Tác giả: MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH
Triều
đại của đức vua Kāḷāsoka suy tàn, kế tục là triều đại Nanda. Cả hai nhánh Thượng tọa bộ
và Đại chúng bộ vẫn âm thầm phát triển, lan tỏa từ tiểu quốc này sang tiểu quốc
khác, nhưng không có biến cố nào đặc biệt. Đến đời thứ 9 của hoàng tộc này thì
xảy ra chiến tranh lớn. Hoàng đế Hy Lạp, một vị vua trẻ tuổi, tài ba và hiếu
chiến là A-lịch-sơn đại đế (Alexandre de Grande) xua quân vào Ấn Độ. Đội quân
viễn chinh bách chiến bách thắng này dong ruổi vó ngựa dạo qua các tiểu quốc
biên thùy, lần lượt đánh chiếm những lãnh thổ mênh mông, sau đó men theo sông
Indus và sông Gaṅgā tiến vào Trung Ấn và Đông Ấn,
chiếm lĩnh tất cả quốc độ đất đai màu mỡ và dân cư đông đúc. Nền văn hóa đa sắc
màu, văn minh vật chất thành đạt của cư dân bản địa đem lại sự tò mò và kích
thích tham vọng của vị vua trẻ, ông ta thúc hối đại quân lên đường. Đến nước
Māgadha (Ma-kiệt-đà) thì quân lính của ông đã suy kiệt do đường xa mệt mỏi, do
dịch bệnh ốm đau và do cả nỗi nhớ nhà. Với đội quân phòng thủ hùng mạnh, Māgadha
đã ba lần đẩy lui và làm cho tổn hại rất nhiều xương máu của đại quân xâm lược.
Ý chí của A-lịch-sơn đại đế đã bị sự đoàn kết của nhân dân xứ sở này đánh bại;
chẳng biết làm gì hơn, ông ta rút quân về[1]. Trở lại Tây Bắc Ấn, vua Hy Lạp
để lại một viên thống tướng và một đội quân để cai trị lãnh thổ lớn rộng quanh
phạm vi 5 con sông (vùng Ngũ Hà). Tương truyền vị tướng này chính là Mi-lan-đà
trong Milindapañha (Mi-lan-đà sở vấn).
Gần hai
năm binh đao máu lửa, lúc tạm lắng yên thì triều đại Nanda bị lật đổ bởi hậu duệ
của dòng dõi Sakyā (Thích-ca) – là Caṇdagupta lập nên hoàng triều Moriya (Khổng tước)[2]. Caṇdagupta cai trị toàn cõi Māgadha, đặt kinh đô tại Pāṭaliputta (Hoa thị thành), khoảng 222 Phật lịch. Cuối
đời, Caṇdagupta đi tu theo phái Nigaṇtha. Hoàng
tử thứ hai lên ngôi là Bindusāra lại sùng mộ Bà-la-môn giáo, theo truyền thống
Vệ-đà. Cả hai đời vua đều không phải Phật giáo nhưng các bộ phái Phật giáo vẫn
phát triển bình thường.
1. Hoàng
đế Caṇda Asoka
Bindusāra băng hà, theo lệ thường, thì hoàng tử trưởng là thái tử Surima sẽ lên
ngôi. Nhưng Asoka, là hoàng tử thứ đệ, lúc ấy đang trấn nhậm tại Vidisa (có nơi
nói là vùng Avantī, thành phố Ujjenī) lại kéo quân về kinh đô Pāṭaliputta, giết chết cả hoàng tộc, chỉ giữ lại một
người em cùng mẹ là Tissa – rồi lên nối ngôi vua[3].
Bản chất
Asoka rất hung tàn, bạo ngược nên ai cũng gọi ông là Caṇda Asoka (A-dục hung bạo). Caṇda Asoka sùng mộ Bà-la-môn như cha mình lại háo
chiến háo thắng. Ông xua quân lên phía Bắc, Tây Bắc, xuống phía Nam, phía Đông
lần lượt chinh phục hết cả lãnh thổ Ấn Độ. Nơi nào có ý hung hăng chống trả là
ông tàn sát hết sau khi chiếm thành. Đế quốc thời Caṇda Asoka mênh mông, rộng lớn, kéo dài lên đến tận
Pakistan, Afghanistan, Iran, Irac, Ba Tư, Syrie… ngày nay. Các sử liệu nói rằng,
ông đã có một cuộc tàn sát đẫm máu, không chừa một ai tại xứ Kalingā. Đây là cứ
điểm sau rốt, họ quyết định kháng cự đến hơi thở cuối cùng, nên Caṇda Asoka
đã trút cơn phẫn nộ của địa ngục. Sau cuộc chiến thắng hung tàn, đâu đâu cũng
tanh mùi máu, đâu đâu cũng xác người không còn nguyên vẹn, đứt lìa, sình thối…
Caṇda Asoka chống gươm lặng ngắm thảm cảnh kinh
hoàng. Trái tim của vị đại đế chùng xuống, ông cảm thấy hối hận, bẻ lưỡi gươm
thề, quyết định từ nay không sử dụng vũ lực để gây nên một cuộc can qua nào nữa.
Duyên lành đã đến, ông gặp Sa-di Nigrodha (có nơi nói là trưởng lão Samudda),
nói về một giáo lý hàn gắn vết thương, xóa bỏ hận thù và sống với nhau bằng lòng
nhân ái. Caṇda Asoka nguyện trở thành một
Phật tử, và muốn cai trị toàn dân theo giáo pháp trí tuệ và từ bi của đức Thế
Tôn.
2. Đại
đế Asoka và Phật giáo
Trong
rất nhiều bi ký bằng tiếng Pāḷi (hoặc
rất gần với Pāḷi đã
định hình sau này), rải rác khắp xứ Ấn Độ, các nhà khảo cổ đã đọc nhiều tư liệu,
theo đó, biết được hành trạng và công đức của vị vua này với Phật giáo.
Ta có
thể ghi lại những điểm nổi bật của ông:
- Nhà
vua tôn kính Phật, kinh, luật và Tăng đoàn. Ngài tìm cách phổ cập giáo pháp của
đức Phật khắp dân gian để mọi người cùng đọc, hiểu, thấm nhuần mà sống với nhau
cho tốt hơn.
- Nhà
vua tôn trọng sự sống thiêng liêng nên kết tội việc giết mổ súc vật dù để cúng
tế, tiệc tùng hay làm gì khác. Ngay nhà trù của hoàng gia cũng cấm tuyệt, chỉ
được phép dùng tam tịnh nhục. Điều luật này còn được áp dụng “bất sát” với chim
bồ câu và lợn nái, còn kết tội việc thiến hoạn hoặc đóng dấu sắt lên súc vật
nữa.
- Khuyến
khích nhân dân trau dồi đạo đức, phẩm hạnh: Sống chân thật, có từ bi tâm, nuôi
mạng chân chánh, trong sạch, hòa nhã… Biết vâng lời các bậc trưởng thượng, thầy
dạy học, rộng rãi với bạn bè, thân quyến. Với người làm công, kẻ nô lệ cũng phải
được đối xử tốt, bằng tình thương. Có hai bài kinh là Maṅgalasutta (Hạnh phúc kinh) và
Sīgālovāda (Thi-ca-la-việt) mà đức vua ban chỉ dụ là không một Phật tử nào là
được quyền không biết đến[4].
- Những
thói hư tật xấu hoặc những tâm địa, ý tưởng bất thiện cần phải được ngăn chặn,
như: Giận dữ, hung hăng, tự đắc, ganh tỵ, ngang bướng…
- Về
lãnh vực tư tưởng các tín ngưỡng thì nhà vua khuyên thần dân của ngài phải dung
nạp tất cả mọi hệ phái, giáo phái; kính trọng tất thảy mọi tu sĩ, Sa-môn,
Bà-la-môn. Nhà vua cũng thành thật khuyên các giáo phái hãy thôi tự khen tụng
mình và chỉ trích giáo pháp khác.
- Các
việc công ích xã hội, phục vụ cộng đồng, nhà vua khuyến khích trồng cây, trồng
dược thảo, trồng rừng, xây cầu, đào giếng, hầm vệ sinh, đắp đường, trại tế bần,
bệnh xá cho người và cả súc vật nữa. Những việc có tính từ thiện xã hội ấy lan
sang các nước láng giềng, đến tận cả Srilaṅca.
- Vua
đối xử với thần dân bằng thứ tình cảm cha con và chân tình mưu cầu cho hạnh phúc
của họ. Tội tù được ân xá từng đợt; và ông mong ước rằng, trong tương lai, quốc
độ của ông sẽ không còn nhà tù, thay vào đấy là những trường học, những tịnh xá
hoàn thiện nhân cách con người.
Chính
nhờ sự sáng suốt và tấm lòng nhân hậu của đấng minh quân ấy mà tất cả mọi lân
bang đều mến phục, quy thuận, giao hảo một cách chân thành. Cảm mộ ngài đến nỗi,
người ta đã khắc lên bia đá lời tán thán ngài như tán thán thần linh:
“- Hãy
đến với triều đại huy hoàng này, triều đại của vị minh quân sống theo giáo pháp.
Nơi đây không có tiếng trống trận, chỉ có âm thanh trầm hùng của tiếng trống
chánh pháp. Đã lâu xưa quá rồi, người dân Ấn đã không còn gần gũi với thiên
thần, bây giờ lại khác hẳn, người ta đã diện kiến với thiên thần thật sự ở đây
rồi!”
3. Đại
đế Asoka với việc chấn chỉnh giáo pháp: Cuộc kết tập Phật ngôn lần thứ III
Theo bộ
Mahāvaṃsa (Đại sử) cho biết với đại ý:
Nhà vua rất sùng mộ Phật giáo nên đã cho xây dựng nhiều chùa chiền, tịnh xá, bảo
tháp thờ Xá-lợi (có tư liệu nói là 84.000 bảo tháp) rải rác khắp Ấn Độ. Đối với
tứ sự cúng dường, nhà vua rất rộng rãi vì mong cho Tăng-già đầy đủ, chỉ còn để
tâm vào việc tu học mà thôi. Cũng vì đời sống của Tăng chúng quá sung túc nên
hấp dẫn nhiều tu sĩ ngoại giáo len lỏi gia nhập vào Tăng đoàn. Thời gian sau,
chính vì sự lẫn lộn ô hợp, phức tạp này mà đời sống Tăng-già mất sự an bình và
thanh tịnh, đến nổi không phân biệt được ai chánh ai tà, không ai còn biết tin
tưởng vào ai, nói gì đến lục hòa, tứ nhiếp? Chư Tăng kết phe, kết nhóm, mạnh ai
muốn làm gì thì làm. Suốt 7 năm trường, tại một ngôi chùa lớn trong kinh đô, chư
Tăng chưa một lần họp nhau lại để làm lễ phát-lồ. Biết được chuyện đó, đức vua
cử một vị đại thần đến nhắc nhở, Tăng chúng cứng đầu không nghe theo lệnh vua.
Tức giận, vị đại thần đem chặt đầu rất nhiều vị sư. Sau đó nhờ có vị tỳ-khưu tên
là Tissa, vốn là anh em với vua đích thân đến ngăn cản. Vị đại thần không dám
giết ngài Tissa, về tâu báo lại mọi việc cho vua hay. Nghe đầu đuôi tự sự, nhà
vua vô cùng kinh sợ, nghĩ rằng mình đã mang trọng nghiệp thảm sát Tăng chúng.
Hối hận,
bứt rứt nên đức vua đi tham vấn nhiều vị trưởng lão, những mong các ngài giải
tỏa cho nỗi lo sợ, nhưng câu trả lời nào cũng không làm cho vua được an tâm. Sau
rốt, theo ý kiến của chư trưởng lão, đức vua nên thỉnh thị tư vấn nơi đức đại
Thánh Tăng Moggallīputta Tissa, một vị trưởng lão khả kính, trí tuệ thông bác,
đạo hạnh đoan nghiêm; vốn là thầy tế độ hoàng tử Mahinda, con trai trưởng của
ngài. Như bừng tỉnh, đức vua cấp tốc cử một đoàn đại thần sứ giả lên tận núi
Adhogaṅgā, cung thỉnh ngài về triều. Lặng nghe phái đoàn
trình bày xong, trưởng lão Moggallīputta Tissa từ chối, nói rằng, lý do của đức
vua đưa ra chưa chính đáng để ngài phải rời núi.
Phái
đoàn về trình tấu lại, đức vua chợt như sáng dạ, Tăng gấp đôi số đại thần sứ giả
lên lại núi Adhogaṅgā,
thỉnh nguyện ngài với lý do chính đáng hơn: “Phật giáo đang có nguy cơ suy tàn
vì phi Tăng lẫn lộn với chơn Tăng, bởi tà giáo lẫn lộn trong chánh giáo. Xin
ngài hãy trở về chấn chỉnh lại”.
Biết lời
yêu cầu của đức vua đúng với tâm nguyện của mình, trưởng lão đắp y, mang bát
trực chỉ kinh thành. Về việc hối hận, bứt rứt, ăn năn của nhà vua, trưởng lão
chỉ thuyết một cách ngắn gọn. Nói rằng, đức Phật dạy “tư tác là nghiệp”, đức vua
không có tư tác giết hại nên sẽ không mang nghiệp giết hại. Ngoài ra, đức vua
còn có ý tốt là nhắc nhở chư Tăng làm lễ phát-lồ. Vậy, đức vua đã không có tội
gì mà ngược lại, đã tạo nên nghiệp tốt, rất tốt cho tòa nhà giáo pháp.
Đại đế
Asoka thở phào, nhẹ nhõm. Sau đó, ông tỉ mỉ hỏi trưởng lão một số điểm về giáo
pháp để tự mình có thể tu tập, đồng thời, đem đến hạnh phúc cho muôn dân.
Là bậc
Thánh Tứ quả làu thông Phật ngôn, trí tuệ thiện xảo, ưu việt, với vài lời giáo
giới ngắn gọn, súc tích, trưởng lão đưa thẳng vào tâm đức vua những điểm giáo
pháp cốt lõi nhất, cần yếu nhất. Nhân dịp này, trưởng lão còn trình bày thêm một
số phương pháp để điều chỉnh kinh, luật cũng như chấn chỉnh Tăng đoàn. Vô cùng
hoan hỷ, đức vua hứa ủng hộ trưởng lão hết mình hầu đem lại sự trong sáng, thanh
tịnh cho đất Phật.
Vì tất
cả duyên sự ấy, cuộc thanh lọc vĩ đại trong Tăng chúng đã xảy ra. Sử liệu không
ở đâu nói đến rõ ràng, làm thế nào để phát hiện số phi Tăng do ngoại đạo trà
trộn vào. Nhưng theo Mahāvaṃsa và Samantapāsādikā thì có đến
60.000 vị sư bị trục xuất khỏi giáo hội trong cuộc thanh trừng này.
Khi nội
bộ Tăng chúng được yên tĩnh, trưởng lão cho mời thỉnh khắp núi non, thành phố,
thị trấn… những vị trưởng lão cao đức, rành rẽ Phật ngôn; lại tuyển chọn trong
Tăng-già các vị sư uyên bác, đạo hạnh – tất thảy là 1000 vị – để tổ chức đại hội
kết tập Phật ngôn lần thứ III.
Đại đế
Asoka hân hoan cúng dường tất cả mọi phí tổn. Đại hội diễn ra tại chùa
Asokārāma, sát hoàng cung, kinh đô Pāṭaliputta (Hoa thị thành) vào năm 216 sau khi Phật
Niết-bàn (đôi chỗ là 218, 234).
Cách
thức kết tập tuy giống như hai lần trước nhưng nội dung có một số điểm hơi khác:
- Về
Kinh, Luật: Lần I, lần II chỉ loại bớt một số giới điều xét ra là nhỏ nhặt, chi
tiết, nhưng lần này Theravāda phải so sánh, đối chiếu toàn bộ nội dung cả kinh
và luật của tất thảy 18 bộ phái (hoặc 20) được tách rời từ Thượng tọa bộ và Đại
chúng bộ.
- Về
Abhidhamma: Trước đây nằm rải rác trong kinh, nhưng suốt hơn 200 năm lưu truyền,
đến thời điểm này, đã tách thành một tạng riêng.
Sau đại
hội, trưởng lão Moggallīputta Tissa đúc kết lại, cả Tam Tạng, các vị kết tập sư
điều chỉnh 216 vấn đề sai lầm. May mắn thay, tập sách này, Kathāvatthu (Dị bộ
luận) đến nay vẫn còn, nó là phần cuối của bảy bộ Abhidhamma.
Cuộc kết
tập 10 tháng mới xong.
4. Những
phái đoàn truyền giáo
Mặc dầu
trong Tam Tạng đã được điều chỉnh, nội bộ Tăng lữ cũng được chấn chỉnh, đi vào
nề nếp; nhưng các bộ phái với những tri kiến dị biệt vẫn phát triển tự nhiên như
cỏ hôi xen với cỏ thơm trong một khu vườn. Có giữ cỏ này, nhổ cỏ kia, thì sau
này chúng vẫn mọc lại. Ở cái đất mà tư tưởng Bà-la-môn Vệ-đà, Áo-nghĩa-thư đã
len thấm trong đời sống tín ngưỡng, văn hóa, tập quán sinh hoạt – thì sự trong
sáng của Phật giáo, một thời gian nào đó cũng bị lây nhiễm, xen tạp. Đại hội kết
tập vừa chứng minh điều đó qua những câu hỏi về Atman, về thực ngã… là một ví
dụ. Phải đem cỏ thơm ươm trồng một nơi khác, thổ nhưỡng khác.
Sau khi
suy nghĩ như vậy, trưởng lão Moggallīputta Tissa cùng với các bậc cao đức khác,
thỉnh thị ý kiến của đại đế Asoka; và nhờ vua hỗ trợ, cho họp Tăng chúng rồi đề
cử 9 phái đoàn truyền giáo đi đến các xứ, các nước, các vùng đất xa xôi.
Sau đây
là danh sách 9 phái đoàn mà rất nhiều sử liệu còn để lại.
- Phái
đoàn 1: Trưởng lão Mahinda (Hoàng tử
con vua A dục) làm trưởng phái đoàn, tháp tùng có trưởng lão Iṭṭiya, Uṭṭiya,
Sambala, Bhaddasāla, sa-di Sumana cùng với cận sự nam Bhaṇḍuka; đi truyền giáo ở Srilaṅca vào thời vua Devānaṃpiyatissa
(Phái đoàn này mạnh nhất và thành công nhất).
- Phái
đoàn 2: Chỉ có một mình trưởng lão
Majjhantika đảm nhận trọng trách hoằng hóa ở Gandhāra và Kashmire.
- Phái
đoàn 3: Một mình trưởng lão Mahādeva[5] đi đến truyền giáo tại xứ
Mahisāsakamandala – tức vùng hạ lưu sông Godhavāri (Mysor ngày nay).
-Phái
đoàn 4: Trưởng lão Rakkhita một mình đi
đến xứ Vanavāsī, tức miền bắc Kanarāở phía Tây Nam Ấn Độ. (Theo Mahāvaṃsa (Đại sử) thì ở đây có đến 500
ngôi tịnh xá lúc Phật giáo vừa du nhập).
- Phái
đoàn 5: Trưởng lão
Yonakadhammarakkhita, vị A-la-hán người Hy Lạp thì một mình đến hoằng pháp tại
xứ Aparanta (Bombay ngày nay).
- Phái
đoàn 6: Trưởng lão Mahārakkhita đi sang
các xứ miền Trung Á, Bắc Iran (xưa gọi là Yonaka).
- Phái
đoàn 7: Trưởng lão Majjhima làm trưởng
phái đoàn, cùng đi với 4 vị trưởng lão khác là Kassapagotta, Mūlakadeva,
Dundubhisara, Deva để đảm trách hoằng hóa các xứ thuộc khu vực Himayayas.
- Phái
đoàn 8: Ngài Soṇa và Uṭṭara thì đến các nước thuộc vùng đất “Kim Địa”
(Suvaṇṇabhūmi)
mà nay có thể gồm các nước Miến Điện, Thái Lan, Lào và Việt Nam (sử liệu chưa
xác định rõ).
- Phái
đoàn 9: Ngài Mahādhammarakhitta đi đến
truyền giáo tại Mahāraṭṭha (Đông Bắc Bom Bay).
Trong 9
phái đoàn này, đa phần phái đoàn nào nhiều người thì được phát triển xa rộng,
thịnh đạt; trái lại, nếu chỉ có một mình thì khó phát triển; ban đầu có lập được
căn cứ địa thì sau đó, một thì lụi tàn, hai là biến đổi hẳn sang một bộ phái
khác. Có sử liệu nói rằng, ngài Mahādeva – phái đoàn 3 – là tổ sư phái
Cetiyagirivāda (Chế đa sơn bộ); ngài Kassapagotta làm tổ sư phái Kassapapikavāda
(Ẩm quang bộ), và còn nữa…
Chú
thích:
(1)
Có sử liệu nói rằng, chiến lợi phẩm của A-lịch-sơn Đại đế – ngoài vàng bạc, châu
báu, còn lại là kinh sách, cổ thư, các nhà học giả thông thái, các triết gia
uyên bác.
(2) Sau
khi dòng Thích-ca bị thái tử Vidūdabha tàn sát thì có một nhóm người tẩu thoát
vào núi sâu, dần dần lập quốc độ ở đó. Chỗ này có nhiều chim công nên họ lấy tên
nước là Moriya (Khổng tước).
(3) Có
tư liệu nói là Caṇda Asoka có cả trăm huynh đệ
cùng chá khác mẹ; Tissa này là áp chót, sau này xuất gia và ngăn cản được lưỡi
gươm của đại thần tàn hại Tăng chúng.
(4) Một
bài là 38 pháp hạnh phúc. Một bài nói về một gia chủ đảnh lễ sáu phương, sau đó,
đức Phật dạy là nên đảnh lễ những bậc thánh hạnh, những người đã từ bỏ những
thói hư, tật xấu, từ bỏ tham lam, sân hận, si mê, ác nghiệp… Đồng thời nêu ra
cách sống thế nào cho tốt đẹp.
(5) Vị
này không phải là vị trong “ Đại Thiên ngũ sự”; không biết ngài có liên hệ gì
với Mahādeva, là tổ sư của phái Chế-đa-sơn bộ (Cetiyagiri – núi Tháp).