cô độc trổ cô đơn
Rợn màu máu lệ rợn hồn rưng rưng
Lời
ru vẳng gió sương
rừng
Mộng
du trên đỉnh mùa xuân
một mình
Tâm Nhiên
*
Nietzsche. Tôi là ai ? Phạm Công
Thiện dịch. Phạm Hoàng xuất bản, Sài Gòn 1970
**
Trúc Thiên. Hiện tượng Krishnamurti. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1967
***
Rainer Maria Rilke. Thư gởi người thi sĩ trẻ tuổi.
Hoàng Thu Uyên dịch.
An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1969
****
Phạm Công Thiện. Triết lý Việt Nam về sự vượt biên.
Trần Thi xuất bản. Hoa Kỳ 1995
*****
Henry Miller. Thời của những kẻ giết người.
Nguyễn Hữu Hiệu dịch. Hồng Hà xuất bản, Sài Gòn 1971
Thơ
Nguyễn Đức Sơn ( chữ
nghiêng) trích trong các tập :
Bọt nước. Mặt Đất xuất bản,
Sài Gòn 1965
Hoa cô độc. Mặt Đất xuất bản,
Sài Gòn 1965
Lời
ru. Mặt Đất xuất bản. Sài Gòn
1966
Đêm nguyệt động. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1967
Vọng. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn
1971
Tịnh Khẩu. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1973
Những
bài thơ rải rác viết sau năm 1975