Thích Thái Hòa
Có người hỏi tôi: “Niệm Phật
A Di Đà” liên hệ đến Giới - Định - Tuệ như
thế nào?
Tôi nói: Liên hệ rất chặt chẽ. Chuyên
tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà, khiến ý không còn nghĩ đến điều ác, ấy là giới.
Ý không nghĩ đến điều ác, nên miệng không nói lời
ác, ấy là giới. Ý không nghĩ điều ác, nên
thân không làm
điều ác, ấy là giới và là tâm giới. Giới là ngăn ngừa điều ác của
thân và tâm, niệm Phật A Di Đà, khiến ý không còn nghĩ đến điều ác,
miệng không còn điều kiện để nói lời xấu ác và thân không còn điều
kiện để làm các điều xấu ác. Do đó, niệm Phật A
Di Đà là giới và trì giới.
Chuyên tâm niệm danh hiệu Phật
A Di Đà, khiến tâm an trú vào một điểm,
phiền não lắng xuống và tâm bất loạn, ấy là định. Định ấy có khả
năng sanh giới mà thuật ngữ Luận tạng gọi là Tịnh lự sanh luật nghi
hay Định sanh luật nghi. Nghĩa là giới hay luật nghi sanh khởi từ
Thiền định, để phòng hộ điều ác xảy ra từ nơi tâm ý và nơi hành động
của thân, ngữ. Nên, trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà đến nhất tâm,
không những sanh ra giới (śīla) mà còn sinh ra định (samādhi) và
không những sinh ra định mà còn sinh ra giới.
Không những sinh ra giới, định mà còn sinh ra tuệ (Prajñā). Từ định mà sinh tuệ, thuật ngữ Luận
tạng gọi là Đạo sinh luật nghi. Nghĩa là do tâm ở vào trạng
thái thiền định thuần nhất, các phiền nào bị nhiếp phục và đoạn tận,
khiến con đường đi vào giải thoát phát sinh và có năng lực phòng hộ
các ác pháp, khiến chúng bị chuyển hóa và không thể khởi lên nơi tâm,
ấy gọi là Đạo sinh luật nghi.
Nên, niệm Phật càng
chuyên nhất, tâm càng đi sâu vào định và định đến chỗ tột cùng thì
tuệ phát sinh và nhập vào Thánh đạo vô lậu hay Phật đạo.
Tuệ phát sinh, thì thấy rõ tự tánh
thanh tịnh nơi tâm mình và tự tánh thanh tịnh nơi tâm Phật
A Di Đà không hai, không khác.
Thấy rõ tha phương Tịnh độ với tự tâm Tịnh độ là
tương tức, tương nhập. Không chứng nhập được tự tâm Tịnh độ, thì không thể chứng nhập được
tha phương Tịnh độ. Và không tin vào tha phương Tịnh độ, thì không có điều kiện để chứng
nhập tự tâm Tịnh độ. Trong tha phương Tịnh
độ có tự tâm Tịnh độ và trong tự tâm Tịnh độ có tha phương Tịnh độ.
Nên, tự tâm Tịnh độ và tha phương Tịnh độ, tuy hai
mà không phải hai, tuy một mà không phải một.
Và do có tuệ, nên thấy Tịnh độ Phật
A Di Đà và Tịnh độ của chư Phật mười phương
đều cùng một bản thể thanh tịnh, dung thông vô ngại, có khác chăng
là do từ nơi bản nguyện hay phương tiện thiết lập Tịnh độ của các
ngài.
Phương tiện hay hạnh nguyện của các
ngài tuy khác, nhưng không độc lập mà tương dung, tương nhiếp với
nhau, nên thế giới Tịnh độ của Phật này không hề trở ngại đối với
thế giới Tịnh độ của Phật kia và Tịnh độ của Phật kia không hề trở ngại Tịnh độ của
Phật này. Tất cả thế giới Tịnh độ của chư
Phật đều hiện hữu ở trong thể tướng của lý sự vô ngại pháp giới và
sự sự vô ngại pháp giới.
Tuệ do niệm Phật A Di Đà mà sinh khởi là vậy. Nên, niệm Phật
A Di Đà đến chỗ nhất tâm bất loạn, thì không những viên mãn
cả Giới – Định – Tuệ mà còn viên mãn cả Lục độ Vạn hạnh.
Do niệm Phật A Di Đà đến chỗ nhất tâm, khiến cho hết thảy hạt giống tham ở
nơi tâm đều được nhiếp phục. Không tham lam mới có khả năng thực
hành bố thí. Bố thí từ tâm vô tham, gọi là Bố thí Ba-la-mật.
Do niệm Phật A Di Đà đến chỗ nhất tâm,
khiến cho hết thảy tác ý xấu ác hay những “tác ý phi như lý” đều
được nhiếp phục và khiến cho hết thảy tác ý thiện hay “tác ý như
lý ” có điều kiện để sinh khởi.
Trì giới từ “tác ý như lý”, gọi là Trì giới
ba-la-mật”.
Do niệm Phật A Di Đà đến chỗ nhất tâm, khiến cho hết thảy hạt giống sân
hận ở nơi tâm đều được nhiếp phục. Không sân hận
mới có khả năng thực hành nhẫn nhục. Nhẫn nhục từ tâm vô
sân
hận, gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Nhẫn nhục mà không thấy có
đối tượng hay chủ thể nhẫn nhục, nên nhẫn nhục mà không có gì để
nhẫn nhục cả. Nhẫn nhục là để nuôi lớn trái tim
Từ bi.
Do niệm Phật A Di Đà đến chỗ nhất tâm, khiến cho hết thảy hạt giống giải
đãi, biếng nhác nơi tâm đều được nhiếp phục. Không
giải đãi biếng nhác mới có khả năng thực hành tinh tấn.
Tinh tấn từ tâm không giải đãi, gọi là Tinh tấn Ba-la-mật.
Do niệm Phật A Di Đà đến chỗ nhất tâm, khiến cho hết thảy các cảm thọ, các
tri giác, các chủng tử tâm hành, các chủng tử phân biệt nhận thức ở
nơi tâm đều được nhiếp phục. Thiền định từ sự vắng
mặt của các thọ, các tri giác, các chủng tử tâm hành và các chủng tử
phân biệt nhận thức, gọi là Thiền định Ba-la-mật.
Do niệm Phật A Di Đà đến chỗ nhất tâm, khiến cho các chủng tử thuộc về
thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến, tà kiến và các loại vô minh đều
được nhiếp phục. Trí tuệ sinh khởi từ vắng bặt hết thảy hạt giống tà kiến, vô minh
chấp ngã và chấp pháp, gọi là Trí tuệ Ba-la-mật.
Do đó, niệm Phật A Di Đà đến chỗ nhất tâm bất loạn, thì Giới – Định – Tuệ và
Lục độ Vạn hạnh tự viên mãn. Tịnh độ của Phật
không đi mà tự đến; không cầu mà tự chứng; không nguyện sanh mà Tịnh
độ tự sanh ngay trong hiện tiền.
Nên, niệm Phật là pháp môn tương dung,
tương nhiếp hết thảy pháp môn và pháp môn gom thâu cả Phật giáo năm
thừa, gồm Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Bồ tát thừa và Phật
thừa vậy.