Thích Hạnh Chơn
Tất cả các dân tộc tồn tại trên thế giới dù ít hay nhiều đều có lễ hội. Có thể
nói, lễ hội là một hình thức phản ảnh đời sống sinh hoạt văn hóa của một cộng
đồng. Cũng như các cộng đồng dân tộc khác, cộng đồng người Hoa ở Thái Lan có một
lễ hội rất có ý nghĩa nhân văn được gọi là Lễ hội ăn chay hay Cửu hoàng thắng hội. Đây là lễ hội được
tổ chức để các thành viên trong cộng đồng tập trung về các hội đoàn – nơi thờ
Phật, chư vị thần thánh và tổ tiên để tụng kinh, cầu nguyện, thực hành thiện
nghiệp nhằm thể hiện lòng tri ân đối với chư vị thánh thần và cũng là để tạo
phước, tu tập thanh lọc thân tâm. Cửu
hoàng thắng hội
diễn ra từ ngày mồng một đến mồng chín tháng chín hằng năm như là một lễ hội
truyền thống không thể thiếu đối với những người Hoa trên đất Thái. Trong bài
viết này, qua sự tìm hiểu, khảo cứu của mình, người viết muốn cung cấp một số
thông tin về nguồn gốc và ý nghĩa của lễ hội này; qua đó, so sánh nó với pháp
hành ăn chay của Phật tử Việt Nam cũng như tìm hiểu về sự tuân thủ của họ đối
với pháp hành này như thế nào trong đời sống hiện nay.
Nguồn gốc Lễ hội
Nguồn gốc Lễ hội ăn chay
của cộng đồng người Hoa tại Thái Lan được ghi lại là xuất phát từ một trận dịch
bệnh khủng khiếp xảy ra vào thế kỷ XIX. Theo sử liệu, người Hoa từ các tỉnh Phúc
Kiến và Quảng Đông bắt đầu đến Thái Lan từ thế kỷ XVII. Đến năm 1825, dân số
cộng đồng là 230.000 người.
Người ta kể rằng vào năm này một trận dịch bệnh huyền bí đã tấn công đoàn ca
kịch được mời từ Trung Hoa đến Phuket để biểu diễn nhiều tháng cho những người
thợ mỏ gốc Hoa ở đây xem. Tai họa này khiến cho các vị lãnh đạo của đoàn phải
họp lại để tìm nguyên nhân. Cuối cùng họ tin rằng nguyên nhân là do xao lãng
việc thực hiện các lễ nghi truyền thống mà họ đã thường thực hành lúc còn ở quê
nhà. Do đó, họ ra lệnh cả đoàn phải thực hành một kỳ hạn ăn chay và cầu nguyện
“Cửu hoàng”
nhằm thanh tịnh hóa thân tâm và sám hối. Sau chín ngày đêm tu hành sám hối, bệnh
tự nhiên hết một cách huyền bí như khi nó xuất hiện. Từ đó, hằng năm họ đều thực
hành một kỳ ăn chay thanh tịnh chín ngày để tạ ơn thánh thần và thanh tịnh hóa
thân tâm. Về sau, nó trở thành lễ hội cho tất cả các cộng đồng người Hoa trên
nước Thái.
Ý nghĩa Lễ hội
Lễ hội như thế mang hai ý nghĩa là tạ ơn thánh thần và tu tập thanh tịnh thân
tâm. Dù câu chuyện mang tính huyền bí nhưng tinh thần “tri ân và báo ân” là đạo
lý đẹp của nền văn hóa, tôn giáo phương Đông. Từ một câu chuyện nhỏ này, nó tạo
nên một lễ hội lớn và rộng khắp cả nước Thái là một điều đáng ghi nhận. Điều đó
cho thấy cộng đồng người Hoa rất coi trọng việc cúng bái thần thánh, tổ tiên có
gốc rễ từ Đạo giáo. Tuy nhiên, yếu tố Phật giáo dần dần cũng được đưa vào làm
cho lễ hội đa sắc hơn. Bên cạnh niềm tin cầu nguyện chín vị thần, họ giải thích
thêm rằng chín vị ấy là bảy vị Phật và hai vị Bồ-tát. Nỗ lực đưa yếu tố Phật
giáo vào lễ hội được thấy rõ hơn qua mười điều răn
mà một người tham gia lễ hội phải thực hành để tịnh hóa thân tâm. Mười điều răn
này rất tương đồng với năm giới hay tám giới Bát quan trai của người cư sĩ. Giữ
mười điều răn trong suốt lễ hội là một sự tu tập. Ít nhiều nó giúp tịnh hóa thân
tâm của người tham gia lễ hội. Theo họ, nhiều người cùng tham gia tu tập thì gia
đình sẽ bình an hạnh phúc, cộng đồng sẽ trở nên tốt đẹp hơn, xã hội sẽ ổn định
hơn, đất nước sẽ hòa bình lâu dài, thế giới sẽ giảm thiểu chiến tranh. Ngoài ra,
lễ hội cũng là dịp để mọi người tập trung sinh hoạt vui chơi, giải trí và qua đó
họ giữ gìn truyền thống văn hóa tốt đẹp.
Câu hỏi đặt ra là tại sao từ một sự việc nhỏ chỉ liên quan đến một một nhóm
người, nhưng sự thực hành này có thể được noi theo và tiếp tục mở rộng kéo dài
cho đến ngày nay? Như đã đề cập, việc cầu mong một đời sống tốt đẹp như sức
khỏe, bình an, hạnh phúc và sức sống văn hóa cho người thực hành và cộng đồng là
một trong những lý do của lễ hội, và có thể điều đó đã được hiện thực hóa khiến
cho truyền thống ấy được phát triển cả không gian lẫn thời gian. Tuy nhiên, tinh
thần tu tập và ý thức gìn giữ văn hóa tôn giáo của cộng đồng mới là yếu tố quyết
định. Vậy thì, tinh thần này đối với việc thực hành ăn chay của người Phật tử
Việt Nam có gì khác biệt? Đây là vấn đề mà chúng ta sẽ tìm hiểu và so sánh, đối
chiếu.
Ăn chay là một pháp hành của người
Phật tử Bắc truyền
Theo truyền thống Bắc truyền, ăn chay là một pháp (hành) bắt buộc đối với người
xuất gia lẫn cư sĩ. Trong khi người xuất gia phải thực hành ăn chay trường thì
người cư sĩ ít nhất một tháng cũng phải ăn chay hai ngày vào đầu và giữa mỗi
tháng. Pháp hành này có nguồn gốc từ kinh luật Phật giáo.
Thứ nhất, pháp hành ăn chay có thể suy ra từ trong kinh luật. Trong kinh
Người áo trắng
hay còn gọi kinh Gia chủ, phẩm thứ
năm, chương năm thuộc kinh Tăng chi, Đức Phật dạy: “Một người cư sĩ biết hộ trì
năm giới pháp và tu tập bốn tâm cao thượng thì có thể dễ dàng đạt được hạnh phúc
trong hiện tại và biết chắc sẽ không đọa lạc vào các nẻo ác trong tương lai”.
Không sát sanh được hiểu bao gồm từ bỏ giết hại, bảo vệ mọi loài vật và tu tập
hạnh từ bi là một trong năm giới pháp. Với người xuất gia thọ mười điều học
(giới) thì điều thứ nhất dạy tránh xa sự giết hại mạng sống.
Đặc biệt, người xuất gia thọ đại giới (giới Tỳ-kheo) thì thọ trì thêm các giới
như: không giết người thuộc giới thứ ba trong bốn giới nặng (ba-la-di); không
dùng nước có trùng, không cố hại súc sanh và không uống nước có trùng thuộc các
giới thứ 19, 61, 62 theo thứ tự trong 90 giới đọa.
Tất nhiên, người thọ đại giới phải hành trì bao hàm tất cả các giới luật khác,
trong đó không thể thiếu năm giới căn bản.
Thứ hai, pháp hành ăn chay được ghi
rõ trong giới kinh Đại thừa. Trong kinh
Phạm võng, không sát sanh là giới thứ nhất trong mười giới nặng thuộc giới
Bồ-tát. Kinh dạy rằng “là Phật tử thì phải luôn luôn có lòng từ bi, lòng hiếu
thuận, cứu giúp chúng sanh, nỡ lòng nào sát hại”. Cụ thể hơn, kinh này quy định
không được ăn thịt theo giới thứ 3 trong 48 giới nhẹ. Lý do là “ăn thịt làm mất
lòng đại bi, dứt giống Phật tánh…”.
Căn cứ vào kinh luật vừa nêu, Đức Phật không bắt buộc ăn chay (không ăn thịt)
như là một giới điều nhưng nó được bổ sung bởi chư Tổ. Có thể bối cảnh xã hội Ấn
Độ phần lớn đều ăn chay nên chế giới thêm là không thích hợp. Tuy nhiên, pháp
hành ăn chay lại được chư Tổ quy định bắt buộc đối với Phật tử Bắc truyền. Có
thể nói, đó là sự vận dụng Phật pháp một cách linh hoạt và phù hợp với tôn chỉ
của Phật trong hoàn cảnh môi trường mới, nơi mà sự sát hại không được quan tâm
giảm thiểu. Hơn nữa, ăn chay là thích hợp với chế độ sinh hoạt Tăng đoàn không
hành pháp khất thực. Chính vì những lý do này, dù trải qua thời gian trên dưới
hai thiên niên kỷ, pháp hành này vẫn được tuân thủ tại Việt Nam.
Thái độ hành trì pháp hành ăn chay
hiện nay
Thực hành hạnh từ bi của người Phật tử Việt Nam thông qua pháp hành ăn chay hiện
nay mang tính tự phát và chưa đồng bộ. Đối với người xuất gia, trừ một số vùng
thì hầu hết Tăng Ni bắt buộc phải ăn chay trường. Với cư sĩ, trong khi một số
phát nguyện ăn chay trường, chay tháng thì nhiều người một tháng hai ngày cũng
không tuân giữ nghiêm túc. Nhiều gia đình là Phật tử nhưng ngày rằm hay mồng một
cũng chỉ một, hai người trong gia đình ăn chay còn lại không quan tâm vì cho
rằng “tu tại tâm.” Vì sự hành trì không đồng bộ nên chúng ta không thấy có sự
biến đổi tích cực nào vào hai ngày chay này trong cộng đồng Phật tử Việt Nam.
Tuy nhiên, hai ngày chay tịnh hiểu một cách chính xác thì không phải chỉ đề cập
đến vấn đề ẩm thực mà còn là hai ngày tu tập sám hối và làm mới thân tâm. Vào
hai ngày này các chùa đều có lễ sám hối và một số nơi tổ chức tu Bát quan trai.
Ngày nay, do điều kiện xã hội thay đổi, phần lớn cư sĩ không thể tham gia tu tập
vào ban ngày nếu không phải là ngày nghỉ. Tuy nhiên, không tham dự khóa lễ sám
hối hai lần mỗi tháng là điều đáng quan ngại cho người Phật tử. Nếu vì lý do nào
đó không đến chùa sám hối được thì ít ra Phật tử cũng phải tụng kinh sám hối tại
nhà. Nhưng thực tế, sự hành trì sám hối tại nhà còn rất mờ nhạt trong cộng đồng
Phật tử. Tại sao chúng ta không trân quý pháp hành hữu ích mà Phật và chư tổ
truyền dạy? Phải chăng người cư sĩ không có lỗi lầm nên không cần sám hối? Phải
chăng ăn chay và sám hối hai ngày mỗi tháng là hình thức đã lỗi thời? Phải chăng
do câu nói “tu tại tâm” làm cho người Phật tử tự dễ dãi? Thật ra, “tu tại tâm”
không thể biết được nếu nó không được biểu hiện qua ý nghĩ, lời nói và hành
động.
Lời kết
Những câu hỏi vừa nêu trên là những điều người Phật tử cần phải suy nghĩ. Kinh Pháp hoa có một ẩn dụ rất có ý nghĩa. Đó
là gã Cùng Tử có viên ngọc báu trong chéo áo mà không biết nên khổ hoài. Ngày
nay, Phật giáo được thế giới ngưỡng mộ và Liên Hiệp Quốc đã công nhận Đại lễ
Vesak (tiếng Việt là Phật đản) là một lễ hội văn hóa, tôn giáo quốc tế của Liên
Hiệp Quốc. Ấy thế mà, tín đồ Phật giáo dường như chưa thấy giá trị này nên còn
thờ ơ và dễ dàng đánh mất. Đây là một nghịch lý vậy. Nếu so sánh sự tu tập của
tín đồ Phật giáo với sự tu tập của tín đồ các tôn giáo khác và cụ thể là từ
Lễ hội ăn chay, chúng ta có thể nói rằng sự hành trì các pháp hành của tín
đồ Phật giáo còn nhiều xao lãng. Sự hành trì theo truyền thống Phật giáo Bắc
truyền ắt hẳn phải có ăn chay, tụng kinh, bái sám, ngồi thiền. Nếu điều đó được
thực thi, cũng có nghĩa là thể hiện được phần nào sự hưng thịnh của Phật giáo
trong xã hội. Bởi lẽ chúng ta biết rằng, sự thịnh suy của Phật giáo phần lớn là
do sự tu tập của tín đồ quyết định. Nếu Phật tử duy trì và làm cho hai ngày ăn
chay mỗi tháng trở thành ngày văn hóa ăn chay trong cộng đồng tín đồ Phật giáo
và những người thích ăn chay thì đây sẽ là một thành công lớn cho Phật giáo và
xã hội. Nó vừa khuyến khích tín đồ tu tập vừa tạo cho họ môi trường sinh hoạt
cộng đồng lành mạnh. Đó cũng chính là một trong những sự hội nhập của văn hóa
Phật giáo vậy.